Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Nguyên lý vê mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển ý nghĩa phương pháp luận, sự vận dụng của đảng CSVN liên hệ công tác CA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.04 KB, 38 trang )

LÝ LU Ậ
N CHÍNH TR Ị
Nguyên tắc chung khi làm bài
- nắm được các ý nội dung của câu hỏi;
- Khẳng định nội dung đó có ý nghĩa đối với hoạt động thực tiễn;
- Vận dung đưa vào thức tế công tác bằng các ví dụ cụ thể (được điểm cao);
- Hướng phấn đấu của bản thân để thực hiện được mục tiêu đó;
- Khẳng định lại ý nghĩa của nó với cuộc sống.
PHẦN I: TRIẾT HỌC
Câu 1: Nguyên lý vê mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa phương
pháp luận, sự vận dụng của Đảng CSVN. Liên hệ công tác CA.
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan đều tồn
tại trong mối quan hệ phổ biến. Liên hệ là khách quan, phổ biến, đa dạng, phong phú, muôn vẻ.
- Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng
trong thế giới.
- Mọi mối liên hệ của các sự vật và hiện tượng là khách quan, là vốn có của chúng. Mối liên
hệ là phổ biến, hiện thực, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, thể hiện tính khách quan, tính
thống nhất của thế giới vật chất.
- Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà còn mang tính phổ biến bởi vì nó tồn tại
trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên xã hội và tư duy. Tồn tại ở mọi thời
điểm trong qua khứ hiện tại và cả trong tương lai.
Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật hiện tượng nó thể hiện tính
thống nhất vật chất của thế giới trong quá trình tự nhiên cũng như trong xã hội loài người. Do
mối liên hệ là phổ biến, nên có tính đa dạng phong phú, các sự vật hiện tượng trong thế giới vật
chất là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì thế khi nghiên cứu các sự vật hiện
tượng cần phải phân loại mối liên hệ một cách cụ thể. Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ,
vai trò của các mối liên hệ, chúng ta có thể phân chia ra thành một số loại mối liên hệ như: mối
liên hệ bên trong và bên ngoài; mối liên hệ của bản chất và không bản chất; mối liên hệ trực tiếp


và gián tiếp; mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên.
- Sự phân loại các mối liên hệ cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi loại mối liên hệ trong từng
cặp có thể chuyên hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoạc do kết quả của
sự vận động và phát triển của chính các sự vật, hiện tượng. Các mối liên hệ có vai trò khác nhau
đối với sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận.
- Nếu trong thế giới khách quan mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ biện
chứng phổ biến, đa dạng thì muốn phản ánh và nhận thức đúng về sự vật để hành động có hiệu
quả. Chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh lối xem xét phiến diện một chiều để không đi
đến những kết luận sai lầm.
- Quan điểm toàn diện có ý nghĩa khi xem xét sự vật phải nghiên cứu tất cả mối liên hệ sự tác
động qua lại của sự vật ấy với sự vật khác của các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật đó phải đặt
nó trong những điều kiện không gian và thế giới nhất định, phải nghiên cứu quá trình vận động
của nó trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai.
- Quan điểm toàn diện không có nghĩa là cầu toàn mà phải xem cụ thể theo từng loại mối liên
hệ để có nhận thức và có tác động khác nhau của các mặt, các yếu tố. Do đó ngoài quan điểm
1


toàn diện phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể là phải biết được cách giải
quyết những vấn đề có tính chất trọng tâm trọng điểm, những vấn đề phải nổi lên hàng đầu
trong từng lúc, từng giai đoạn. Muốn vậy, phải học tập để không ngừng nâng cao trình độ nhận
thức.
Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta phải bằng hoạt động thực tiễn của mình,
biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó
với những sự vật khác. Muốn vậy, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện khác
nhau để tác động nhằm thay đổi những liên hệ tương ứng.
Vận dụng của Đảng CSVN
Đảng ta chủ trương: đổi mới toàn diện, đồng bộ có nguyên tắc và có bước đi vững chắc đó là

