Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Đặc tính cá nhân riêng biệt của Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.03 KB, 25 trang )

Khoa khoa học xã hội và nhân văn
Chương trình sư phạm ngữ văn



TIỂU LUẬN
Học phần: Nguyễn Du và Truyện Kiều
ĐỀ TÀI: Đặc tính cá nhân riêng biệt của Thúy Kiều trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài......................................................................................1
II. NỘI DUNG.....................................................................................................2
2.1. Khái niệm đặc tính cá nhân riêng biệt của nhân vật............................2
2.2. Khái quát về Nguyễn Du và Truyện Kiều..............................................2
2.2.1. Khái quát về Nguyễn Du....................................................................2
2.2.1.1. Thời đại của Nguyễn Du..............................................................2
2.2.1.2. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du............................2
2.2.2. Khái quát về Truyện Kiều...................................................................3
2.3. Đặc tính cá nhân riêng biệt của Thúy Kiều...........................................4
2.4. So sánh Thúy Kiều với các nhân vật nữ khác trong Truyện Kiều....13
2.4.1. Nhân vật Thúy Vân...........................................................................13
2.4.2. Nhân vật Hoạn Thư...........................................................................16
2.5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. 21
III. KẾT LUẬN.................................................................................................22
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................23


I. MỞ ĐẦU


I.1. Lý do chọn đề tài
II. Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ là một hiện tượng văn học mà còn là
một hiện tượng văn hóa mang tính phổ quát của xã hội trên mọi phương diện, mọi thời
đại từ sau khi nó ra đời. Truyện Kiều như là một hiện tượng văn hóa đã xuất hiện
nhiều hình thức tiếp nhận tác phẩm khác nhau của các thế hệ độc giả. Nếu tầng lớp
bình dân tiếp nhận Truyện Kiều bằng cách đọc hoặc nghe người khác đọc rồi nhớ và
thuộc; hiểu và lưu truyền; sử dụng tất cả những câu Kiều hay, phù hợp để vận vào
những cảm xúc, tâm trạng của mình; chuyển hóa vào các hình thức sáng tác dân gian
như: tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều, bói Kiều, nhai Kiều,... thì tầng lớp trí thức cũng có
hướng tiếp nhận Truyện Kiều một cách bác học hơn như phê bình, đánh giá theo các
tư tưởng đạo đức Nho giáo; theo một số lý thuyết phương Tây như: phân tâm học, xã
hội học, thi pháp – phong cách học,...
III. Bên cạnh đó, Truyện Kiều cũng là đề tài khơi nguồn cảm hứng cho hàng loạt
tác phẩm thuộc nhiều thể loại văn học nghệ thuật khác như: sân khấu, chèo, tuồng, cải
lương, phim ảnh, hội họa, âm nhạc, đặc biệt là lĩnh vực thơ ca. Về vấn đề nhân vật
trong Truyện Kiều, nhất là các nhân vật chính như Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải,... từ
lâu luôn là đề tài gây nên nhiều ý kiến bình luận khác nhau của các học giả. Đối với
các nhà thơ đương đại chuyên và không chuyên, nhân vật Thúy Kiều lại là nguồn cảm
hứng cho các sáng tác thơ ca của họ với những góc nhìn và cảm xúc khác nhau. Có
thể nói, Nguyễn Du đã đưa nhân vật của mình từ trang văn mà bước ra cuộc đời. Ông
đã xây dựng những hình tượng rất sống động, rất chân thực. Chính vì vậy mà không
biết từ khi nào Truyện Kiều đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong đời
sống tâm hồn người Việt Nam nói chung và văn học nói riêng. Trong chương trình
giáo khoa ở trường phổ thông, Nguyễn Du được đưa vào để giảng dạy với tư cách là
một tác giả lớn của nền thơ ca trung đại Việt Nam. Vì vậy, việc tìm hiểu và phân tích
nhân vật Thúy Kiều để thấy được tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả, khắc
họa tính cách nhân vật nói chung, nhân vật Thúy Kiều nói riêng. Đồng thời việc
nghiên cứu về nhân vật Thúy Kiều đại diện cho tuyến nhân vật chính diện giúp cho
độc giả có cái nhìn chi tiết hơn và có sự so sánh giữa nhân vật Thúy Kiều với các nhân
vật khác trong Truyện Kiều. Điều này cũng rất cần thiết cho chúng ta khi trực tiếp

giảng dạy ở trường Trung học phổ thông trong thời gian sắp tới.
IV.
V.
VI.
VII.
VIII.

1


IX. NỘI DUNG
IX.1. Khái niệm đặc tính cá nhân riêng biệt của nhân vật
X. Đặc tính cá nhân riêng biệt của nhân vật là những đặc điểm về tính cách,
ngoại hình, lời nói, hành động và tâm hồn của nhân vật. Nhờ nhân vật có những đặc
tính riêng biệt như vậy nên tác giả đã xây dựng thành công các hình tượng nhân vật
điển hình, tạo dấu ấn sâu đậm cho các tác phẩm của mình.
X.1. Khái quát về Nguyễn Du và Truyện Kiều
X.1.1. Khái quát về Nguyễn Du
X.1.1.1. Thời đại của Nguyễn Du
XI. Nguyễn Du sinh ra trong thời đại có nhiều biến động dữ dội (cuối thế kỉ
XVIII - đầu thế kỉ XIX). Xã hội phong kiến Việt Nam đã đi đến hồi kết của sự khủng
hoảng. Phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên miên, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn “Một phen thay đổi sơn hà”. Sau đó, phong trào Tây Sơn thất bại, chế độ
phong kiến triều Nguyễn được thiết lập. Những thay đổi kinh thiên động địa ấy khiến
cuộc đời Nguyễn Du cũng chao đảo “thập tải phong trần” (mười năm gió bụi) đó đây.
Cuộc sống phiêu bạt đã đem lại cho ông vốn sống thực tế phong phú, thôi thúc ông
suy ngẫm nhiều về xã hội, về thân phận con người để hướng ngòi bút vào hiện thực:
“Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Đó là tiền đề
quan trọng cho sự hình thành tài năng và bản lĩnh sáng tác văn chương. Những năm
tháng lăn lộn cùng nhân dân, ông còn có dịp học hỏi, thu nhặt được nhiều vốn ngôn

ngữ dân gian, đây là tri thức quý báu để tạo nên phong cách ngôn ngữ Truyện Kiều.
XI.1.1.1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du
XII. Nguyễn Du (1765–1820). Nguyễn Du tên tự là Tố Như, tên hiệu là Thanh
Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ (hay Hồng Sơn liệp hộ). Ông quê làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời thơ ấu ở Thăng Long. Nơi
sinh là phường Bích Câu, thành Thăng Long (Hà Nội).
XIII. Nguyễn Du sinh ngày 23/11/ Ất Dậu tức ngày 03/11/1766, trong một gia
đình đại quý tộc sa sút, nổi tiếng về đường khoa bảng, nhiều người đỗ đạt cao và làm
quan to. Gia đình Nguyễn Du có bề dày về lịch sử truyền thống văn học nghệ thuật.
Nguyễn Du may mắn được tiếp nhận truyền thống văn hóa của nhiều vùng quê khác
nhau. Đó là tiền đề thuận lợi cho sự tổng hợp nghệ thuật của ông.
XIV. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình đại qúy tộc vào loại bậc nhất lúc
đương thời. Dòng họ có nhiều đời làm quan dưới triều Lê - Trịnh, giữ nhiều chức vụ
quan trọng trong triều đình, nhiều người trong dòng họ còn viết sách, làm văn, làm
thơ, dịch giả... Sống trong gia đình giàu truyền thống hiếu học như thế, năng khiếu
văn học của Nguyễn Du sớm có điều kiện nảy nở, phát triển. Thân sinh của Nguyễn
Du là ông Nguyễn Nghiễm vốn thông minh, học rộng, làm quan thường được thăng

2


thưởng, từng giữ đến chức Tể tướng trong triều đình. Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị
Tần, người vùng Kinh Bắc, vốn là vùng quan họ nổi tiếng. Là một người con, Nguyễn
Du sẽ phần nào thừa hưởng tố chất thông minh từ thân sinh và tiếp thu tính dân tộc
của làng điệu dân ca từ mẹ. Từ đó tạo thành một hồn thơ dân tộc Nguyễn Du.
XV. Nguyễn Du mồ côi bố mẹ từ sớm, phải đến ở với người anh là Nguyễn
Khản. Nhưng chỉ vài năm sau, gia đình Nguyễn Khản cũng lao đao. Thời gian sau này,
Nguyễn Du về lại Tiên Điền, phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn, chật vật. Tại đây,
nhà thơ có cơ hội tiếp xúc nhiều với tầng lớp bình dân, do đó gần gũi, thấu hiểu và
thông cảm cho cuộc sống nghèo khó, bị bóc lột của họ. Vì thế, trong nhiều sáng tác

