Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

76 đề thi thử 2019 megabook môn văn đề 10 file word có lời giải chi tiết image marked

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.56 KB, 7 trang )

ĐỀ SỐ

10

BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA THEO CHUẨN CẤU TRÚC ĐỀ THI CỦA BỘ
GD&ĐT
Môn: Ngữ Văn
Thời gian làm bài: 120 phút.

Đề thi gồm 02
trang
NGHĨ KHÁC LÀM KHÁC
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích:
...(1) “Khi còn trẻ, hãy ra ngoài nhiều hơn ở nhà. Hãy nhào vô xin người khác “bóc hết, lột sạch”
khả năng của mình. Chỉ sợ bất tài nộp hồ sơ “xin việc”, mà chả ai thèm cho, chả ai thèm bóc lột. Khi đã
được bóc và lột hết, dù sau này đi đâu, làm gì, bạn đều cực kỳ thành công. Vì năng lực được trui rèn trong
quá trình làm cho người khác. Sự chăm chỉ, tính kỷ luật, quen tay quen chân, quen ngáp, quen lười.. .cũng
từ công việc mà ra. Mọi ông chủ vĩ đại đều từng là những người làm công ở vị trí thấp nhất. Họ đều rẽ trái
trong khi mọi người rẽ phải. Họ có những quyết định không theo đám đông, không cam chịu sống một
cuộc đời tầm thường, nhạt nhòa... rồi chết.
(2) Còn những bạn thu nhập 6 triệu cũng túng thiếu, 20 triệu cũng đi vay mượn để tiêu dùng, thì
thôi, cuộc đời họ chấm dứt giấc mơ lớn. Tiền nong cá nhân quản lý không được, thì làm sao mà quản trị
tài chính một cơ nghiệp lớn? Tư duy thế nào thì nó ra số phận thế đó.”
(Trích Trên đường băng, Tony Buổi Sáng, NXB Trẻ, 2015)
Trả lời các câu hỏi sau:
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích? Chỉ ra cơ sở giúp anh/ chị xác định phong cách
ngôn ngữ của đoạn trích?
Câu 2. Nêu ngắn gọn nội dung và mục đích của đoạn trích?
Câu 3. Chỉ ra hai phép liên kết hình thức được sử dụng trong phần (1) của đoạn trích?
Cầu 4. Theo anh/ chị, thời điểm nào là hợp lí để người trẻ bắt đầu tự quản lí tài chính cá nhân? (trình bày


trong một đoạn văn khoảng 5-7 câu)
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Bằng đoạn văn khoảng 200 chữ, hãy bàn luận về cách hành xử “rẽ trái khi mọi người đều rẽ phải”.
Câu 2 (5 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp tâm hồn, những khát vọng của hai thi sĩ Xuân Quỳnh, Xuân Diệu
trong những đoạn thơ dưới đây:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng - Xuân Quỳnh)

Trang 1/5


Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và mây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
(Vội vàng - Xuân Diệu)

Trang 2/7



HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1

Văn bản được viết theo phong cách ngôn ngữ chính luận.
Cơ sở xác định:
+ Văn bản nêu quan điểm của tác giả về vấn đề thái độ với công việc và thành công của
mỗi người.
+ Có hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng.
+ Cách lập luận logic, chặt chẽ.

Câu 2

Nội dung: Đoạn trích trình bày quan điểm của tác giả về thái độ làm việc để có thể thành
công trong sự nghiệp và cách quản lí tài chính cá nhân của mỗi người.
- Mục đích: Khích lệ mọi người can đảm dấn thân trong công việc để trau dồi năng lực,
kinh nghiệm, thói quen để đi đến thành công, tránh cuộc sống bình lặng, nhàm chán, tẻ
nhạt. Bắt đầu bằng cách học cách quản lí tài chính của bản thân.

Câu 3

HS chọn 2 trong các phép liên kết hình thức sau để trình bày vào bài.
Phép liên kết:
+ Phép nối “Vì” nối câu thứ ba và câu thứ 4 của đoạn.
+ Phép lặp từ “bóc”, “lột”, “họ”
+ Phép thế: “họ ” thay thế cho “ông chủ”
+ Phép liên tưởng: trường từ vựng về “lao động”: khả năng, xin việc, thành công, năng
lực, chăm chỉ, tính kỷ luật, ông chủ, làm công,...

