Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

XÂY DỰNG ỨNG DỤNG TÍNH TOÁN PHÂN TÁN TRÊN NỀN TẢNG SỨC MẠNH CÁC MÁY TÍNH CÁ NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.61 KB, 50 trang )

I
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NÔI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
Nguyễn Chí Công
XÂY DỰNG ỨNG DỤNG TÍNH TOÁN PHÂN TÁN
TRÊN NỀN TẢNG SỨC MẠNH CÁC MÁY TÍNH
CÁ NHÂN
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY

Ngành: Công Nghệ Thông Tin
HÀ NỘI -2010
II
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
Nguyễn Chí Công
XÂY DỰNG ỨNG DỤNG TÍNH TOÁN PHÂN TÁN
TRÊN NỀN TẢNG SỨC MẠNH CÁC MÁY TÍNH
CÁ NHÂN
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
Ngành: Công Nghệ Thông Tin

Cán bộ hướng dẫn: ThS. Đào Minh Thu

HÀ NỘI - 2010
Tóm tắt nội dung
Tính toán phân tán là một công nghệ mới và rất thiết thực hiên nay. Những hệ
thống tính toán phân tán giúp giải quyết những bài toán khoa học lớn mà một máy tính
không thể giải quyết được. Ngày nay có khá nhiều middleware phục vụ cho việc xây
dựng hệ thống tính toán phân tán. Trong khóa luận này trình bày một số nghiên cứu về
tính toán phân tán, những nghiên cứu về kiến trúc, cách thức hoạt động của một số hệ
thống tính toán phân tán phổ biến, giới thiệu một số dự án tính toán khoa học đang được


thực thi nhờ hệ thống tính toán phân tán. Khóa luận này cũng trình bày bước đầu xây
dựng một hệ thống tính toán phân tán, với phần mềm bên phía người dùng được tích
hợp vào ứng dụng facebook. Người dùng không cần cài đặt một phần mềm client nào,
mà chỉ cần có một trình duyệt web là có thể tham gia vào những dự án tính toán. Việc
này sẽ tạo điều kiện mở rộng dự án tính toán được dễ dàng hơn, làm tăng hiệu suất của
những hệ thống tính toán phân tán.
III
Mục lục
Danh mục các hình vẽ
Hình 2.1: Kiến trúc hệ thống BOINC..............................................................................10
Hình 2.1: Kiến trúc hệ thống Condor..............................................................................15
Hình 2.3: Kiến trúc hệ thống Globus Toolkit .................................................................17
IV
Hình 3.1: Kiến trúc tổng thể hệ thống ............................................................................22
Hình 3.2: Kiến trúc chi tiết hệ thống ..............................................................................24
Hình 3.3: Mô hình kết nối TCP/IP của hệ thống.............................................................26
Hình 4.1: Hình ảnh mô tả phân chia task tới những máy tính Node................................47
Hình 4.2: Biểu đồ thời gian thực thi khi có một máy tính...............................................47
Hình 4.3: Biểu đồi thời gian thực thi khi có ba máy tính................................................48
V
Chương I – Giới thiệu
1.1 Đặt vấn đề
Khi khoa học phát triển đặt ra nhiều bài toán với khối lượng tính toán lớn,
cùng với một lượng lớn dữ liệu cần xử lý. Trong nhiều ngành khoa học khác nhau
những bài toán này đang tồn tại và chúng ta luôn muốn xử lý chúng.
Trong thiên văn học có một điều mà chúng ta luôn muốn khám phá đó là “liệu
có một nền văn minh nào ngoài trái đất không?”, đây là một câu hỏi lớn mà nhiều
năm qua con người vẫn chưa tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Với khoa học kỹ thuật
như hiện nay chúng ta có thể thu được những tín hiệu từ bên ngoài trái đất, chúng ta
có thể xử lý những tín hiệu này để hy vọng có thể tìm ra một nền văn minh nào đó