của Nguyễn Du, ngôn ngữ bình dân đóng một vai trò quan trọng.
XVI. Ngoài Truyện Kiều nổi tiếng, Nguyễn Du còn có các sáng tác: “Văn chiêu
hồn”, “Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu”, “Thác lời trai phường nón” viết bằng
chữ Nôm và ba tập thơ “Thanh Hiên thi tập”, “Nam Trung tạp ngâm”, “Bắc hành
tạp lục” viết bằng chữ Hán.
XVI.1.1. Khái quát về Truyện Kiều
XVII. Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là tác phẩm được làm
theo thể lục bát, gồm 3254 câu thơ, viết về quãng đời 15 năm lưu lạc của một cô gái
tài sắc nhưng bạc mệnh, họ tên là Vương Thúy Kiều. Truyện Kiều ra đời vào khoảng
năm 1805-1809, lúc Nguyễn Du đang tại chức quan Đông các. Nguyên tên của Truyện
Kiều là “Đoạn trường tân thanh”, là tác phẩm được viết dựa theo tác phẩm cổ của
Trung Quốc tên là “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân.
XVIII. Truyện Kiều được viết bằng cảm hứng nhân đạo có ý nghĩa xã hội rộng
lớn và sâu sắc. Cảm hứng nhân đạo ấy là nỗi đau nhân tình, được viết bằng nhận thức,
suy nghĩ, đau đớn của Nguyễn Du về cuộc đời, con người. Đó là bức tranh rộng lớn về
cuộc sống thời đại nhà thơ đang sống, nổi bật nhất là sự đối lập gay gắt giữa quyền
sống của con người với sự áp bức của chế độ phong kiến xưa.Tuy được viết dựa vào
tác phẩm sẵn có nhưng khi sáng tác Truyện Kiều, Nguyễn Du không giữ lại toàn bộ
các tình tiết mà chỉ giữ những tình tiết chính, biến cố chính, những gì là phù hợp với
bối cảnh Việt Nam. So với “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân thì
Truyện Kiều có cách xây dựng nhân vật không khô khan, gò bó mà sinh động và
mang chiều sâu tâm trạng, các tình tiết trong Truyện Kiều cũng nhất quán hơn và có ý
nghĩa xã hội sâu sắc.
XIX. Nguyễn Du còn đưa vào sáng tác của mình nhiều đoạn tả cảnh, tả tình đặc
sắc. Trong đó có nhiều đoạn tả cảnh được xây dựng rất thành công, có sức thu hút, lay
động lòng người. Cảnh trong Truyện Kiều không những miêu tả được vẻ đẹp muôn
hình vạn trạng của thiên nhiên mà còn thể hiện được chiều sâu tâm trạng nhân vật.
Đặc biệt, Truyện Kiều đã khẳng định một cách thuyết phục và đầy đủ về khả năng to
lớn và phong phú của ngôn ngữ dân tộc.


3


XIX.1. Đặc tính cá nhân riêng biệt của Thúy Kiều
XX. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo (nửa
cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX – cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói của thương cảm
trước số phận (thời đại) bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực
xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân
chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, công lý, khát
vọng tình yêu hạnh phúc…Tiếng nói nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng nhân vật
Thuý Kiều trong truyện Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nỗi đau và bất hạnh.
Nàng là một người con gái tài sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập,
đoạ đày. Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ
những bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch tình
yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm. Tình yêu Kim Trọng - Thuý Kiều là một
tình yêu lí tưởng với “Người quốc sắc, kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường
đứt gánh tương tư”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ và không bao giờ
hàn gắn được, tuy “màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm
mưa sầu”. Hạnh phúc nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất. Kiều là
người luôn có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà đạp về nhân phẩm.
Nàng trở thành “món hàng” để kẻ buôn người họ Mã “cò kè bớt một thêm hai”. Rồi
nàng phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh, phải “Thanh lâu hai lượt thanh
y hai lần”. Nỗi đau nhất của cuộc đời Kiều chính là:
XXI. “Thân lươn bao quản lần đầu
XXII. chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”.
XXIII. Có nỗi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, luôn có ý thức về
nhân phẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm? Đời Kiều không phải chỉ là
một tấm bi kịch, mà là những chuỗi dài những bi kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố
cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống, bị đạp xuống sâu thêm một tầng nữa.

XXIV. Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài của
Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp và tài năng của Kiều, Nguyễn Du đã sử
dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hoá để trân trọng một vẻ đẹp.
Thúy Kiều được miêu tả qua ngòi bút của Nguyễn Du là một người con gái có vẻ đẹp
nghiêng nước nghiêng thành.
XXV. “Kiều càng sắc sảo mặn mà
XXVI. So bề tài sắc lại là phần hơn.
XXVII. Làn thu thủy nét xuân sơn
XXVIII. Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
XXIX. Một hai nghiêng nước nghiêng thành”.

4


XXX. Vẻ đẹp của Kiều “sắc sảo mặn mà”, một giai nhân tinh anh linh hoạt và
đằm thắm mặn mà. Một nhan sắc rực rỡ và cũng có thể dùng cả từ “nồng nàn”, “hấp
dẫn” bởi bên trong ẩn giấu sự thông tuệ và một tâm hồn phong phú, một trái tim giàu
xúc động. Đôi mắt Thúy Kiều sáng long lanh như nước mùa thu, lông mày đẹp thanh
tú như dáng núi mùa xuân. Tác giả không tả nhiều về Kiều mà chỉ xoay quanh đôi mắt
nàng bởi lẽ đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là sự tinh anh của trí tuệ. Hình ảnh “làn thu
thủy nét xuân sơn” đã làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, một vẻ đẹp tuyệt diệu. Nàng
Kiều đẹp đến mức “nghiêng nước nghiêng thành”, đến “hoa” cũng phải “ghen” vì
“thua thắm”, “liễu” cũng phải “hờn” vì “kém xanh”. Tả Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút
pháp đặc tả đôi mắt để qua đó nói lên vẻ đẹp trong thế giới tâm hồn, nhân cách của
nhân vật. Kiều đẹp đến mức hoa ghen liễu hờn, thiên nhiên cũng sinh lòng đố kị, vì
thế mà số phận long đong cực khổ. Điều này cho thấy sắc đẹp của Kiều đã đạt đến độ
hoàn mĩ.
XXXI. Kiều không chỉ có vẻ đẹp quốc sắc thiên hương mà nàng còn là một
người con gái tài năng, “cầm kỳ thi họa” đều giỏi giang:
XXXII. “Thông minh vốn sẵn tính trời

XXXIII. Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
XXXIV. Cung thương làu bậc ngũ âm
XXXV. Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.”
XXXVI. Ánh sáng trí tuệ là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thúy Kiều, cách đưa
từ ngữ “thông minh” lên vị trí ở đầu câu đã khiến từ ngữ này trở thành “nhãn tự”, có
tác dụng biểu đạt một nhân cách. Cả ba người đàn ông đi qua đời nàng đều bị lôi cuốn
mạnh mẽ không chỉ vì sắc đẹp và phẩm cách, mà còn vì trí tuệ sắc sảo, tài thơ mẫn
tiệp và tiếng đàn nồng nhiệt của cô gái họ Vương:
XXXVII. “Hoa hương càng tỏa thức hồng,
XXXVIII. Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.”
XXXIX. “Hương càng đượm, lửa càng nồng
XL. Càng sôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen.”
XLI. Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức "làu bậc". Cây đàn mà nàng chơi là cây
Hồ cầm; tiếng đàn của nàng thật hay "ăn đứt" bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng
tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một "thiên bạc mệnh" nghe buồn thê
thiết "não nhân", làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ ngữ: “sắc sảo, mặn
mà, phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, hoạ hai, vốn sẵn, pha
nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân” đã tạo nên một hệ thống ngôn
ngữ cực tả tài sắc và hé lộ, dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:
XLII. "Một vừa hai phải ai ơi!

5


XLIII. Tài tình chi lắm cho trời đất ghen".
XLIV. Đằng sau bút pháp nhân cách hóa thiên nhiên như ghen ghét, giận hờn
của hoa, của liễu… là tạo hóa, là cuộc đời đang mai phục để bắt Thúy Kiều phải trả
giá cho nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành và cho trí tuệ tài hoa có một không hai
của nàng. Điều đó được thể hiện ở việc khi bị số phận đưa đẩy đến lầu xanh hai lần,
Thúy Kiều đã không chọn cái chết để bảo toàn tiết hạnh mà chịu những đau đớn, tủi

nhục của kiếp sống kỹ nữ. Tài đàn, thơ của Kiều có thể là những kỉ xảo thuộc phạm
trù công dung ngôn hạnh của người phụ nữ truyền thống. Nhưng qua câu thơ của
Nguyễn Du, tài hoa đó trở thành sở trường năng khiếu riêng biệt “ Nghề riêng ăn đứt
của này”. Hơn thế nữa còn là thiên hướng cảm hứng của tâm hồn Thúy Kiều, Một
thiên bạc mệnh là khúc nhà riêng biệt của nàng. Cung đàn bạc mệnh ấy là trái tim đa
sầu đa cảm, là trí tuệ sắc sảo nhận thức về số phận hồng nhan nói chung và dự cảm
sáng suốt về số phận của nàng nói riêng. Trong toàn bộ cầm kì thi họa, Nguyễn Du đi
sâu khắc họa tài đàn và cung đàn bạc mệnh của Thúy Kiều “Một thiên bạc mệnh lại
càng não nhân”. Nội dung hàm ý của từ “não” diễn đạt nỗi buồn tự trong tâm. Trong
đỉnh điểm bi kịch của đời nàng, Thúy Kiều đã nhớ đến chặng đời niên thiếu mà nàng
đã sớm dự cảm về thân thế qua cung đàn bạc mệnh này:
XLV. “Thưa rằng bạc mệnh khúc này
XLVI. Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
XLVII. Cung cầm lựa những ngày xưa,
XLVIII. Và gương bạc mệnh bây giờ là đây”
XLIX. Kiều quả là một người tài hoa, “thi họa”và “ca ngâm” nàng đều giỏi.
Nàng rất có tài và tài nào cũng đạt đến đỉnh cao. Vôn tính thông minh trời ban “làu
bậc ngũ âm”, tài năng trí tuệ thật đáng ngưỡng mộ. Một người con gái vừa xinh đẹp
lại có nhiều tài như Kiều quả là hiếm có, đáng trân trọng hơn một viên ngọc quý. Sắc
– Tài – Tình đã trở thành một chuỗi dây oan nghiệt, Tạo hóa đã phú bẩm cho Thúy
Kiều quá nhiều phẩm cách đẹp đẽ với uy lực vô song, trời xanh sẽ đầy đọa, vùi dập
nàng đến cùng để thực hiện thiên lí “bỉ sắc tư phong”, để thực hiện lẽ công bằng:
L. “Có đâu thiên vị người nào,
LI. Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
LII. Có tài mà cậy chi tài,
LIII. Chữ tài liền với chữ tai một vần.”
LIV. Không chỉ vậy, Kiều còn có tâm hồn trong sáng và một trái tim đa sầu đa
cảm, một tâm trạng bi kịch. Khi đi du xuân cùng Thúy Vân, gặp mộ Đạm Tiên - người
phụ nữ xấu số không quen biết, Kiều đã tỏ lòng thương cảm, cảm thông và chia sẻ với
một người xa lạ, Kiều đã cảm thấy rất buồn và thương cho nấm mộ Đạm Tiên bên