Câu 4


- Về hình thức: 5-7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
- Về nội dung:
+ Nêu quan điểm: 18 tuổi/16 tuổi/ không có thời điểm chung.
+ Bàn luận làm sáng tỏ.
Sau đây là một ví dụ:
Tự quản lí tài chính cá nhân là bước khời đầu cho sự tự chủ. Không có thời điểm nào là
dấu mốc chung cho tất cả mọi người. Có những cậu bé đã tự làm thêm việc nhà và tự
quản lí tiền tiêu vặt của mình khi vẫn là cậu học sinh tiểu học. Bởi vậy, ngay hôm nay có
thể chính là thời điểm thích hợp để bạn và tôi hình thành và rèn luyện kĩ năng quản lí tài
chính của bản thân rồi.

II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
Yêu cầu chung về hình thức và kết cấu đoạn văn:
• Xác định đúng vấn đề nghị luận.
• Nêu được quan điểm cá nhân và bàn luận một cách thuyết phục, hợp lí.
• Đảm bảo bố cục: mở - thân - kết, độ dài 200 chữ.
• Lời văn mạch lạc, lôi cuốn, đàm bảo chính tả và quy tắc ngữ pháp.

Yêu cầu nội dung:
Có nhiều hướng trình bày ý kiến, sau đây chỉ là một gợi ý:
Trang 3/7


Câu
Nêu vấn đề

Luận bàn


Nội dung

Đoạn văn

+ Vấn đề

+ Nghĩ khác làm khác, biết sáng tạo.

+ Giải thích

+ Mọi người rẽ phải: lối suy nghĩ phổ biến của cộng đồng.
Rẽ trái: biết nhìn nhận và quyết định khác biệt, đột phá.

Có nên khác biệt?

+ Biết nghĩ khác và làm khác đi là tố chất đầu tiên của người
có tư duy sáng tạo, có ý chí vươn lên.
+ Những người thành công thường cầu thị và sẵn sàng đổi
mới: Steven Jobs với công nghệ đột phá là một ví dụ.

Phản biện

Có phải lúc nào khác + Khác biệt mà không có cơ sở dễ dẫn đến sự cố chấp, bảo
biệt cũng thành công?
thủ quan điểm chưa hợp lí của cá nhân.
+ Có những người sợ thất bại, không dám mạo hiểm, không
dám thử thách.

Giải pháp


Liện hệ

+ Hành động

+ Tôn trọng sự khác biệt và sáng tạo.

+ Nhận thức

+ Sáng tạo và khác biệt cần những cơ sở khoa học và nhìn
nhận toàn diện, tránh sự bảo thủ, cố hữu.

Bài học cho bản thân

Mạnh dạn dấn thân, bộc lộ năng lực cá nhân.

Câu 2 (5 điểm)
Yêu cầu chung: 0,5 điểm
Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải
có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
• Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.

Yêu cầu nội dung: 4,5 điểm
ĐỌC HIỂU YÊU CẦU ĐỀ
- Đối tượng chính, trọng tâm kiến thức: Sóng, Vội vàng
- Dạng bài: So sánh
- Yêu cầu: Học sinh phân tích nội dung, nghệ thuật, làm sáng rõ về những khát vọng của Xuân Quỳnh và
Xuân Diệu, qua đó chỉ được nét tương đồng và điểm riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của từng nhà thơ.
TIẾN TRÌNH LÀM BÀI
KIẾN THỨC


HỆ THỐNG Ý

PHÂN TÍCH CHI TIẾT

CHUNG

Khái quát vài
nét về tác giả tác phẩm

- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ trẻ xuất sắc trưởng
thành từ kháng chiến chống Mỹ và là một trong số ít những nhà thơ
nữ viết rất nhiều và rất thành công về đề tài tình yêu.