bên ngoài trái đất. Nhưng những tín hiệu thu được ngoài trái đất rất nhiều, nếu dùng
một máy tính có công suất tính toán lớn cũng phái mất rất nhiều thời gian để xử lý
lượng tín hiệu này, như vậy sẽ rất lâu chúng ta mới có thể tìm được câu trả lời cho
câu hỏi kia.
Trong ngành công nghệ thông tin có một bài toán quen thuộc đó là bài toán
phá mã. Một phương pháp phá mã đơn giản nhất là duyệt toàn bộ, ta thử lần lượt tất
cả trường hợp có thể của khóa cho đến khi tìm được khóa đúng. Độ dài của khóa sẽ
quyết định đến số lượng các phép thử, ví dụ với hệ mã hóa DES sử dụng 56 bit làm
khóa, tức là sẽ có 2
56
= 72x10
16
giá trị có thể của khóa. Nếu sử dụng một máy tính
bình thường có tốc độ tính toán 1 giải mã /μs sẽ phải mất khoảng 1142 năm, thời
gian này là quá lâu so với tuổi thọ của thông tin. Muốn phá mã nhanh có thể dùng
một máy tính chuyên dụng (giá khoảng 250.000$) có thể phá mã trong 3 ngày.
Nhưng đó là trường hợp sử dụng 56 bit làm khóa, nếu sử dụng khóa với độ dài 128
bit hay 126 bit thì máy tính đó cũng tỏ ra không hiệu quả.
Trong y học cũng có nhiều dự án với khối lượng tính toán lớn, dự án “Help
Defeat Cancer [10]” là một dự án nghiên cứu khả năng chống căn bệnh ung thư. Với
dự án này, các nhà nghiên cứu cần phân tích số lượng lớn mô ung thư cùng một lúc,
nếu dùng một máy tính thông thường mất khoảng 168 năm, như vậy là quá lâu vì
chúng ta cần tìm ra phương pháp trị bệnh ung thư càng sớm càng tốt.
Trong nhiều ngành khoa học khác như toán học, sinh học … cũng có nhiều bài
toán lớn được đặt ra, việc giải quyết những bài toàn này giúp phát triển các ngành
khoa học phục vụ cuộc sống, Vì vậy nhu cầu giải quyết những bài toán như thế là rất
thiết thực
Ngày nay mạng máy tính phát triển mạnh, nhất là mạng Internet với hàng triệu
máy tính kết nối với nhau. Đối với người dùng bình thường công suất tính toán của
máy tính thường không được sử dụng hết. Trong những khoảng thời gian máy tính

nhàn rỗi, khả năng tính toán của nó không được tận dụng. Vậy tại sao ta không sử
dụng khả năng tính toán đó để giải quyết những bài toán phức tạp trên? Mỗi máy
tính khi nhàn rỗi có thể sử dụng để tính toán một phần nhỏ của bài toán, nhiều máy
tính cùng tham gia tính toán sẽ tao lên một hệ thống tính toán hết sức mạnh mẽ. Nếu
chúng ta có thể kết nối hàng triệu máy tính trên Internet, chúng ta sẽ tạo ra một
mạng lưới tính toán khổng lồ, khi đó những bài toán lớn có thể được giải quết trong
thời gian ngắn.
Để mọi người tham gia tính toán cho một dự án nào đó, họ cần biết về dự án
đó, và biết cách để có thể sử dụng máy tính của mình tham gia vào hệ thống tính
toán. Vì vậy ta cần quảng bá cho người dùng biết về những dụ án tính toán, và cung
cấp cho họ những công cụ để tham gia vào hệ thống tính toán.
Mạng xã hội ngày nay rất phát triển, Facebook là một mạng xã hội có lượng
người dùng lớn nhất hiên nay. Nó có thể là một nơi lý tưởng để quảng bá thông tin
về những dự án tính toán. Trên Facebook bạn có thể giao lưu, liên lạc với bàn bè,
với rất nhiều người cùng tham gia Facebook. Khi một người dùng Facebook tham
gia vào một dự án tính toán, họ có thể giới thiệu cho bạn bè, người thân hay một ai
đó mà họ quen biết trên Facebook. Những dự án tính toán thường là những dự án có
ích cho xã hội nên mọi người sẽ rất sẵn lòng tham gia vào dự án tính toán.
Một vấn đề có thể khiến mọi người ngại tham gia vào hệ thống tính toán đó là
các hệ thống tính toán hiện nay, thường bắt người dùng phải cài một phần mền lên
máy của mình để tham gia vào việc tính toán. Bất kỳ một máy tính nào muốn tham
gia vào hệ thống tính toán cũng cần cài đặt phần mềm này. Vậy nếu có thể xây dựng
một hệ thống tính toán phân tán, mà người dùng không cần cài đặt phần mền vẫn có
thể tham gia vao hệ thống sẽ giúp khả năng huy động được lượng người dùng lớn,
tình nguyện tham gia vào dự án tính toán.
Web là một một công cụ rất hữu ích cho chúng ta, nó thực sự đã thay đổi cuộc
sống của chúng ta. Một trang web với một chương trình applet có thể thay thế cho
phần mềm tham gia vào hệ thống tính toán. Khi người dùng truy cập vào trang web,
chương trình applet sẽ chạy và thực thi việc tính toán. Chúng ta có thể vào web ở bất
kỳ máy tính nào có kết nối mạng Internet, và ngay lập tức có thể tham gia vào công