6


đường cỏ mọc hoang, không ai chăm sóc. Đó là một người con gái mang kiếp cầm ca,
sống thì bị dè bỉu, chết đi thì nấm mồ cũng vẫn cô đơn hiu quạnh.
LV. “Kiếp hồng nhan có mong manh,
LVI. Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.”
LVII. Phải chăng, cũng từ đây mà một cơn giông tố đang sắp ập đến trên đầu
người thiếu nữ vô tội. Nấm mồ hoang kia phải chăng như một sự báo thức, như đánh
dấu bước ngoặt cuộc đời của Kiều:
LVIII. “Đau đớn thay, phận đàn bà,
LIX. Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung…”
LX. Ngoài ra, Thúy Kiều còn là một người hiếu thảo, nàng sống luôn biết kính
trên nhường dưới, là người sống có hiếu với mẹ cha. Điều đó được thể hiện rõ nhất
khi gia đình Kiều bị mắc oan, Kiều đã hi sinh thân mình, quyết bán mình để cứu cha
và em trai thoát khỏi cảnh tù tội. Chữ hiếu của Kiều luôn đặt cao hơn tất cả và được
thể hiện bằng hành động:
LXI. “Quyết tình nàng mới hạ tình,
LXII. Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.”
LXIII. Trong suốt quãng đời lưu lạc, lúc nào Kiều cũng sống trong băn khoăn
day dứt vì không làm tròn trách nhiệm của người con đối với cha mẹ. Khi bị giam
lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều cũng không thể nguôi nhớ về cha mẹ, nàng nghĩ tới cha
mẹ ở quê nhà và lo lắng suy tư không biết ai sẽ là người chăm lo cho cha mẹ khi về
già, lúc tuổi cao sức yếu:
LXIV. “Xót người tựa cửa hôm mai,
LXV. Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
LXVI. Sân Lai cách mấy nắng mưa,
LXVII. Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”
LXVIII. Tưởng tượng ra hình ảnh “tựa cửa” của mẹ cha ngày ngày vò võ ngóng

trông trong sự chờ mong khắc khoải, nàng nhớ tới Sân Lai và “gốc tử”, tất cả đã đổi
thay. Đó là dấu hiệu của thời gian dần trôi qua lặng lẽ, cũng là lúc cha mẹ rồi sẽ dần
dần già yếu. Nghĩ tới đây thôi Kiều đã day dứt khôn nguôi. Đó cũng chính là nỗi niềm
đau đáu của đứa con đầu lòng không được phụng dưỡng mẹ cha lúc tuổi già sức yếu,
không giữ trọn đạo hiếu làm con. Kiều không biết giờ này ở quê, ai sẽ là người “quạt
nồng ấp lạnh” cho cha mẹ. Tới đây, người đọc càng thấy cảm thông và trân trọng
Thúy Kiều hơn. Bởi dù nàng đã hi sinh bản thân để cứu gia đình, cứu cha mẹ nhưng
vẫn luôn đau đáu nhớ về cha mẹ . Nàng quả là một người con gái có tấm lòng hiếu
thảo và nhân hậu đáng trân trọng.

7


LXIX. Trước tai họa bất ngờ của gia đình, cha bị vu oan, bị tra tấn dã man; nhà
cửa bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa cướp phá tan hoang, trái tim Kiều đau đớn như bị
xé ra từng mảnh:
LXX. “Rường cao rứt ngược dẩy oan,
LXXI. Dẫu là đá cũng nát gan lọ người.”
LXXII. Bị bọn quan lại tham nhũng đẩy vào thế cùng: “Có ba trăm lạng việc
này mới xong” . Không còn cách nào khác, Kiều đã đi đến quyết định hành động
ngoài dự tính của mọi người, ngoài dự tính của chính bản thân nàng đó là bán mình
chuộc cha. Kiều đã gạt chữ tình sang một bên để đáp đền chữ hiếu, mặc dù mối tình
đầu đời trong trắng, thiêng liêng với Kim Trọng được coi là lẽ sống của đời nàng. Suốt
mười lăm năm lưu lạc nơi đất khách quê người: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa
đảo, nơi thì xót thương; lênh đênh chìm nổi: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”,
nhưng không lúc nào Kiều nguôi nhớ đến gia đình và cha mẹ. Lúc ở lầu Ngưng Bích,
xa nhà chưa bao lâu mà nàng tưởng như đã trải qua biết mấy nắng mưa. Kiều nhớ tới
cha mẹ với những tình cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp “Tựa
cửa hôm mai” của người sinh dưỡng nàng. Kiều day dứt không nguôi vì một nổi là
không được chăm sóc cha mẹ già. Thuý Kiều là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một

chút chẳng quên”. Khi có điều kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang
mình, nhưng nàng vẫn thấy công ơn đó không gì có thể đền đáp nổi.
LXXIII. “Nghìn vàng gọi chút lễ thường
LXXIV. mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân”
LXXV. Nàng đau khổ cho mình và cũng đau khổ cho cha mẹ. Lúc bán mình,
nàng cứ nghĩ rằng mình chỉ đem thân làm thiếp, làm vợ lẽ người ta chứ đâu đến nỗi ô
nhục như vậy! Nàng ân hận bởi bổn phận làm con không vẹn. Dù rằng ở nhà đã có hai
em, nhưng chăm sóc cha mẹ là bồn phận của người con gái lớn trong nhà. Tấm lòng
hiếu thảo của một người con như thế quý biết bao, thương biết bao! Lúc khuyên cha,
Kiều đã dùng đến mấy lời khuyên về đạo làm con của Nho gia nhưng chữ hiếu của
Kiều không phải chỉ là chữ hiếu phục tòng. Nó đơn giản nhưng hồn nhiên và sâu thẳm
bởi nó là chữ hiếu của tình thương, của trái tim Thúy Kiều.
LXXVI. Với mẹ cha thì luôn luôn hiếu kính, còn với tình yêu thì nàng luôn muốn
giữ trọn chữ tình. Dù phải bán mình cứu cha nhưng nàng vẫn nghĩ đến lời thề nguyện
với chàng Kim Trọng. Kiều có một trái tim chung thuỷ, có một tấm lòng vị tha. Tác
giả đã ca ngợi tình yêu Kim - Kiều hồn nhiên, trong sáng và táo bạo, Kiều đã chủ
động đến với Kim Trọng. Thái độ chủ động ấy ta ít gặp trong xã hội phong kiến, Kiều
đã chống lại quan điểm của xã hội phong kiến "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Tình
yêu rất đẹp bởi bắt nguồn từ hai trái tim, rất chung thuỷ nhưng cũng rất biết hi sinh.
Trong mười lăm năm lưu lạc, Kiều luôn nghĩ tới Kim Trọng, băn khoăn day dứt vì

8


mình không mang đến hạnh phúc cho người mình yêu, mối tình Kim - Kiều chính là
biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc của con người.
LXXVII. Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng
hạnh phúc và khát vọng về quyền sống. Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng
mạn được thể hiện qua mối quan hệ Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần
đầu, hai bên chưa tiện nói với nhau một lời, mà mối tình không lời ấy đã như một

chén rượu nồng, khiến người ta choáng váng đê mê:
LXXVIII. “Tình trong như đã mặt ngoài còn e
LXXIX. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê…”
LXXX. Kiều - một con người có vẻ đẹp ngoại hình, có tâm hồn trong sáng,
lương thiện, tài năng, đồng thời nàng cũng là người có khát vọng tình yêu, hạnh phúc,
vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến. Kiều đã vượt qua những gò bó của thời cuộc để đi tìm
hạnh phúc, điều mà khó tìm thấy nơi những người con gái khác trong khi quan niệm
“cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” vẫn đang tồn tại rất mạnh mẽ trong xã hội. Tình yêu
đầu đời của nàng thật trong sáng, mãnh liệt. Nó khiến nàng dám vượt qua những ràng
buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để đến với người yêu: “Xăm xăm băng lối vườn
khuya một mình” để cùng chàng Kim tình tự, trao nhau kỉ vật làm tin và thề nguyền
gắn bó trăm năm:
LXXXI. “Vầng trăng vằng vặc giữa trời
LXXXII. Đinh ninh hai mặt một lời song song.”
LXXXIII. Bỗng dưng sóng gió cuộc đời nổi lên dập dồn trong khoảnh khắc: gia
biến, cướp ngày, quan tham, bán mình… Đến đêm, Kiều mới nghĩ đến bản thân: tình
mình, tình người, cảnh mình, cảnh người. Nàng thức thâu đêm và khóc. Nghĩ tới sáng
mai mình sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình là thủ phạm gây ra
nỗi bất hạnh ghê gớm cho chàng Kim. Nàng tự trách: “Vì ta khăng khít cho người dở
dang”. Không chỉ dở dang mà còn tan cửa nát nhà. Nghe qua tưởng như vô lí. Sao lại
vì ta? Vì cả người nữa, vì người trước chứ! Nhưng Kiều cứ nghĩ như thế bởi Kiều chỉ
nghĩ đến người yêu, thương người yêu, đau trước cái đau của người yêu. Còn mình,
Kiều quên hết, nếu có nghĩ đến thì cũng cam chịu: “Phận dầu, dầu vậy cũng dầu”…
Không chỉ thương, chỉ đau mà Kiều còn lo lắng nữa. Duyên mình đã lở, còn cái dở
dang của người yêu thì sao? Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có
thể cứu vãn phần nào là Thuý Vân sẽ thay mình đền đáp tình chàng.
LXXXIV. “Ngày xuân em hãy còn dài
LXXXV. Xót tinh máu mủ thay lời nước non.”
LXXXVI. Trước khi ra đi nàng đã trao duyên lại cho cô em gái Thúy Vân. Nhờ
em giúp mình kết duyên với chàng Kim.