mệnh lệnh của cuộc sống là quá trình không thể đảo ngược. Phương hướng đổi mới của Đảng ta
là tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu với bước đi
vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới về chính trị, đồng thời thúc
đẩy mạnh mẽ việc đổi mới các lĩnh vực khác.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả
các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đảng CSVN cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý
luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải
đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn chính trị, Đảng ta cũng xem xét đổi mới kinh tế là trọng tâm.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Đảng CSVN xác định: đổi mới toàn diện,mọi mặt đời
sống XH trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế.Theo từng bước đổi mới kinh tế chúng ta thận
trọng từng bước đổi mới hệ thống chính trị, cải cách hành chính nhưng không thay đổi mục tiêu
chính trị mà đổi mới nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng CS.
Tại Đại hội Đảng lầ thứ VIII, Đảng CSVN đã khẳng định:” Xét trên tổng thể Đảng ta đã bắt
đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối đối nội và
đối ngoại, không có sự đối nội đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi
tập trung trước hết và việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng
hoảng kinh tế- XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị,
xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện để đổi mới các mặt khác của đời sống
XH”./.
D. Liên hệ công tác công an:
- Đối với người công an nhân dân, việc nắm vững và vận dụng nguyên lý này là hết sức quan
trọng trong quá trình công tác và cuộc sống hàng ngày.
- Nắm vững nguyên tắc này sẽ giúp cho người cand hiểu được các sự vật hiện tượng một
cách đầy đủ, chính xác và khách quan để vận dụng vào công tác nghiệp vụ đạt được kết quả
đúng đắn nhất.
- Bản thân tôi là một chiến sĩ ...... cho nên việc vận dụng nguyên lý này là rất cần thiết đối với
tôi.
- Ví dụ: khi tôi gặp một vụ án là điều tra, làm rõ một vụ trộm tài sản và có đối tượng khả
nghi.
Khi nắm được nguyên lý này se giúp tôi không vội vàng để dẫn đến sai lầm. Mà tôi sẽ điếu

tra trên các manh mối, hiện tượng trong mối mối quan hệ tổng thể liên quan đến vụ án để có thể
tìm ra tội phạm.
- Đó là một đơn cử rất nhỏ trong công tác của người cand. Vận dụng nguyên lý này sẽ giúp
cho người cand hoàn thành được nhiệm vụ của mình, đảm bảo tính chính xac, khoa học và hiệu
quả trong công tác để bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.
b. Nguyên lý về sự phát triển, ý nghĩa PP luận và vận dụng…
2


Cùng với nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng
duy vật sẽ giúp chúng ta hiểu được bản chất của sự vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng đắn
về sự vật và hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao.
- Phát triển là một phạm trù triết học khái quát hoá quá trình vận động tiến lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Như vậy, nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau vì nhờ có
mối liên hệ thì sự vật mới có vận động và không có vận động thì không thể có sự phát triển của
các sự vật và hiện tượng.
Cần phải phân biệt khái niệm vận động với khái niệm phát triển. Vận động là mọi sự biến đổi
nói chung bao gồm cả biến đổi theo chiều hướng tiến lên, biến đổi vòng tròn, biến đổi thụt lùi
tan rã, tức là sự biến đổi không phụ thuộc vào tính chất, khuynh hướng hay kết quả của nó.
Nội dung nguyên lý về sự phát triển được thể hiện:
- Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế
giới.
Tính chất của sự phát triển là tiến lên trình độ cao hơn, nó phủ định cái cũ nhưng có kế thừa
những yếu tố tích cực của cái cũ trên cơ sở cái mới hoàn thiện hơn.
Đặc trưng của sự phát triển là xuất hiện cái mới. Cái mới ra đời trong đấu tranh cho nên sự
phát triển thường diễn ra quanh co phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian. Cái mới xuất
hiện không xuôi chiều thẳng tắp, có lúc có sự thụt lùi tạm thời.
Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do đấu tranh của
mới đối lập trong bản thân sự vật. Cách thức của sự phát triển là do lượng đổi dẫn đến chất đổi