việc tính toán.
Tích hợp trang web đó vào một ứng dụng Facebook sẽ tạo thành một công cụ
tuyệt vời để phát triển các dự án tính toán. Theo thông kê mới nhất của Nielsen (một
công ty khảo sát thị trường) cho thấy Facebook là địa chỉ gây tốn thời gian nhất của
người dùng trên Web. Người dùng Facebook cũng bỏ thời gian lên mạng gấp 3 lần
so với người không tham gia mạng lưới giao tiếp xã hội này.
Một ứng dụng Facebook có thể sử dụng như những phần mềm tham gia vào
hệ thống tính toán phân tán, đó sẽ là một phướng án tốt để mở rộng hệ thống tính
toán phân tán, tăng số người tham gia vào hệ thống, từ đó tăng khả năng tính toán
1.2 Nội dung khóa luận
Trong khóa luận này chúng tôi trình bày một số nghiên cứu về các hệ thống
tính toán phân tán, các Middleware phổ biến dùng trong các hệ thống tính toán phân
tán. Bước đầu triển khai một hệ thống tính toán phân tán, với một ứng dụng
Facebook được sử dụng để người dùng có thể tham gia vào hệ thống tính toán.
Nội dung chi tiết khóa luận gồm 5 chương:
Chương I: Giới thiệu về khóa luận, đặt ra vấn đề cần giải quyết trong khóa
luận.
Chương II: Giới thiệu một số hệ thống tính toán phân tán, kiến trúc của hệ
thống và đưa ra những so sánh. Ba hệ thống được giới thiệu là BOINC,
Condor, Globus đây là 3 hệ thống phổ biến hiện nay.
Chương III: Trình bày kiến trúc hệ thống tính toán phân tán sử dụng ứng
dụng Facebook thay thế cho phần mềm .
Chương IV: Trình bày cách cài đặt chương trình, triển khai một số ứng dụng
tính toán phân tán trên hệ thống và kết quả.
Chương V: Tổng kết, nhận xét về hệ thống, những thành quả đã đạt được và
những kế hoạch phát triển của dự án.
Chương II: Các hệ thống tính toán phân tán
2.1 BOINC
2.1.1: Giới thiệu
BOINC [8] viết tắt của Berkeley Open Infrastructure for Network Computing (Cơ