LXXXVII. “Cậy em em có chịu lời

9


LXXXVIII. Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
LXXXIX. Giữa đường đứt gánh tương tư
XC. Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
XCI. Duyên có thể trao, nhưng tình làm sao trao được ? Nó như một món nợ.
Mà nợ tình thì làm sao trả được? Sau khi cậy em, lạy em ! Hình dung ra cả lúc ngậm
cười chín suối biết ơn em, đến lúc trao các kỉ vật thiêng liêng, cầu chúc hạnh phúc cho
em thì Kiều không còn tỉnh táo nữa. Nàng trở lại hoàn toàn bản chất con người mình,
cảm nhận đầy đủ nỗi đau của mình và thốt lên thống thiết:
XCII. “Ôi Kim lang, hời Kim lang !
XCIII. Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
XCIV. Lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim, nhưng trái tim nàng thì
không thế. Từ đó, bão tố cuộc đời vùi dập nàng đến thảm thương: “Thanh lâu hai
lượt, thanh y hai lần” . Bị dìm xuống tận bùn đen nhơ nhớp nhưng nàng vẫn không
nguôi nhớ đến mối tình đầu, nhớ tới chàng Kim. Nhớ tình đã cũ nhưng nghĩa còn
vương:
XCV. “Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
XCVI. Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”.
XCVII. Nguyễn Du đã làm cho nhân vật của mình thật nổi bật trên nền xã hội
đồng tiền, xã hội phong kiến hủ bại, thối nát. Ông coi trọng con người, coi trọng sự tự
do, hạnh phúc và quyền được tìm hạnh phúc cho mình của mỗi người mặc cho định
kiến xã hội đang vây lấy tất cả.
XCVIII. “Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
XCIX. Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
C. Lại mang lấy một chữ tình
CI. Khư khư mình buộc lấy mình vào trong”

CII. Con người sinh ra tài hoa không phải là một cái tội, nhưng đặt trong hoàn
cảnh lễ giáo phong kiến, những người có tài, có sắc, đặc biệt là người phụ nữ lại hay
phải chịu những truân chuyên, vất vả. Đang ở độ tuổi đẹp nhất của thời con gái, vừa
gặp được mối tình đầu của mình, tưởng như cuộc sống sẽ chuyển mình bước trên một
con đường hạnh phúc, nhưng ông trời thường hay thử lòng người. Phải chăng, khúc
nhạc mà Kiều sáng tác trước kia đã trở thành chính cuộc đời nàng, ai oán và não nùng.
Chỉ vì đồng tiền, bọn sai nha đã gây nên vụ án oan trong gia đình Kiều, vì đồng tiền
mà bọn chúng đã phá hoại hạnh phúc gia đình Kiều, từ một mái ấm êm đềm bỗng tan
hoang, lạnh lẽo. Thuý Kiều, với tư cách là một người chị cả phải đứng ra lo liệu mọi
chuyện, nàng phải hi sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho sai
nha để cứu cha và em khỏi bị tra khảo dã man. Bi kịch cuộc đời bắt đầu từ đây, khi mà

10


con người , khi mà nhân phẩm bị người ta mua đi bán lại như một món hàng. Mã
Giám Sinh, Tú Bà xuất hiện càng làm nổi bật lên hình tượng một Thuý Kiều bất hạnh,
đau đớn ê chề:
CIII. “Đắn đo cân sắc cân tài
CIV. Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
CV. … Cò kè bớt một thêm hai”
CVI. Cái tài, cái sắc giờ đây bị mang ra cân đong đo đếm, bị quy ra thành
tiền:“Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm” Cảnh mua bán hiện lên thật sinh động,
có người mua, kẻ bán, có sự thử hàng, trả giá, mặc cả, giao kèo. Từ “ép”, “thử” đã lột
trần bản chất của Mã Giám Sinh, đồng thời khắc hoạ được rõ nét nỗi đau đớn, bất
hạnh khi bị coi như một món hàng mua bán của Thuý Kiều. Từ một nghìn mà bị ngã
giá xuống bốn trăm lạng, trong xã hội đồng tiền, con người chỉ đáng giá thế thôi sao?
Xã hội phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm và đạo đức của con người.
CVII. Dù là người con gái có sắc, có tài lại hiếu kính mẹ cha, sống có tình có
nghĩa nhưng Thúy Kiều lại gặp biết bao sóng gió, trái ngang trong cuộc đời. Gia đình

gặp họa, nàng phải bán mình chuộc cha. Kiều đau đớn, nhục nhã ê chề khi trở thành
món hàng bị đưa đẩy:
CVIII. “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
CIX. Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
CX. Ngại ngùng rợn gió e sương,
CXI. Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
CXII. Phẩm giá bị xúc phạm, Thuý Kiều căm tức những kẻ đã gây ra cho gia
đình nàng nỗi ô nhục này: “nỗi mình thêm tức nỗi nhà”. Nàng đau xót, nàng khóc cho
số phận hẩm hiu của mình. Hình ảnh Thuý Kiều hiện lên thật tội nghiệp. Nàng đau khi
nghĩ đến “nỗi mình”- tình duyên dang dở, “nỗi nhà” bị vu oan giáng hoạ. Mỗi bước
đi của nàng nước mắt tuôn mà lòng quặn thắt. Là một tiểu thư khuê các mà giờ đây lại
trở thành một món hàng nên càng tủi thẹn, xấu hổ ê trề khi phải đối mặt với sự thật.
Nhưng Thuý Kiều càng buồn bao nhiêu thì lại càng đẹp bấy nhiêu: “Nét buồn như cúc
điệu gầy như mai”. Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã khắc hoạ thành công
nỗi buồn của Kiều, đồng thời thể hiện niềm cảm thông sâu sắc trước thực trạng con
người bị chà đạp. Thuý Kiều hiện lên trên bức tranh khổ đau vẫn thật đẹp về cả ngoại
hình lẫn nhân phẩm. Dù bị xã hội dồn ép, đè nén, nhưng hình ảnh một người con gái
hi sinh hạnh phúc của mình và gia đình hiện lên thật đáng quý.
CXIII. Sau mười lăm năm, gặp lại chàng Kim, hỏi còn niềm vui nào lớn hơn đối
với Kiều?! Tái hợp, duyên cũ về với tình xưa là chuyện hiển nhiên, ấy vậy nhưng
cũng bởi trân trọng tình mình, tình người mà Kiều đã: “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm
kì”, từ chối tất cả mọi lời khuyên của chàng Kim và của gia đình. Trước sau, Kiều vẫn

11


chấp nhận thiệt thòi, hi sinh hạnh phúc của mình cho người khác. Lòng thủy chung,
đức vị tha cao cả ấy của Kiều thật đáng ngợi ca muôn đời. Trong gia đình và xã hội,
Kiều đều tỏ ra là người trọng nhân, trọng nghĩa. Trên bước đường đời phiêu bạt, kẻ áp
bức đọa đày nàng rất nhiều mà người xót thương, giúp đỡ cùng không ít, Kiều đều