0,5 điểm

- Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc
ẩn, vần thơ của bà vừa chân thành đằm thắm, vừa nồng nàn mãnh liệt
và hơn hết luôn bật lên khát vọng da diết về hạnh phúc bình dị đời
thường. Bài thơ Sóng ra đời năm 1967 trong chuyến đi thực tế của
nhà thơ về vùng biển Diêm Điền tỉnh Thái Bình và lúc này thì bản
thân nhà thơ cũng vừa trải qua một sự đổ vỡ trong tình yêu. Bài thơ
được in trong tập Hoa dọc chiến hào năm 1968.
Trang 4/7


- Xuân Diệu (1916-1985) - một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của
dân tộc, đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất
có giá trị. Ông được mệnh danh: Ông hoàng của thơ tình, là chàng
hoàng tử của thi ca, nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ... Xuân Diệu đã
đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm

xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách
tân nghệ thuật đầy sáng tạo, với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu
đời thắm thiết.
- Trước cách mạng, với hai tập Thơ Thơ và Gửi hương cho gió, Xuân
Diệu đã chính thức trở thành “nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ
mới”. Bài thơ Vội vàng được sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ
Thơ là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân
Diệu viết về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu.
TRỌNG
TÂM

4,0 điểm

Đối sánh

Điểm tương đồng:
+ Xét về vị trí của đoạn thơ, hai trích đoạn đều thuộc khổ cuối của
bài, với nhiệm vụ rất quan trọng: Khép lại cả bài thơ, đồng thời đó là
gửi gắm những thông điệp lớn mà tác giả muốn nhắn gửi cùng độc
giả.
+ Xét về nội dung: Điểm tương đồng có thể thấy rất rõ ở cả hai khổ
đó là giải pháp chống lại thời gian trôi chảy. Bởi trước đó, trong dấu
ấn toàn bài, ta thấy được cả hai thi sĩ cùng đã chỉ ra sức mạnh vô
cùng của thời gian trôi. Với Xuân Diệu là: Xuân đương tới nghĩa là
xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.... Còn Xuân
Quỳnh, chị cũng đầy những ưu tư, niềm lo nghĩ trước những giới hạn
của đời người: Cuộc đời tuy dài thế/ Năm thàng vẫn đi qua/ Như biển
kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa.
+ Đọc và suy ngẫm kỹ, ta đều thấy rằng vẻ đẹp của hai tâm hồn được
thể hiện trong đoạn trích đều là những tâm hồn biết yêu hết mình,

đều là những tâm hồn đầy khao khát, muốn sống trọn vẹn nhất với
cuộc đời này, muốn tận hưởng và dâng hiến trong từng khoảnh khắc.
Điểm khác biệt:
Với thi sĩ Xuân Diệu: Đó là một cái Tôi tham lam, vội vàng, muốn
sống và tận hưởng trọn vẹn từng khoảnh khắc của cuộc sống.
+ Mở đầu khúc thơ cuối là câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt
chính giữa khổ thơ: “Ta muốn ôm”. Câu thơ làm nổi bật lên hình ảnh
một cái tôi ham hố đang dang rộng cánh tay ôm hết, ôm khắp, ôm
trọn tất cả sự sống mơn mởn non tơ đang bày ra trước mắt. Điệp ngữ
"ta muốn” còn lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp
theo. Đại từ nhân xưng “tôi” bất ngờ chuyển hóa thành “ta”. Có lẽ thi
sĩ đang nói lên khát vọng của bao người, hối thúc, lay tình bao người
hãy sống mãnh liệt, hãy sống tận độ trong từng giây phút. Nhịp thơ
gấp, giọng điệu cuồng nhiệt, hối hả, hối thúc... đó cũng chính là cách
mà Xuân Diệu đã đưa: sống vội, sống gấp để tận hưởng cuộc đời.
+ Tận hưởng bằng mọi giác quan, căng mọi giác quan để tận hưởng
Trang 5/7


cuộc sống, đặc biệt là đặc tả qua cách cảm nhận bằng xúc giác: ôm,
riết, thâu, cắn mạnh mẽ. Như vậy, với Xuân Diệu, cách cảm nhận
cuộc sống không thể hời hợt, nông nông, mà phải mãnh liệt, phải dạt
dào, dâng trào đến đỉnh cùng của cảm giác.
+ Tận hưởng đến từng phút giây, trọn vẹn trong từng khoảnh khắc:
Các động từ mạnh được Xuân Diệu sử dụng tăng tiến dần theo cấp
độ: ôm, say, riết, thâu, cản. Đó là cách ông tận hưởng đã đầy nhất,
một cách trọn vẹn đến tận cùng nhất trong khoảnh khắc, bởi vì khi đã
no nê, chếnh choáng, đã đầy, cũng có nghĩa là thỏa mãn nỗi khát
thèm tận hưởng cuộc đời, những vẻ đẹp quá đỗi quyến rũ ngoài kia...
Và cũng có nghĩa là phút giây đó trôi qua, ông sẽ không lãng phí, sẽ