sở hạ tầng mã nguồn mở cho tính toán mạng) là một phần mềm trung gian cho việc tính
toán tình nguyện và tính toán lưới. Ban đầu BOINC được xây dựng để phục vụ dự án
SETI@home, một dự án tìm kiếm tín hiệu ngoài trái đất. Sau đó nó trở lên phổ biến và
được sử dụng cho nhiều dự án tính toán khác nhau trong nhiều lĩnh vực như toán học, y
học, sinh hoc… BOINC là một phần mềm mã nguồn mở, vì vậy những nhà phát triển có
thể tải mã ngồn về để cấu hình và cài đặt theo ý muốn.
2.1.2: Kiến trúc BOINC
Hệ thống BOINC gồm có 2 thành phần chính là hệ thống Server và phần mềm
(Hình 2.1)
Server
Thành phần chính của BOINC là Backend Server, server có thể chạy trên
một hoặc nhiều máy tính khác nhau, điều này giúp cho hệ thống BOINC dễ dàng
mở rộng quy mô của dự án. BOINC Server chạy trên nền tàng hệ điều hành
Linux và sử dụng APACHE, PHP và MySQL làm nền tảng cho hệ thống web và
cơ sở dữ liệu.
Các ứng dụng tính toán chạy trên máy tính thành viên, kết quả được gưi lên
cơ sở dữ liệu của ứng dụng tính toán, tại đây nó sẽ được xử lý. Trước khi kết quả
được gửi lên cơ sở dữ liệu của ứng dụng tính toán, nó được kiểm tra tính đúng
đắn bởi Server Backend. Server Backend kiểm tra tính đúng đắn của kết quả
bằng cách gửi các workunit tới nhiều máy khác nhau, và so sánh kết quả nhận
được của một workunit khác nhau.
Workunit là một khối lượng tính toán nhỏ của bài toán, được thực hiện trên
máy tính . Một workunit gồm nhiều Task, Result là kết quả của một task, Server
sẽ tự động tạo ra những tập kết quả tương ứng với các workunit khi workunit
được tạo (không phải là result thật, mà chỉ là một thể hiện của kết quả), các result
này được lưu vào cơ sở dữ liệu, khi một task hoàn thành và gửi kết quả lên
server, result tương ứng trong cơ sở dữ liệu của server sẽ được đánh đấu là đã
hoàn thành. Khi tập tất cả result của một workunit được đánh dấu, workunit đó
được báo là đã hoàn thành
BOINC server cung cấp một vài tính năng như:

+ Validator: Chức năng này kiểm tra kết quả gửi về từ có chính xác hay
không. Một workunit được gửi tới nhiều máy cùng thực thi, kết quả gửi về từ
những máy đó được server so sánh, kết quả có tỉ lệ cao nhất được coi là kết quả
đúng.
+ Homogeneous redundancy: Chức năng này sẽ chỉ gửi một workunit tới
những máy tính có cùng cùng một platform (cùng hệ điều hành…), điều này sẽ
giúp quá trình validator được dễ dàng và chính xác hơn.
+ Workunit trickling: Gửi các thông tin tới server trước khi các workunit
hoàn thành, điều này giúp cho việc đánh giá để có thể gủi một workunit mới kịp
thời, giúp cho việc tính toán nhanh hơn, giảm tối thiểu thời gian nhàn rỗi của
máy .
+ Locality Scheduling: Chỉ gủi các workunit(không gửi các file cần thiết) tới
các máy đã có các file cần thiết để nhanh chóng thực thi workunit.
+ Phân phối các workunit dựa vào các tham số của máy : Chức năng này
đảm bảo việc gửi workunit tới những máy tính có khả năng thực thi workunit đó.
BOINC server bao gồm 2 chương trình CGI và thường có 5 deamons.
- Một chương trình CGI lập lịch xử lý các yêu cầu từ phía , nhận các
workunit đã hoàn thành và gửi đi những workunit mới.
- Một chương trình CGI xử lý việc upload file.
- 5 deamons:
+ Feeder
+ Validator
+ Assimilator
+ File_deleter
+ Transitioner
Hình 2.1 Kiến trúc hệ thống BOINC
Một workunit được chia thành nhiều task, mỗi task tương ứng với một
result trong cơ sở dữ liệu, khi task hoàn thành gửi về server, result tương ứng
được đánh dấu đã hoàn thành. Một deamons Feeder có trách nhiệm đọc các task
trong cơ sở dữ liệu và lưu chúng trong các khối nhớ, bộ lập lịch sẽ đọc các task

trong khối nhớ và gửi chúng tới , Feeder sẽ định kỳ là rỗng các khe trong khối
nhớ sau khi task được gửi đi.
Sheduling
Server
DATA
Server
Web interfaces
BOINC
DB
Core Client
Project back end
BOINC Server Complex
Application Client
Client API
Server
Client
Project Specific component
BOINC components
Khi các result của một workunit được thực hiện xong và gửi về server,
deamon Validator sẽ tiến hành so sánh chúng, Validator có thể được viết bởi
người phát triển ứng dụng để đặt ra những thuật toán so sánh, hay những hàm
đánh giá các kết quả, hoặc đơn giản là so sánh các bit. Nếu các kết quả trùng
nhau nó sẽ được coi là hợp lệ và được sử dụng làm kết quả của workunit.
Tiếp đó deamon Assimilator thực hiện việc xử lý các kết quả hợp lệ dựa
trên code của dự án, việc xử lý này là phụ thuộc vào từng dự án, có dự án cần
phân tích các file kết quả và lưu chúng vào cơ sở dữ liệu, hoắc đơn giản chỉ là
copy từ nới này sang nơi khác.
Deamon File_deleter có nhiệm vụ xóa những output đã được xử lý bởi
Assimilator và các file input không cần thiết.
Deamon Transitioner xử lý việc chuyển trạng thái của workunit và result,