khắc cốt, ghi tâm. Đến lúc báo ân báo oán, Kiều trả ân trước, báo thù sau. Thường
tình, người ta ghi sâu oán hơn ân nên trả oán trước trả ân. Nhưng Kiều là con người
trung hậu, vị tha, nghĩ đến người nhiều hơn nghĩ đến mình nên nàng trọng ân hơn
oán.Thúc Sinh, mụ quản gia, Kiều Nhi, Giác Duyên… đều dược nàng đền ơn rất hậu
và đánh giá rất cao hành động tốt đẹp của họ trước đây đối với nàng. Việc báo ân của
Kiều và tấm lòng nhân nghĩa của nàng dễ mấy ai sánh kịp. Người xưa nói:
CXIV. “Ơn ai một chút chẳng quên,
CXV. Oán ai một chút ghi bên dạ này.”
CXVI. Kiều cũng vậy, báo ân xong xuôi, nàng mới trả thù và hành động trả thù
của nàng cũng thật quyết liệt, ghê gớm. Trừ Hoạn Thư được Kiều tha vì lẽ này lẽ
khác, còn cả lũ Mã, Sở, Tú Bà... đều phải chịu cảnh:
CXVII. “Máu rơi thịt nát tan tàn,
CXVIII. Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời”
CXIX. Đúng như lời thề thốt trước đây của chính chúng. Đó là hợp với lẽ trời
“Cho hay muôn sự tại trời”, kẻ gieo gió ắt phải gặt bão, kẻ gây ra tội ác ắt phải đền
tội giữa thanh thiên bạch nhật. Đó là quy luật và cũng là chân lí cuộc đời. Sau khi báo
ân báo oán, mọi cơ cực, oan trái, gian truân của đời Kiều như được trút sạch. Từ địa vị
thấp hèn, Kiều được nâng lên địa vị của một bậc phu nhân, một quan tòa.
CXX. Cuộc đời nàng từ đây tưởng tràn trề niềm vui và ánh sáng, nhưng éo le
thay, như một định mệnh đã ghi trong sổ đoạn trường, Kiều lại rơi vào một tai họa
khác mà nàng vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Vì tin lời hứa của Hồ Tôn Hiến, Kiều
đã khuyên Từ Hải ra hàng. Kiều thực sự không muôn tiếp diễn cảnh “Đống xương vô
định đã cao bằng đầu”, không muốn Từ Hải tiếp tục sống ngoài vòng pháp luật và
bản thân nàng cũng mong muốn sớm được sum họp với gia đình. Tên Tổng đốc trọng
thần Hồ Tôn Hiến đã đẩy đau thương của Kiều tới mức tột cùng! Nàng ân hận và chỉ
còn một lối thoát duy nhất là tìm đến cái chết để chấm dứt cuộc đời và chuộc lại lỗi
lầm. Cội nguồn sâu xa của hành động sai lầm này là lòng nhân ái, nhẹ dạ tin người.
CXXI. Nguyễn Du – nhà thơ lớn của nước ta cuối thế kỉ XVIII, bằng tâm huyết
và tài năng trác tuyệt của mình đã xây dựng thành công một hình tượng nhân vật bất
hủ là Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn Thúy Kiều là người con chí hiếu, là

người tình chung thủy, là người trọn nhân nghĩa, bao dung vị tha và giàu đức hi sinh.
Mặc dù cuộc đời nàng chìm ngập trong nỗi bất hạnh, đau thương, nhưng nàng vẫn cố
gắng vươn lên và phẩm hạnh của nàng luôn tỏa sáng.

12


CXXII.
CXXIII.
CXXIV.
CXXV.
CXXV.1. So sánh Thúy Kiều với các nhân vật nữ khác trong Truyện Kiều
CXXV.1.1. Nhân vật Thúy Vân
CXXVI. Thúy Vân là em của Thúy Kiều, chị của Vương Quan. Thúy Vân theo
mô tả của Nguyễn Du là "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang", nàng được xem
như một người tài sắc vẹn toàn chỉ sau chị mình - Thúy Kiều, nhưng cuộc đời ít chịu
sóng gió như chị mình. Thúy Vân cuối cùng đã kết hôn với Kim Trọng trong thời gian
Thúy Kiều bán mình chuộc cha và phải chịu cảnh sống lưu lạc 15 năm.
CXXVII. Vẻ đẹp của Thúy Vân qua mô tả của Nguyễn Du:
CXXVIII. “Vân xem trang trọng khác vời,
CXXIX. Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
CXXX. Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
CXXXI. Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
CXXXII. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả vẻ
đẹp của Thúy Vân. Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm thiếu nữ nào có được với khuôn mặt
đầy đặn như trăng rằm, lông mày cong hình cánh cung như mày ngài, miệng cười của
nàng tươi như hoa nở, giọng nói của nàng trong như ngọc lại có làn da trắng mịn đến
tuyết phải nhường. Nguyễn Du đã miêu tả bức chân dung nàng Thúy Vân có thể nói là
tuyệt đẹp. Tất cả các từ ngữ , hình ảnh được ông sử dụng trong các câu thơ trên đều
tập trung làm cho người đọc thấy được vẻ đẹp “ đoan trang , thuỳ mị” của Thuý Vân .

Không những khắc hoạ vẻ đẹp hình thể bên ngoài Nguyễn Du còn dự báo số phận
bình lặng, êm ả của nàng qua từ “ thua” và từ “ nhường”. Mây và tuyết thua vẻ đẹp
của Thuý Vân nhưng cả hai đều chịu “ thua” và chịu “ nhường”một cách êm ả . Qua
đó cho ta thấy Thúy Vân có một vẻ đẹp phúc hậu, khiến thiên nhiên cũng phải khiêm
nhường và Nguyễn Du cũng thật tài tình khi chỉ với bốn câu thơ mà ông đã có thể
miêu tả tất cả những gì đẹp nhất của Thúy Vân. Có thể nói bốn câu thơ đã miêu tả rõ
cuộc sống vui vẻ hạnh phúc của Vân khác hơn so với người chị là Thúy Kiều.
CXXXIII. Nhà thơ giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều bằng cách gọi trân
trọng dành cho những người con gái đẹp là “tố nga” và khẳng định:
CXXXIV. “Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
CXXXV. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.”
CXXXVI. Cả hai đều có nhan sắc chim sa cá lặn. Hình dáng thanh tú, yểu điệu
(mai cốt cách), tâm hồn trong trắng như sương, như tuyết (tuyết tinh thần). Không

13


phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du lại miêu tả Thúy Vân trước, Thúy Kiều sau. Chủ ý
của nhà thơ là lấy vẻ đẹp của cô em làm nền cho vẻ đẹp của cô chị – nhân vật chính,
vẻ đẹp của Thúy Vân trang trọng khác vời, tức là đạt tới mức cao nhất của nhan sắc
mà tạo hóa ban cho người phụ nữ nhưng vẻ đẹp của Thúy Kiều lại đặc biệt ở chỗ là nó
phá vỡ khuôn khổ thông thường từ trước tới nay.
CXXXVII. Bi kịch thứ nhất của cuộc đời Thúy Vân là bi kịch của một con người
có lương tri. Điều này thể hiện trong sự kiện. Khi chị em Thúy Kiều đang sống trong
cảnh “Êm đêm trướng rủ màn che” thì xảy ra cơn gia biến, Thúy Kiều buộc phải bán
mình lấy tiền chuộc cha và em. Trong đêm trao duyên, dường như đồng cảm với nỗi
lòng của Thúy Kiều, nàng Vân đã cùng thức để chia sẻ, an ủi chị:
CXXXVIII. “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
CXXXIX. Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
CXL. “Cơ trời dâu bể đa đoan,

CXLI. Một nhà để chị riêng oan một mình.
CXLII. Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh,
CXLIII. Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?”
CXLIV. Ta nhận ra viên ngọc với cái tên “đồng cảm, sẻ chia” vẫn đang tỏa sáng
trong sâu thẳm tâm hồn Thúy Vân chứ nàng không hề vô tâm như ta vẫn nghĩ khi mà
trước mộ Đạm Tiên, Thúy Vân buột miệng nói với chị "Khéo dư nước mặt khóc người
đời xưa". Quả là có ít nhiều thờ ơ, lãnh đạm trong khi Thúy Kiều "đầm đầm châu sa".
Nhưng thiết nghĩ, người nằm dưới đáy mồ hoang tàn kia không từng quen biết, thì
khóc than, van vái đề thơ, cũng thật đáng nực cười. Tuy nhiên, bằng thủ pháp ước lệ,
Nguyễn Du đã nâng cao cảm xúc của nhân vật, đã thể hiện thành công bản tính đa sầu,
đa cảm của Thúy Kiều.
CXLV. Quyết định bán mình chuộc cha và em đồng thời không muốn phụ tình
với Kim Trọng nên Thúy Kiều đã nhờ em thay mình trả nghĩa Kim Trọng. Vẫn biết
rằng, ngay từ buổi đầu gặp gỡ thì cả Thúy Vân và Thúy Kiều đều có sự cảm mến
trước “tài mạo tót vời” của Kim Trọng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Thúy Kiều và
Kim Trọng đã phát triển thành một tình yêu trong sáng và sâu nặng. Còn với Thúy
Vân, có lẽ nó vẫn chỉ là sự cảm mến! Vậy thử hỏi rằng, chỉ với một sự cảm mến mà
có lẽ ai cũng sẽ có khi lần đầu gặp Kim Trọng như vậy thì liệu có thể nhanh chóng
làm nên một tình yêu đích thực? Quả thực là khó. Mặt khác, tuy trao duyên cho em
nhưng Thúy Kiều vẫn không thể dứt tình với Kim Trọng: “Duyên này thì giữ, vật này
của chung”. Tình yêu giữa Thúy Kiều Và Kim Trọng quá sâu nặng vậy thì làm sao
Thúy Vân có thể chạm tay tới. Hơn nữa, trái tim của Kim Trọng đâu có chỗ cho nàng
Vân bởi nó đã là nơi ngự trị vĩnh viễn của Thúy Kiều. Vậy nên, Thúy Vân và Kim
Trọng vẫn có thể nên duyên vợ chồng khi chưa có tình yêu và tình yêu có thể sẽ nảy