và ngược lại.
Quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phát triển có sự khác nhau về căn bản.
Quan điểm siêu hình nói chung là phủ định sự phát triển vì học thường tuyệt đối hoá mặt ổn
định của sự vật, hiện tượng. Sau này khi khoa học đã chứng minh sự vận động và phát triển của
sự vật buộc họ phải nói đến sự phát triển, song đối với họ sự phát triển chỉ là tăng hay giảm về
lượng, không có sự thay đổi về chất và nguồn gốc của vận động và phát triển là ở bên ngoài sự
vật, hiện tượng.
Sự phát triển là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, XH và tư duy. Xét trong
phạm vi hẹp và ở trong trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, đi xuống, vòng tròn,
nhưng xét trong tổng thể không gian rộng lớn thì vận động đi lên là khuynh hường chủ đạo.
Khái quát tình hình đó triết học Mác-Lênin đã khẳng định: Phát triển là khuynh hướng chung
của mọi sự vận động của các sự vật , hiện tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta khẳng định lập trường duy vật. Thừa
nhận phát triển là khuynh hướng vốn có của các sự vật hiện tượng.
Nếu khuynh hướng chung của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan là vận động đi lên
thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải có quan điểm khi xem xét, nghiên cứu các
sự vật.
Quan điểm phát triển đòi hỏi khi phân tích sự vật đặt nó trong sự vận động đi lên, phát hiện
được xu hướng biến đổi và chuyển hoá của chúng. Phải có nhận thức nhanh để sớm phát hiện ra
cái mới ủng hộ cái mới, bảo vệ và tạo điều kiện cho cái mới ra đời. Phải tìm nguồn gốc của sự
biến đổi và phát triển trong bản thân sự vật.
Quan điểm biện chứng về sự phát triển trang bị cho chúng ta tinh thần lạc quan các mặt, khắc
phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, lối nhìn sự vật một cách tĩnh tại không phát triển.
Vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận của họat động thực
tiễn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó đỏi hỏi chúng ta phải phát hiện
ra mâu thuẫn và tổ chức để các mâu thuẫn đó được giải quyết.

3



- Cần đấu tranh khắc phục và chống lại mọi biểu hiện của trì trệ, bảo thủ, không dám đổi mới
để phát triển; đồng thời phải chống lại thái độ nóng vội, chủ quan muốn đốt cháy giai đoạn
Vận dụng nguyên lý về sự phát triển
Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các sự vật phát
triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của sự vật và
bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được sự phát triển là quá trình
khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự phát triển vào thực tiễn xây dựng
CNXH ở nước ta hiện nay, trong điều kiện CNXH đã thoái trào và sụp đổ; CNĐQ và các thế
lực thù địch không ngừng chống phá các nước XHCN còn lại thì quan điểm của Đảng CSVN
là kiên quyết chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và nhận định:
Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua
những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là
quy luật phát triển tất yếu của lịch sử.
D. Liên hệ công tác công an:
- Đối với người công an nhân dân, việc nắm vững và vận dụng nguyên lý này là hết sức quan
trọng trong quá trình công tác và cuộc sống hàng ngày.
- Nắm vững nguyên tắc này sẽ giúp cho người cand hiểu được quá trình phát triển tất yếu của
cmvn để có hướng phấn đấu học tập và rèn luyện để trở thành người cand vì nước .... phục vụ
cho sự nghiệp cnh – hdh đất nước.
- Bản thân tôi là một chiến sĩ ...... cho nên việc vận dụng nguyên lý này là rất cần thiết đối với
tôi để không ngừng học tập nâng cao trình độ học vấn và chuyên môn để hoang thành tốt nhiệm
vụ được giao.
- Ví dụ: Hiện nay các thê lực thù địch đang tìm mọi cách......, mua chuộc và làm nhũng nhiếu
trong công an. Nhưng tôi luôn nhận thức được con đường cách mạng của đảng và nhân dân ta là
cong đường đúng đắn nhất, cách mạng nhất. Do đó phải kiên định với lập trường cách mạng
xhcn, chống lại các tư tưởng phản cách mạng. Luôn luôn tin theo con đường cách mạng của đân
tộc. Từ đó có hướng phấn đấu để trở thành người cand phục cho sn cm của dt.
- Nước ta đang hội nhập mạnh mẽ với quốc tế, thời cơ là rất nhiều nhưng thách thức cũng
không nhỏ vì thế việc nắm vững và vận dụng nguyên lý này có ý nghĩa sống còn với sn cm.

Nắm được con đường pt tất yếu của dân tộc sẽ ......
. Vận dụng nguyên lý này sẽ giúp cho người cand hoàn thành được nhiệm vụ của mình, đảm
bảo tính chính xac, khoa học và hiệu quả trong công tác để bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân
dân.