nó cũng tạo ra các result từ workunit khi chúng được tạo ra, hay tạo thêm những
result nếu cần thiết(cho những trường hợp result không thoa mãn trong quá trình
validator hoặc không gửi được lên server).
BOINC Client
BOINC Client là một kết cấu gồm một số ứng dụng độc lập, chúng sử
dụng cơ chế BOINC remote procedure call (thủ tục gọi điều khiển từ xa của
BOINC) để liên lạc với nhau.
Những thành phần ứng dụng gồm có:
+ Chương trình BOINC , đây là một chương trình đóng vai trò là lõi của ,
nó có những tính năng và thực hiện những nhiệm vụ sau:
 Tạo và duy trì kết nối giữa và server
 Tải về những ứng dụng khoa học, cung cấp một cơ chế đăng nhập
thống nhất để đảm nảo rằng các ứng dụng khoa học được cập nhật, lập lịch
sử dụng tài nguyên CPU của các ứng dụng khoa học.
 BOINC chạy trên Unix như một chương trình deamon. Trên
Windows, ban đầu BOINC không phải là một dịch vụ danh cho Windows
mà chỉ là một ứng dụng bình thường. sau này có một vài phiên bản dành
cho windows và nó là một tùy chọn trong quá trình cài đặt.
 Phụ thuộc vào cách cài đăt BOINC nó có thể là một chương trình
chạy nền hoặc được chạy khi người dùng khởi động máy.
+ Một hoặc một vài ứng dụng khoa học: Những ứng dụng khoa học này
thực hiện việc tính toán các bài toán khoa học, những ứng dụng này là đặc trưng
cho từng dự án tính toán phân tán. Những ứng dụng khoa học sử dụng BOINC
deamon để tải về và gửi đi những workunit, hay để trao đổi những thông tin
thống kê với server.
+ Một boincmgr (boincmgr.exe): là một giao diện tương tác với lõi của ứng
dụng(core ) sử dụng remote procedure call. Mặc định core chỉ cho phép kết nối
từ cùng một máy tính, nhưng nó có thể cấu hình để có thể kết nối từ những máy
tính khác.
+ BOINC screensaver: cung cấp một framework nhờ đó các ứng dụng khoa

học có thể hiển thị hình ảnh trên cửa sổ screensaver của người dùng. Thông
thường BOINC screensaver hiển thị những hoạt ảnh thể hiện chi tiết của ứng
dụng khoa học, hoặc những biểu đồ hay những đồ thị thể hiện việc tính toán.
2.1.3 Một số dự án đang thực hiện bởi BOINC
SETI@Home: SETI@Home [8] là một thí nghiệm khoa học, sử dụng những máy
tính kết nối trên Internet để tìm kiếm nền văn minh ngoài trái đất. Đây là một
phần của dự án SERENDIP (Search for Extraterrestrial Radio Emissions from
Nearby Developed Intelligent Populations) của đại học California, Berkeley. Đài
thiên văn Arecibo thu thập những tin hiệu trên không trung, sau đó những tín
hiệu này được gửi tới những máy tính tham gia vào dự án để tính toán và phân
tích. Các kết quả được trả lại server của dự án.
Để tham gia vào dự án, người dùng phải tải về và cài đặt phần mềm tính
toán trên máy của mình, mỗi khi máy tính rỗi, phần mềm sẽ tự động tải về một
lượng dữ liệu (khoảng 300KB) và tiến hành tính toán.
Thông tin chi tiết về dự án có tại trang chủ của dự án