14


sinh trong thời gian họ chung sống bên nhau. Sự đồng ý ở đây thể hiện một lòng cảm
thông sâu sắc của Thúy Vân đối với chị, nàng chấp nhận một sự hi sinh, hi sinh tuổi

xuân và hạnh phúc của mình. Ai có thể nói rằng đây là sự công bằng, ưu ái của tạo hóa
đối với Thúy Vân trong khi đã “tước đoạt” đi quyền hưởng thụ tuổi xuân và tự do tìm
kiếm tình yêu, hạnh phúc đích thực của nàng, nếu không muốn nói là Thúy Vân buộc
phải chấp nhận sự hi sinh ấy.
CXLVI. Hơn nữa, quãng thời gian mà Thúy Vân chung sống với Kim Trọng, một
người chồng mà chưa bao giờ tỏ ra là chung thủy, 15 năm chàng Kim luôn tưởng nhớ
đến người xưa và cũng là 15 năm mà nàng Vân phải sống trong sự thờ ơ, hững hờ:
CXLVII. “Vui là vui gượng kẻo là
CXLVIII. Ai tri âm đó mặn mà với ai”
CXLIX. Rõ ràng, đây không phải là quãng thời gian hạnh phúc mà nhiều người
vẫn cho rằng Thúy Vân được hưởng. Nếu như 15 năm lưu lạc của Kiều là 15 năm đầy
sóng gió, vất vả, truân chuyên xen lẫn khổ đau và nước mắt thì 15 năm sống với Kim
Trọng của Thúy Vân chẳng khác gì “ một cực hình dành cho tâm hồn” một người con
gái vẫn còn đang tràn đầy sức sống và lòng yêu đời. Một người con gái đẹp như Thúy
Vân đáng phải được hưởng hạnh phúc, tình yêu đích thực chứ không phải là một thứ
tình yêu “thừa”, tình yêu “chắp nối”:
CL. “Gặp cơn bình địa ba đào
CLI. Nên đem duyên chị buộc vào duyên em.”
CLII. Bi kịch thứ hai trong cuộc đời Thúy Vân là bi kịch của một con người có
trái tim nhân hậu. Bởi sau 15 năm lưu lạc, Thúy Kiều được đoàn tụ với gia đình, đây
thực sự là niềm vui khôn tả đối với tất cả mọi người. Nhưng còn Thúy Vân? Nàng vui,
nhưng có lẽ niềm vui chưa kịp cất cánh bay lên thì đã bị nỗi buồn, nỗi đau xót ghì chặt
xuống và giày xé tâm can. Bởi Thúy Kiều trở về cũng có nghĩa là người mà Kim
Trọng luôn tưởng nhớ suốt 15 năm qua đã trở về. Những tưởng rằng, Thúy Vân sẽ lại
im lặng như trong đêm Kiều trao duyên. Nhưng không, nàng đã chủ động đứng lên đặt
vấn đề “Thúy Kiều nên thành hôn với Kim Trọng”. Bởi nàng hiểu rằng, suốt 15 năm
qua, tuy sống với nhau như vợ chồng nhưng cả lí trí và trái tim của Kim Trọng đều
dành hết cho Thúy Kiều:
CLIII. “Những là rày ước mai ao
CLIV. Mười lăm năm ấy, biết bao là tình!”

CLV. Và như một người cầm cán cân công lý, để trả lại sự công bằng cho Thúy
Kiều trước những gì mà nàng đã phải trải qua trong suốt 15 năm lưu lạc. Thúy Vân đã
dũng cảm nói lên suy nghĩ của mình, suy nghĩ thật thấu đáo nhưng cũng thật xót xa
cho số phận mình:
CLVI. “Bây giờ gương vỡ lại lành

15


CLVII. Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
CLVIII. Còn duyên, may lại còn người,
CLIX. Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa.
CLX. Quả mai ba bảy đương vừa
CLXI. Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì!”
CLXII. Nỗi đau, bi kịch của cuộc đời Thúy Vân càng nhân lên gấp bội khi mà
cái hạnh phúc dù là mong manh, dù là hờ hững nhưng là duy nhất của nàng, cái hạnh
phúc mà nàng đã phải hi sinh cả tuổi xuân và quyền tự do mưu cầu tình yêu đích thực
của mình để có được bây giờ lại phải chính tay mình trao lại cho người khác. Với
Thúy Vân, có lẽ giờ đây với nàng hạnh phúc gia đình là tất cả. Bởi thử hỏi rằng, cuộc
đời nàng còn gì ngoài hai chữ “gia đình” khi mà tuổi trẻ, cái tuổi khao khát yêu
đương và tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc đích thực đã đi qua. Thế nhưng, cái hạnh phúc
gia đình đó những tưởng sẽ là của riêng nàng bây giờ lại phải chia sẻ cùng với chị.
Đau xót hơn nữa cho nàng Vân khi phải ngày ngày chứng kiến chồng mình gần gũi,
yêu thương người khác. Vẫn biết rằng, xã hội phong kiến công nhận sự tồn tại của
quan niệm “trai năm thê bảy thiếp”. Nhưng thử hỏi, liệu có người phụ nữ nào, trong
bất kì xã hội nào mà không biết buồn, biết đau, biết ghen khi chồng mình yêu thương
một người phụ nữ khác? Ai đó có thể nói rằng, giữa Thúy Vân và Kim Trọng không
có tình cảm với nhau, họ chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa như vậy Thúy Vân sẽ không
biết buồn, biết đau. Cứ cho là, 15 năm trước Thúy Vân đến với Kim Trọng không phải
do tình yêu nhưng “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, 15 năm là vợ chồng chung sống

với nhau chẳng lẽ giữa họ lại không nảy sinh chút tình cảm nào? Có thể, tình cảm đó
không phải là tình yêu nhưng 15 năm để xây dựng nên tình nghĩa vợ chồng là điều
hoàn toàn có thể.
CLXIII. Qua đó ta nhận ra ở Thúy Vân có một trái tim nhân hậu biết nhường
nào, nàng thật tinh tế và cao thượng khi trả lại chàng Kim, trả lại người chồng đã 15
năm chung sống cho chị mình. Nhưng nàng cũng thật đau đớn biết bao khi phải xác
nhận một sự thật, sự thật về duyên phận của mình, cái duyên “chắp nối” sẽ chẳng bao
giờ tồn tại mãi mãi.
CLXIII.1.1. Nhân vật Hoạn Thư
CLXIV. Hoạn Thư vốn là vợ của Thúc sinh, nhưng giữa hai gia đình không được
môn đăng hộ đối. Thúc Sinh tuy cũng là nòi thư hương, nhưng cha lại là một nhà
buôn, có ngôi hàng ở Lâm Truy, không phải xuất thân quan lại nên không sánh được
với “Họ Hoạn danh giá, con quan Lại bộ”.
CLXV. Họ kết hôn chẳng qua là “Duyên đằng thuận nẻo gió đưa” chứ không
phải từ tình yêu say đắm. Nhưng dù sao đi nữa thì Hoạn Thư vẫn đối xử với chồng rất
tốt “Ở ăn thì nết cũng hay”, không bao giờ tỏ vẻ con nhà thế gia vọng tộc mà ức hiếp

16


chồng hay bắt chồng phải làm theo ý mình… Nhưng bao nhiêu đó vẫn chưa đủ, bởi
Thúc Sinh vốn là con người háo sắc và “quen thói bốc rời” nên mới sinh ra việc dan
díu với Kiều. Và khi Hoạn Thư biết chuyện:
CLXVI. “Từ khi vườn mới thêm hoa
CLXVII. Miệng người đã lắm, tin nhà thì không”
CLXVIII. thì thử hỏi sao Hoạn Thư không “Lửa tâm càng dập càng nồng
CLXIX. Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa”
CLXX. thử hỏi ruột gan nào mà không như xát muối, dẫu biết rằng cảnh chồng đèo
bòng thêm cũng không xa lạ gì trong xã hội cũ, nhưng xưa nay có người phụ nữ nào
thích thế đâu.

CLXXI. Thực tâm mà nói, Hoạn Thư cũng không muốn làm to chuyện:
CLXXII. “Ví người thú thật cùng ta
CLXXIII. Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên
CLXXIV. Dại gì chẳng giữ lấy nền
CLXXV. Hay gì mà được tiếng ghen vào mình”.
CLXXVI. Nhưng nàng hận là ở chỗ Thúc Sinh cứ “bưng bít giấu quanh” và đã
vi phạm vào nề nếp của gia đình quý tộc nhà nàng. Chính vì thế mà nàng mới quyết
định dạy cho Thúc Sinh bài học nhớ đời nhớ kiếp:
CLXXVII. “Làm cho nhìn chẳng được nhau
CLXXVIII. Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
CLXXIX. Làm cho trông thấy nhãn tiền
CLXXX. Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”.
CLXXXI. Quả thật Hoạn Thư rất đáng nể phục trong phương diện xử lí thông
minh khéo léo chuyện nhà. Một người vợ, bị phụ tình đã làm được những việc không
phải ai cũng có thể làm được, giữ cho gia đình ngoài kín trong êm như vậy thật không
hề dễ. Một mặt là bảo vệ chồng khỏi điều tiếng dư luận, một mặt là dằn nén để xem
thái độ của chồng ra sao. Ở khía cạnh này ta dễ dàng đồng cảm với Hoạn Thư hơn.
Còn gì vui hơn vợ chồng gặp nhau sau bao ngày xa cách và còn gì đau đớn tủi cực
hơn khi Hoạn Thư phải trong vai người vợ nồng thắm với chồng chỉ bằng cái vẻ bề
ngoài, còn sâu thẳm bên trong thì vật vã oán hờn với con người trăng hoa đen bạc
“Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra”. Thật ra cái mà Hoạn Thư mong mỏi ở Thúc Sinh
cũng đâu có gì quá đáng hay khó khăn. Nàng chỉ cần được chồng báo tin là chuyện đã
như vậy, được chồng thú thật, để rồi nàng sẽ bao dung tha thứ sắp xếp một cách đàng
hoàng, ổn thỏa. Nhưng điều đáng tiếc là Thúc Sinh không phải là con người tri âm tri
kỉ. Thấy vậy cứ tưởng mọi chuyện còn kín chưa ai hay biết. Một mặt nào đó Thúc
Sinh cũng thuộc loại nhát gan, lo sợ mọi việc bại lộ. Sự im lặng của chàng Thúc đã