4


Câu 2: Nội dung Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Ý nghĩa
phương pháp luận, Sự vận dụng của Đảng CSVN.
a. Nội dung của quy luật
Lê nin viết “Khái niệm quy luật là 1 trong những giai đoạn của sự nhận thức của con người
về tính thống nhất và về liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể của quá trình thế
giới”
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật. Nó là cơ sở để hiểu rõ mối quan hệ giữa các phạm trù khác nhau cũng
như các quy luật cơ bản khác của phép biện chứng duy vật. Quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập được đánh giá là hạt nhân của phép biện chứng bởi lẽ nó vạch
ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Để chỉ sự liên hệ và tác đông lẫn nhau của các mặt đối lập – tức những mặt có khuynh hướng
phát triển trái ngược nhau, có liên hệ với nhau, thống nhất với nhau trong sự vật, ta dùng khái
niệm mâu thuẫn. Mâu thuẫn vừa là sự thống nhất, vừa là sự đấu tranh của hai mặt đối lập. Mâu
thuẫn là một hiện tượng khách quan, phổ biến.
Mâu thuẫn mang tính khách quan vì nó là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tồn tại
trong tất cả các lĩnh vực nên nó có tính phổ biến. Chính vì vậy, mâu thuẫn rất đa dạng và phức
tạp. Mỗi sự vật, mỗi lĩnh vực khác nhau thì có những mâu thuẫn khác nhau và ngay bản thân
mỗi sự vật hiện tượng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn khác nhau. Mỗi mâu thuẫn, mỗi mặt
của mâu thuẫn lại có đặc điểm, vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của
sự vật.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ quy định, ràng buộc lẫn nhau của các mặt

đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. không có sự thống nhất thì không tạo
thành sự vật. sự thống nhất này là sự thống nhất từ bên trong, do nhu cầu tồn tại, nhu cầu vận
động và phát triển của các mặt đối lập, nếu bị phá hủy sự vật không tồn tại nữa.
Tuy nhiên, theo nghĩa hẹp, sự thống nhất được hiểu là sự đồng nhất, sự phù hợp, sự tác động
ngang nhau. Thống nhất trong trường hợp này được hiểu như là một trạng thái mà những yếu tố
chung của hai mặt đối lập giữ vai trò chi phối. Đó là một trạng thái cân bằng của mâu thuẫn.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối
lập. Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh
của chúng, bởi trong sự ràng buộc, quy định lẫn nhau chúng vẫn luôn có xu hướng phát triển
trái ngược nhau, đấu tranh với nhau.
Tất nhiên đấu tranh có rất nhiều hình thức, trong mỗi lĩnh vực, mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi trình
độ và bản thân từng mâu thuẫn cũng khác nhau. Song, tính chất chung, cơ bản của mọi cuộc đấu
tranh là đi đến cái mới, xóa bỏ cái cũ, cái không phù hợp. Vì vậy, đấu tranh là động lực của sự
phát triển.
Quá trình đấu tranh của các mặt đối lập ban đầu được thể hiện dưới dạng khác biệt; sau đó
phát triển thành xung đột giữa hai mặt đối lập với nhau, cuối cùng xung đột đó chuyển
thànhưng mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn nảy sinh, buộc phải giải quyết để tới các kết quả: cả hai
cùng cùng mất; một mất một còn; cả hai cùng còn hoặc khi có điều kiện thì giữa chúng có sự
chuyển hóa - mâu thuẫn được giải quyết. Chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả
của cuộc đấu tranh giữa hai mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới nên các hình thức chuyển
hóa cũng rất đa dạng, mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành, một quá trình mới
bắt đầu. Sự vật không ngừng vận động và phát triển trong những quá trình biện chứng: Sự thống
nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập trong đó thống nhất là tạm thời, là tương đối, đấu tranh là
tuyệt đối. Bởi vì đối với các mặt đối lập thì ngay sự phù hợp của nó cũng là sự phù hợp của các
mặt đối lập, có tính chất tiền đề, nghĩa là không có sự phù hợp tuyệt đối, đồng nhất tuyêt đối.
Trong đồng nhất đã bao hàm sự khác biệt, trong sự phù hợp, tác động ngang nhau, vẫn làm nảy
5


nở, triển khai cuộc đấu tranh dưới hình thức mới, sự thống nhất ấy chỉ tồn tại có tính chất tạm