ABC@Home: ABC@Home [7] là một dự án toán học nhằm tìm ra bộ 3 số a,b và
c để chứng minh cho giả thuyết về bộ 3 số ABC (ABC conjecture), giả thuyết 3
số ABC nêu lên rằng, chỉ tồn tại duy nhất 3 số a,b và c sao cho log(c) / log(rad(a *
b * c)) > h với h là một số thực lớn hơn 1. Ba số a,b,c thỏa mãn điều kiện trên khi
nó thỏa mãn những điều kiện sau
+ a + b = c
+ a<b<c
+ a,b,c không có ước số chung
+ c > rad(a * b * c)
Việc chứng minh được giả thuyết ABC sẽ giúp giải đáp nhiều câu hỏi
trong toán học. dự án đang được thực hiện bởi trường đại học Leiden, thông tin
về dự án có trên trang chủ />2.2: Condor
2.2.1 Giới thiệu
Condor là kết quả của một dự án nghiên cứu trong trường đại học Wisconsin-

Mandison, Condor là một hệ thống quản lý, lập lịch cho những công việc cần tính toán
lớn, người dùng gửi công việc của họ lên Condor, Condor lưu chúng trong hàng đợi của
nó, lựa chon nơi nào, khi nào sẽ thực thi công việc đó, và báo cho người dùng kết quả
khi hoàn thành. Khác với những hệ thống cổ điển, Condor không đòi hỏi cần có những
máy móc chuyên dụng, Condor sẽ gửi những công việc (jobs) tới những máy phù hợp
với yêu cầu của công việc đó.
2.2.2 Kiến trúc
Hệ thống Condor [1] gồm 3 thành phần chính: Central Manager, Submit
Machine, Execution Machine (Hinh 2.2).
Central Manager
Central Manger có nhiệm vụ thu thập những nguồn tài nguyên, và những thông
tin về tất cả các máy tính tham gia vào mạng lưới tính toán, và đưa ra những chính
sánh hoạt động chung cho cả mạng lưới, Dựa vào những thông tin này, một job sẽ
được gửi tới những máy có tài nguyên phù hợp với yếu cầu tính toán của nó.
Những deamon chính chạy trên Central Manager.
Condor_collector: Deamon này chịu trách nhiệm thu thập thông tin về
trạng thái của những máy tính tham gia vào Condor Pool(một tập hợp
máy tính tham gia vào hệ thống phân tán). Tất cả những deamons khác
định kỳ gửi ClassAd tới collector. ClassAd là những bản ghi về tài
nguyên cần thiết của một job cũng như tài nguyên có của những máy
tham gia vào mạng lưới, điều này giúp cho việc gửi job tới đúng những
máy có thể thực thi chúng. Condor_collector có thể coi như một cơ sở
dữ liệu động của ClassAd. Lệnh condor_status có thể dùng để truy vấn
tới collector về những thông tin của hệ thống Condor. Những deamon
khác cũng có thể truy vấn tới collector để lấy những thông tin quan
trọng như địa chỉ sử dụng để gửi lệnh tới những máy tính ở xa.
Condor_negotiator: Deamon này chịu trách nhiệm tạo ra tất cả những
kết nối trong hệ thống Condor. Nó cũng có trách nhiệm quản lý quyền
ưu tiên của những người dùng trong hệ thống.
Submit Machine

Submit Machine cho phép người dùng gửi những job tới một hàng đợi ảo ở
trên máy cục bộ (scheduler). Scheduler sẽ đàm phán với Central Manage để yêu
cầu Central Manager cấp cho những tài nguyên cần thiết cho việc thực thi job.
Khi có một tài nguyên được cấp cho job, Scheduler sẽ gọi chương trình deamon
Shadow, chương trình này chịu trách nhiệm quản lý việc thực thi job đó, đồng
thời thực thi những công việc như: kiểm tra trạng thái hoàn thành, lập lịch lại
trong các trường hợp job bị lỗi, hay thực thi những lệnh gọi hệ thống của những
máy tính đang chạy job.
Hình 2.2 Kiến trúc hệ thống Condor
Những deamon chính chạy trên Submit Machine
Condor_schedd: Deamon này có nhiệm vụ miêu tả job trong Condor Pool,
người dùng có thể gửi những job tới một condor_schedd đang chạy,
những job này được lưu trong job queue, những demons khác có nhiệm vụ
xem và thao tác tới job queue như: condor_submit, condor_q, condor_rm
sẽ kết nối tới condor_schedd để thực thi công việc của nó.
Condor_shadow: Deamon này sẽ chạy khi một job được thực thi, khi một
job hoàn thành, deamon này thực hiện việc truyền file, ghi những log file
Condor_collector
Condor_negotiator
Submit Machine
Controlling Deamons
schedd
Condor_shadow
Controlling Deamons
startd/starter
User’s job
User’s code
Condor_Syscall_Lib
Checkpoint file and
saved to disk