17



đẩy kịch tính đến mức tai hại. Hoạn Thư, một người vợ tốt phải mang tiếng ghen
tuông cay nghiệt muôn đời của sử sách. Thúy Kiều, con người tội nghiệp thì phải rơi
vào tình cảnh nhục nhã, đau đớn đến ê chề.
CLXXXII. Thú quê thuần vược bén mùi
CLXXXIII. Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
CLXXXIV. Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ
CLXXXV. Một màu quan tái bốn mùa gió trăng
CLXXXVI. Đó là lúc mà chàng Thúc muốn ra đi và Hoạn Thư cũng dư biết.
Nàng biết chàng ở bên mình chỉ là cái xác, còn hồn thì ở tận Lâm Tri. Chính vì thế mà
nàng không hề ngăn cản, mà còn động viên chàng đi cho sớm. Còn về Thúc Sinh thì
quá vô tư:
CLXXXVII. “Được lời như mở tấc son
CLXXXVIII. Vó câu thẳng ruổi nước non quê người”.
CLXXXIX. Đứng trước việc phải làm là dày vò tình địch, dằn mặt dạy cho ông
chồng bài học Hoạn Thư phải chọn cách nào đây? Nếu thủ tiêu Kiều thì chắc gì
chuyện không bại lộ mà chuyện bại lộ thì coi như mất chồng, gia đình tan nát. Nếu
đánh động cho Kiều cao chạy xa bay thì chàng Thúc làm sao dứt khỏi tơ lòng vương
vấn, rồi mãi tìm, rồi dù có về thì cũng về bằng cái xác. Một lần nữa ta thấy Hoạn Thư
khôn ngoan khi chọn chiêu bắt cóc Kiều, đốt nhà thế xác, tạo hiện trường giả… để
Thúc Sinh xem như đã hết mà toàn tâm toàn ý trở về.
CXC. “Chạnh lòng nhớ cảnh gia hương,
CXCI. Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê”.
CXCII. Thúy Kiều bị bắt về quan Lại Bộ (nhà cha mẹ của Hoạn Thư), nơi đây
Kiều phải một phen mưa gió tan tành:
CXCIII. “Hoa trôi nước chảy đã yên
CXCIV. Biết đâu địa ngục là miền trần gian”
CXCV. Nàng bị bắt làm thị tì, sau đó Kiều mới được chuyển về làm con hầu ở
nhà Hoạn Thư. Việc hành hạ thể xác của Kiều chỉ dừng đến đấy, chứ không đến mức
tàn nhẫn mất hết nhân tính. Thực ra, đó cũng chỉ là chuyện giận cá chém thớt, chứ
Hoạn Thư muốn bắt về trị tội chính là cái kẻ “thăm ván bán thuyền” Thúc Sinh mới

phải lẽ. Cho nên không khi nào ta thấy hình ảnh Thúy Kiều hiện lên như một đối
tượng chủ yếu và trực tiếp trong cơn ghen tức, hay trong nỗi tam bành của Hoạn Thư.
CXCVI. Và cái gì tới đã tới, khi Thúc Sinh trở về chạm mặt Kiều một cách bất
ngờ, choáng váng:
CXCVII. “Cùng trong một tiếng tơ đồng
CXCVIII. Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.

18


CXCIX. Rõ ràng thật lứa đôi ta,
CC. Làm ra con ở chủ nhà đôi nơi”.
CCI. Có thể nói lúc này là lúc Hoạn Thư hả hê nhất. Nàng bắt “ kẻ thứ ba” phải
khoan nhặt cung đàn, quỳ tận mặt mời tận tay Thúc Sinh chén rượu. Còn kẻ lòng dạ
đen bạc kia thì phải phách lạc hồn xiêu, gan gầy ruột héo. Nhưng người đọc sẽ đặt một
câu hỏi: Tại sao qua sự việc này Hoạn Thư không tống khứ Kiều đi mà lại nhận lời
Kiều cho nàng xuất gia chép kinh ở Quan Âm Các (chùa của nhà Hoạn Thư)? Điều
này cho thấy Hoạn Thư không đến mức nhẫn tâm, không ép Kiều đến cùng cực, mà
chừng mực nào đó Hoạn Thư cũng có lòng từ bi. Vì về với Phật là coi như trần duyên
chấm dứt! Hoạn Thư rõ là người yêu ghét phân minh. Khi thấy Kiều viết chữ đẹp,
Hoạn Thư cũng khen “So ra với thiếp Lan Đình nào thua”, nàng cũng mến tài Kiều
và ở khía cạnh này Hoạn Thư cũng có nét tài hoa. Bởi chỉ có kẻ tài hoa mới nhận ra kẻ
tài hoa ngay giữa hồng trần gió bụi. Và thậm chí Hoạn Thư còn khen Kiều trước mặt
Thúc Sinh:
CCII. “Ví chăng có số giàu sang,
CCIII. Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên”.
CCIV. Thử hỏi trên đời này dễ mấy ai đủ bản lĩnh để đưa ra một lời khen tuyệt
đỉnh đối với tình địch của mình như vậy. Tiếp theo là vấn đề Hoạn Thư về nhà cha mẹ
vấn an, thực ra đó chỉ là phép thử cuối cùng để khẳng định lòng dạ của Thúc – Kiều
như thế nào. Khi nghe hai người sụt sùi khóc than rồi Kiều hở ra ý trốn chạy:

CCV. “Liệu mà mở cửa cho ra,
CCVI. Ấy là tình nặng ấy là ơn sâu”
CCVII. và rồi Thúc sinh quyết dứt tình:
CCVIII. “Liệu mà cao chạy xa bay,
CCIX. Ái ân ta có ngần này mà thôi”,
CCX. Hoạn Thư mới xuất hiện với vẻ mặt và cử chỉ vui vẻ, mãn nguyện. Hoạn
Thư khen ngợi Kiều rồi nàng cùng chồng về lại thư trai. Chi tiết này cho ta thấy Hoạn
Thư quả là người vợ thông minh tót vời và đã nắm chắc phần thắng về mình. Việc còn
lại chỉ còn là gia ân cho Kiều, là tạo sơ hở để Thúy Kiều bỏ trốn mà thôi. Ở đây phải
khẳng định rằng Hoạn Thư là con người của trí tuệ khôn khéo, con người có bản lĩnh
phi thường và một nhân cách cao thượng đáng khâm phục.
CCXI. Đọc Truyện Kiều đến đây, ta cứ ngỡ Hoạn Thư và Kiều mọi chuyện đã
chấm dứt, nhưng cuộc đời lại không dễ dàng bỏ qua ân oán tình thù của họ. Và họ lại
gặp nhau ở một tình thế đảo ngược : Kiều báo ân báo oán. Sau khi rơi vào lầu xanh lần
thứ hai, Kiều được Từ Hải cứu và đưa nàng lên ngôi vị phu nhân cao quý. Và cũng
chính Từ Hải đã giúp nàng báo ân báo oán. Hoạn Thư xưa là chủ nhà thị uy thì nay trở
thành “chính danh thủ phạm”. Kiều từ một thị tì nay trở thành vị quan tòa có đủ mọi

19


quyền hành sinh sát trong tay. Trong tình huống sinh tử này, ta thấy Hoạn Thư một lần
nữa hết sức khôn ngoan, nhờ đó mà thoát án tử hình.
CCXII. Đầu tiên là Kiều mỉa mai đay nghiến Hoạn Thư:
CCXIII. “Thoắt trong nàng đã chào thưa
CCXIV. Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây
CCXV. Đàn bà dễ có mấy tay
CCXVI. Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
CCXVII. Dễ dàng là thói hồng nhan
CCXVIII. Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”,

CCXIX. Từ đó cho ta thấy ý đồ của Kiều sẽ xử Hoạn Thư thế nào, bên cạnh đó
là quan quân, gươm giáo chực sẵn. Rõ ràng Hoạn Thư đang đối mặt với tình thế ngàn
cân treo sợi tóc. Lúc này nàng không có thời gian để nghĩ suy cân nhắc như lúc ở nhà
và cũng không người thân nào bên cạnh để bàn bạc. Còn anh chàng Thúc Sinh thì
“mặt như chàm đổ mình dường dẽ run” không còn làm được cái gì nữa. Khoảnh khắc
sinh tử là phụ thuộc vào sự khôn khéo của bản thân Hoạn Thư. Và nàng đã tự bào
chữa cho mình:
CCXX. Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
CCXXI. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
CCXXII. Nghĩ cho khi các viết kinh,
CCXXIII. Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
CCXXIV. Lòng riêng riêng những kính yêu,
CCXXV. Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
CCXXVI. Trót đà gây việc chông gai,
CCXXVII. Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
CCXXVIII. Tám câu lục bát này quả thật có sức mạnh thần diệu. Đầu tiên là
Hoạn Thư cho mình là vô tội. Còn việc “kẻ cắp, quỷ quái tinh ma, thói hồng nhan,
cay nghiệt”, đó chẳng qua là chuyện ghen tuông thường tình của đàn bà, đã là đàn bà
thì ai mà chả vậy. Đó là quy luật của tạo hóa, chứ không phải do riêng Hoạn Thư gây
ra. Vấn đề này đã tác động đến suy nghĩ của Kiều, vì nàng cũng là đàn bà, đổi lại
nàng, thì nàng cũng làm như vậy mà thôi. Vấn đề thứ hai là Hoạn Thư nhắc lại chuyện
“khi các viết kinh”, và thầm nhắc lại công trạng của mình đối với Kiều. Đó là sẵn sàng
chiều theo ý Kiều cho xuất gia ở Quan Âm Các, xóa kiếp làm thị tì, rồi đến khi Kiều
bỏ trốn Hoạn Thư cũng chấm dứt thù oán. Ở điểm này Hoạn Thư còn lịch sự không
nói ra việc Kiều lấy đồ kim ngân trốn đi, cốt yếu là để tránh làm cho Kiều mất mặt.
Tất cả điều đó Kiều rõ hơn ai hết và không thể không thừa nhận. Vấn đề thứ ba là
Hoạn Thư đưa ra cảnh chồng chung, mà chồng chung thì ai nhường cho ai? Đó cũng