không nuối tiếc, sẽ không u buồn bởi chẳng thể có sức mạnh siêu
nhiên mà níu giữ. Ta thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn thi sĩ. Đó là
một tầm hồn khao khát sống, một tâm hồn khao khát gắn bó với đời,
đặc biệt hơn, tâm hồn đó làm đẹp và tô điểm thêm cho hương sắc
cuộc đời này.
Với nữ sĩ Xuân Quỳnh:
+ Khác với Xuân Diệu, muốn sống vội, sống gấp, tận hưởng trọn
cùng từng khoảnh khắc. Nữ sĩ đã đưa ra giải pháp để chống lại thời
gian trôi: “Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ”. Câu thơ
mở ra một khao khát của nhân vật trữ tình. Đó là ước vọng được hóa
thành những con sóng. Những con sóng với bao phẩm chất tốt đẹp,
với bao cá tính mạnh mẽ, với bao ồn ào dữ dội, phức tạp, nhưng luôn
hết mình trong tình yêu với bờ, luôn đầy dũng cảm và quyết tâm
trong cuộc hành trình bao gian nan thử thách. Vậy, có thể nói ước ao
được hóa những con sóng đã thể hiện một ước muốn của thi sĩ trong
tình yêu: Hãy biết đi tìm tình yêu đích thực như sóng, hãy yêu và
mãnh liệt không ngừng như những con sóng. Chỉ có như vậy, ta mới
có được tình yêu, mới có được hạnh phúc trọn vẹn. Có như như vậy,
hạnh phúc mới bền lâu trước thời gian.
+ Nhưng dù tình yêu đã tìm được bến, hạnh phúc đã trọn vẹn, thế
nhưng kiếp người tuy dài cũng thật ngắn ngủi trước sự vô thủy vô
chung của đất trời. Đời người chỉ như một cái chớp mắt của vũ trụ.
Sẽ đến lúc phải chạm đến những giới hạn, và lúc đó tình yêu cũng
chấm hết. Giải pháp mà Xuân Quỳnh đưa ra thật khiến ta cảm động,
cảm động trước một tâm hồn đẹp, vị tha: “Làm sao được tan ra?”.
Tan là sự tan hòa, nghĩa là sự hi sinh và dâng hiến. Tình yêu của cái
tôi là tình yêu vị kỉ, nhưng nếu tình yêu đó biết hòa nhịp, biết sẻ chia,
tình yêu đó sẽ được nhập vào biển lớn tình yêu. Nơi đó, bao con
người cùng khao khát, cùng sống hết mình trong tình yêu. Và nơi đó,
cũng như biển lớn, mãi hát khúc ca tình yêu, khúc ca đó mãi dào dạt

đến muôn đời.
Lý giải sự
tương đồng và

- Tương đồng: Trước hết cả hai thi sĩ đều là những cái Tôi đầy nhạy
cảm, đều là những tâm hồn dễ xao động. Chính vì vậy, trước sự chảy
Trang 6/7


khác biệt

trôi và sự tàn phá qua mỗi bước thời gian, cả hai tâm hồn ấy không
tránh khỏi sự suy tư, lo âu và rất nhiều trăn trở. Thứ hai, ta có thể
nhận thấy, họ đều là những con người của hành động, họ không để
cho sự lo âu cắn xé, làm hao mòn tâm trí, họ cùng đi tìm và đã tìm ra
những giải pháp cho riêng mình. Đó là những giải pháp đầy tích cực,
thể hiện những tâm hồn yêu sống, trân trọng cuộc đời và tình yêu.
- Sự khác biệt: Xuân Diệu là thi sĩ với cái Tôi đầy mạnh mẽ. Tình
yêu trong thơ ông không bao giờ nửa vời, nhợt nhạt. Luôn chạm đến
tột cùng cảm xúc, cháy hết mình cho tình yêu. Những câu thơ như có
men say khiến người đọc ngây ngất, thể hiện sự mãnh liệt, nồng nàn.
Xuân Quỳnh thì lại khác, thơ nữ sĩ, đặc biệt là Sóng, đó là một cái
Tôi hết sức trữ tình, đằm thắm, không thiếu những diết da, rung cảm,
nhưng vẫn là dịu dàng, sâu sắc của một trái tim nữ giới.

Trang 7/7




×