System call
performed
Central Manager
Execution Machine
và đưa ra những bản thống kê về quá trình thực thi job. Jobs được liên kết
tới Condor's Standard Universe, cái mà thực thi những lệnh gọi hệ thống
thông qua condor_shadow. Tất cả những lệnh gọi hệ thống được thực hiện
trên máy tính từ xa đều được gửi qua mạng tới condor_shadow,
condor_shadow sẽ thực thi những lệnh gọi thế thống (như vào ra file) rồi
gửi kết quả trả lại cho máy tính đó.
Execution Machine
Exeution Machine chạy trên các máy tính tham gia vào lưới tính toán,
deamon Startd thực thi những job mà Submit Machine gửi tới, khi chạy nó gửi
tới Central Manager những thông tin về khả năng thực thi của nó, những thông
tin như dung lượng bộ nhớ hay tốc độ của CPU. Một deamon khác là Starter chịu
trách nhiệm quản lý việc thực thi job trên máy đó, nó có thể đưa ra những chính
sách riêng để quản lý việc thực thi job
Những deamon chính chạy trên Execution Machine
Condor_startd: Deamon này chạy trên các máy tính tham gia vào Condor
Pool, nó như một thể hiện của máy tính tham gia vào mạng lưới tính toán.
Condor_startd gửi ClassAd của máy tính mà nó chạy tới Central Manager,
những thông tin trong ClassAd gồm có những thông tin về khả năng thực
thi của máy đó, cũng như chính sách hoạt động của máy đó. Một máy tính
chạy condor_startd sẽ có thể thực thi job, condor_startd chịu tránh nhiệm
thi hành những chính sách thực thi một job trên máy tính đó, như việc
chạy, tạm dừng, khôi phục, bỏ không, hoặc hủy bỏ job. Khi condor_startd
chạy và sẵn sàng thực thi job, nó sẽ gọi tới condor_starter.
Condor_starter: Deamon này chịu trách nhiệm thiết lập môi trường thực
thi và điều khiểm việc thực thi job. Khi một job đang được thực thi,
condor_starter lấy thông tin về trạng thái hoàn thành của job và gửi những

thông tin này lên Submit Machine, khi job hoàn thành deamon này sẽ
ngừng.
2.3: Globus Toolkit
2.3.1 Giới thiệu
Globus Toolkit [6] là một sản phẩm của Gobus Alliance, một tổ chức quốc tế
chuyên về phát triển những công nghệ dựa trên nền tảng tính toán lưới. Globus Toolkit
là một phần mêm mã nguồn mở, cho phép xây dựng lưới tính toán. Nó cho phép người
dùng chia sẻ khả năng tính toán, cơ sở dữ liệu hay những công cụ trong một tổ chức, cơ
quan hay một vùng địa lý rộng lớn.
2.3.2 Kiến trúc
Globus Toolkit gồm 3 nhóm dịch vụ chính, có thể truy cập tới thông qua một
lớp dịch vu bảo mật (Hình 2.3)
- Resource Management
- Data Management
- Information Services
Hình 2.3 Kiến trúc hệ thống Globus
Applications
Third Party User – Level Middleware
Grid Resources and Local Services
Security Layer (GSI)
Grid Resource
Management
(GRAM,GRASS)
Grid Information
Services (MDS)
Grid Data
Management(Gri
dFTP, Replica
Catalog)
Globus