20



là cái quy luật của tạo hóa, tâm lý chung của đàn bà, dù Kiều đang ngồi ở ngôi vị nào
đi nữa vẫn không thoát khỏi quy luật đó. Vấn đề này buộc Kiều phải suy ngẫm và
không thể bẻ lại được. Cuối cùng là Hoạn Thư thừa nhận đã “lỡ lầm gây việc chông
gai”. Và cầu xin “lượng bể thương bài nào chăng”. Câu nói này Hoạn Thư vừa hạ
mình vừa tôn Kiều lên thành “lượng hải hà”, là người bề trên. Không lẽ người bề trên
không rộng lượng với kẻ dưới, người bề trên sao lại phải cố chấp với kẻ lỡ lầm… Và
Kiều cuối cùng đã thốt “Làm ra thì cũng con người nhỏ nhen”, thế là Hoạn Thư được
tha bổng.
CCXXIX. Khi nói đến Hoạn Thư không ít ý kiến coi đây là nhân vật tiêu biểu
cho sự tàn bạo độc ác, một con người có tính ghen tuông cay nghiệt… nhưng thật ra
đó chỉ là lớp vỏ bề ngoài. Vượt qua tất cả, Hoạn Thư còn là một con người luôn biết
cách giữ cho gia đình êm ấm, tránh điều tiếng, giữ gìn danh dự cho chồng, cho mình,
trả thù thói đen bạc của chồng nhưng không đối xử cạn tàu ráo máng với tình địch mà
còn có chút vị tha, trước hoàn cảnh bờ vực vẫn tỏ ra bình tĩnh, khôn ngoan để thoát
chết… Có thể nói trong Hoạn Thư có đầy đủ phẩm chất của con người hiện thực.
CCXXIX.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
CCXXX. Một trong những yếu tố làm nên thành công của “truyện Kiều” chính là
ở nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Nguyễn Du là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ
tiếng Việt, là ngôi sao chói lọi nhất trong nền văn học cổ Việt Nam. Bên cạnh những
thành công đó còn phải kể đến nghệ thuật xây dựng nhân vật là một thành tựu lớn của
“Truyện Kiều” : Kì tài diệu bút.
CCXXXI. Nghệ thuật khắc họa nhân vật được Nguyễn Du tập trung ở hai dạng
nhân vật: chính diện và phản diện. Dù miêu tả nhân vật nào thì ngòi bút của ông cũng
đạt đến mức tinh diệu, bởi những nhân vật trong truyện hiện lên rất sống động và chân
thực.
CCXXXII. Với các nhân vật chính diện, Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ
tượng trưng cùng với ngôn ngữ trân trọng, ngợi ca theo khuynh hướng lí tưởng hóa .
Dùng vẻ đẹp của thiên nhiên để sánh với vẻ đẹp của con người. Theo Nguyễn Du chỉ
có vẻ đẹp của thiên nhiên mới có thể thể hiện cái đẹp bề ngoài cũng như tâm hồn của

nhân vật. Ngôn ngữ của nhân vật chính diện là ngôn ngữ trân trọng, ngợi ca. Nguyễn
Du dành cho nhân vật của mình những tình cảm tốt đẹp và yêu mến. Hình ảnh chị em
Thúy Kiều hiện lên thật đẹp, thật hoàn mỹ. Nào hoa cười , ngọc thốt ; mây thua , tuyết
nhường. Nào làn thu thủy , nét xuân sơn ; nào hoa ghen liễu hờn...
CCXXXIII. Rồi khi Nguyễn Du miêu tả chàng Kim , một con người hào hoa
phong nhã.
CCXXXIV. Nguyên người quanh quất đâu xa
CCXXXV. Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh

21


CCXXXVI. Nền phú hậu bậc tài danh
CCXXXVII. Văn chương nết đất thông minh tính trời
CCXXXVIII. Phong tư tài mạo tót vời
CCXXXIX. Vào trong nho nhã ra vào hào hoa
CCXL. Việc miêu tả nội tâm nhân vật khiến các nhân vật trong Truyện Kiều hiện
lên chân thực, sinh động và gần gũi với đời sống. Miêu tả tâm lí nhân vật là một thành
công của Nguyễn Du khiến ông vượt trội so với những tài năng khác cùng thời.
Nguyễn Du có khả năng phân tích tâm lí nhân vật và có khả năng hóa thân vào nhân
vật ...
CCXLI. Với các Nhân vật phản diện, đại thi hào sử dụng bút pháp tả thực theo
khuynh hướng điển hình hóa: tả nhân vật như vốn có ở đời, ngoại hình nhân vật đại
diện cho một tầng lớp, một hạng người trong xã hội . Theo ông, chỉ có tả thực mới lột
tả hết được bản chất xấu xa của nhân vật hoặc mới lột tả được hết xác phàm của
chúng.
CCXLII. Mã Giám Sinh thì Cộc lốc, mập mờ, không rõ ràng, phản ánh một tính
cách vô học, giả dối.
CCXLIII.


Hỏi tên : rằng Mã Giám Sinh

CCXLIV.

Hỏi quê : rằng huyện Lâm Thanh cũng gần

CCXLV.

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…

CCXLVI. Một Tú Bà- đanh đá , chua ngoa , giọng con buôn …
CCXLVII. Con kia đã bán cho ta
CCXLVIII. Nhập gia cứ phải phép nhà tao đây
CCXLIX. Lão kia có giở bài bây
CCL. Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe
CCLI. Ngôn ngữ nhân vật phản diện là ngôn ngữ thực, mỉa mai. Nhân vật phản
diện hiện lên rất thực.
CCLII. Phương diện xây dựng nhân vật của Nguyễn Du quả là kì tài diệu bút.
Những nhân vật của ND rất sống động như bước từ ngoài đời vào trong trang sách.
Hoài Thanh nhận xét: “Nguyễn Du đã tái tạo lại một cuộc sống đương thời và sáng
tạo ra một thế giới có thật. Trong thế giới ấy có những con người rất sống, rất thật
khiến nhiều khi người ta không còn nhớ đó là những con người trong tiểu thuyết”.
CCLIII. KẾT LUẬN
CCLIV. Truyện Kiều” được sáng tác dựa trên cơ sở cốt truyện của tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc “Kim Vân Kiều truyện”. Tuy nhiên Nguyễn Du đã sáng tạo
nên một tác phẩm mới, với cảm hứng mới, nhận thức lý giải về nhân vật theo cách của
riêng ông, với thể loại truyện thơ khác hẳn “Kim Vân Kiều truyện” là tác phẩm tự sự

22



văn xuôi. Nhân vật nàng Kiều hiện lên trên nền bi kịch của cuộc đời. Nàng có ý thức
về nhân phẩm của mình nhưng lại bị xã hội hủ bại chà đạp nhân phẩm. Đó là bi kịch
lớn nhất của đời người. Nỗi xót xa, đau đớn bao trùm lên một con người mà “hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, “một hai nghiêng nước nghiêng thành”, “Sắc
đành đòi một tài đành hoạ hai”. Văn học trung đại viết về con người đã ít, viết về số
phận con người, đặc biệt là số phận của người phụ nữ lại càng ít hơn. Với cái xã hội
trọng nam khinh nữ thì một Nguyễn Du và một “Truyện Kiều” xuất hiện như toả sáng
nền văn học tối tăm, soi đường chỉ lối và tôn lên giá trị nhân phẩm cao quý của con
người. Truyện Kiều là tiếng kêu đứt ruột về thân phận con người – nhất là người phụ
nữ trong xã hội phong kiến mà nhân cách bị chà đạp, vùi dập thảm thương. Thúy Kiều
là cô gái có nghĩa có tình. Mặc dù rơi vào cảnh ngộ éo le, đau khổ triền miên nhưng
trong bối cảnh cuộc đời tăm tối ấy, phẩm giá Thúy Kiều vẫn thanh cao, rạng ngời. Có
thể ví Thúy Kiều như một bông sen nở giữa đầm lầy. Phẩm hạnh quý giá ấy khiến cho
hình tượng Thúy Kiều trở nên bất diệt. Nhân vật Thúy Kiều đã để lại cho chúng ta
những bài học đạo lí thấm thía và bổ ích. Đó là giá trị nhân văn lớn lao của tác phẩm.
CCLV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo Dục (1999)
2.Đào Duy Anh, Truyện Kiều, Nhà xuất bản văn học Hà Nội (1999)
3.Hoài Thanh, Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên Hà Nội
(2013)
4.Nguyễn Du, Truyện Kiều, Nhà xuất bản Văn học (1966)
5.Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải, Truyện Kiều ( Đoạn trường tân thanh),
NXB Khoa học và Xã hội Hà Nội (1995)
6.Nguyễn Tài Cẩn, Tư liệu Truyện Kiều bản Duy Minh Thị (1872), NXB Đại học quốc
gia Hà Nội (2002)
CCLVI.

23



×