Tầng Local Services bao gồm những dịch vụ của hệ điều hành, dịch vụ
mạng như TCP/IP, Submit Jobs, truy vấn Queues…. Tầng lõi của Globus cung
cấp dịch vụ bảo mật, Submit Jobs, quản lý dữ liệu, quản lý tài nguyên. Tầng cao
hơn (Level Middleware và Application) chứa những công cụ để liên lạc với tầng
dưới, và bổ sung những chức năng còn thiếu ở tầng dưới.
Security Layer
Grid Security Infrastructure (GSI) cung cấp phương thức cho việc xác
thực người dùng và đảm bảo những kết nối, nó sử dụng những công cụ như SSL
(Security Sockets Layer), PKI (Public Key Infrastructure) và X.509. GSI cung
cấp những dịch vụ, giao thức và những thư viện để thực hiện những việc sau.
Xác thực một người dùng tham gia sử dụng dịch vụ lưới tính toán.
Xác thực các nguồn tài nguyên tham gia vào lưới tính toán dựa.
Mã hóa dữ liệu.
Khi một người dùng muốn truy cập vào hệ thống, họ cần có một tài khoản
được chứng thực bởi một cơ quan chứng thực. Hầu hết các dịch vụ của hệ thống
đều yêu cầu xác thực người dùng trước khi cung cấp cho họ, điều này đảm bảo
cho việc bảo mất dự liệu cho cả hai bên,

Resource Management
Resource Management cho phép phân phối tài nguyên phù hợp cho từng
yêu cầu của Job, điều khiển việc thực thi Job và thu thập kết quả tính toán. Nhóm
này có 2 thành phần chính.
Globus Resource Allocation Manager (GRAM): GRAM cung cấp việc điều
khiển và báo cáo trạng thái quá trình thực thi của các máy . Khi một gửi
một Job tới hệ thống, một deamon Gatekeeper sẽ kiểm tra tính xác thực
của , nếu xác thực, gatekeeper sẽ khởi chạy một Job manager để quản lý
việc thực thi Job đó. Job manager được tạo ra độc lập trên những bộ lập
lịch bộ phận. GRAM có những bộ lập lịch như Portable Bacth System
(PBS), Load Sharing Facility (LSF), và LoadLeveler.
Những yêu cầu chi tiết của Job được chỉ định rõ trong Globus

Resource Specification Language (RSL), đây là một thành phần của
GRAM, RSL miêu tả rõ những tài nguyên một Job cần để thực thi như
kích thước tối thiếu của bộ nhớ, hay tốc độ của CPU.
Globus Access to Secondary Storage (GASS): GASS là một cơ chế truy cập
file, nó cho phép các ứng dụng có thể thực hiện những thao tác với file từ
xa như đọc, viết vào file. GASS sử dụng để cung cấp file cho việc thực thi
Job và nhận các kết quả khi Job hoàn thành. Nó cũng được sử dụng để
truy cập các dòng xuất nhập chuẩn và các dòng báo lỗi.
Information Services
Information Services quản lý thông tin của những node tham gia vào hệ
thống lưới. Thành phần chính của nó là Monitoring and Discovery Service
(MDS).
MDS cung cấp cơ chế cho phép công bố và truy vấn những thông tin, các
node có thể gửi những thông tin của nó lên server, và có thể truy vấn tới server
để lấy những thông tin cần thiết. MDS có 3 lớp.
Information Providers (IPs): Lớp dưới cùng có nhiệm vụ thu thập thông
tin và trạng thái của các tài nguyên, chuyển những thông tin đó theo định
dạng mà nó quy định.
Grid Resource Information Service (GRIS): Lớp này là một deamon, chạy
trên các máy tính tham gia vào lưới. GRIS lấy những thông tin trên các
máy đó và gửi những thông tin mà nó lấy được về server quản lý thông
tin. GRIS thường xuyên update những thông tin này sau một khoảng thời
gian time-to-live (là khoảng thời gian thông tin về máy còn hiệu lực) được
quy định bởi IPs.
Grid Information Index Service (GIIS): Thực hiện việc đánh chỉ mục
những thông tin về các tài nguyên.
Data Management
Data Management cung cấp những tiện ích và những thư viện cho việc
vận chuyển, lưu trữ và quản lý dữ liệu được tao ra bởi các ứng dụng tính toán.
Những thành phần của nhóm này có:

GridFTP: Là một mở rộng của giao thức FTP, cung cấp khả năng bảo
mật, tin cậy, hiệu suất cao trong việc vận chuyển dữ liệu trong môi trường

×