thời.
Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa hai mặt đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự
vật là sự tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của sự thống nhất giữa các mặt ấy làm cho
thế giới phân thành các bộ phận, các sự vật đa dạng, phức tạp và gián đoạn. Như thế, mọi sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể thống nhất của các mặt đối lập và sự
chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
b. Ý nghĩa phương pháp luận
- Luôn luôn nhìn sự vật trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Sự vật nào
cũng bao hàm tổng hợp những mâu thuẫn và chính các mâu thuẫn bên trong, cơ bản, chủ yếu
của chúng là cái quy định bản chất và quá trình tồn tại, phát triển của chúng, cho nên để nhận
thức sự vật trước hết phải nhận thức mâu thuẫn đó của chúng.
- Nguyên tắc của sự phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn,
cho nên để tác động vào sự vật, hiện tượng phải biết vận dụng quy luật này, tạo cho các mặt đối
lập của chúng những hình thức đấu tranh.
Mọi mâu thuẫn đều có quá trình phát sinh, phát triển và biến hóa. Mâu thuẫn là phổ biến, đa
dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiển cần phải phân tích mâu thuẫn và giải quyết
mâu thuẫn một cách cụ thể, bằng con đường đấu tranh với những điều kiện chín muồi, thích
hợp.Trong hoạt động, tùy hoàn cảnh cụ thể, phải biết lợi dụng mâu thuẫn.
c. Sự vận dụng của Đảng ta
Mâu thuẩn cơ bản ở nước ta hiện nay Đảng ta xác định: Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế –
xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết
là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và CNXH. Nước ta quá độ đi lên CNXH từ một
nền sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên
CNXH là mâu thuẫn giữa một bên là CNTB với tư cách là một xu hướng thế phát triển của cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần, có sự tác động của các thế lực phản động trong và ngoài nước với
một bên là xu hướng hướng XHCN đang hình thành và phát triển từng bước trong quá trình đi
lên từ một cơ sở kinh tế, xã hội ở trình độ thấp. Mâu thuẫn cơ bản làm nảy sinh những mâu
thuẫn khác trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Chừng nào CNXH chưa
thực sự được xác lập có nghĩa là chưa hết thời kỳ quá độ thì mâu thuẫn ấy vẫn tồn tại.

Hiện nay Việt nam chủ trương thực hiện mở rộng kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế , điều này vừa có ý nghĩa tích cực cho quá trình hiện đại hoá , công nghiệp hoá, đồng
thời mặt trái của nó cũng tạo ra kẻ hở để hiện tượng tiêu cực có thể phát triển và lây lan. Điều
quan trọng trong cuộc đấu tranh là phải nghiên cứu tìm hiểu sự phát sinh, tồn tại, sự mở rộng
của những mặt tiêu cực, đánh giá đúng đặc điểm, tính chất của mỗi hiện tượng tiêu cực và trên
từng lĩnh vực. Từ đó tìm ra phương thức, biện pháp, phương tiện bố trí lực lượng giải quyết
mâu thuẫn và cần linh hoạt trong việc sử dụng, kết hợp đồng bộ các biện pháp để giải quyết
mâu thuẫn, từ giáo dục thuyết phục, cảm hóa đến trừng phạt cưỡng bức; từ hành chính đến pháp
luật.
*Vai trò của người cán bộ công an: (tự nghiên cứu)
-Về nhận thức: phải nâng cao nhận thức vấn đề này trong cuộc sống và công tác của mình.
Có nhận thức đúng đắn về quy luật này thì người cand mơi suy nghĩ và hành động đúng để hoàn
thành được nhiệm vụ của mình.
Người cand phải nhận được trong cuộc sống và công tác của mình luôn luôn tồn tại những
mặt đối lập và phải biết đấu tranh để đi đến sự phát triển. Phải nhìn nhận sự tất yếu của quy luật
này để vận dụng vào thực tiễn để có hướng phấn đấu học tập, rèn luyện và công tác đạt hiệu quả
cao nhất.

6


-Vận dụng quy luật này nhằm làm tốt chức năng tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền
trong đơn vị công tác của bản thân. Bên cạnh nhận thức của bản thân, phải tích cực đóng góp ý
kiến, đề suất các biện pháp phù hợp với quy luật này đảm bảo cho đơn vị ngày càng vững mạnh.
Đề xuất với lãnh đạo các chủ trương. biện pháp phù hợp với thực tế của đơn vị, đấu tranh loại
bỏ những tiêu cực, hạn chế để phát huy những thế mạnh của đơn vị để hoàn thành tốt nhất
nhiệm vụ được giao.
- Là một chiến sĩ cand, bản thân phải tích cực vận động quần chúng để tổ chức thực hiện đấu
tranh chống tiêu cực, loại bỏ các biểu hiện tham nhũng, nhũng nhiễu trong nhân dân, làm trong
sạch hình ảnh của người cand để thực sự là người .........

-Trực tiếp tham gia đấu tranh chống tội phạm. Từ nhận thức đúng đắn về quy luật này, tôi
luôn vận dụng nó vào hoạt động công tác thực tiển của mình trong đấu tranh phòng chống tội
phạm.
Luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh phòng chống tội phạm đem lại
cuộc sống bình yên cho nd.
Phải tuyên truyền cho người dân hiểu và nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh tố giác tội
phạm tức là đấu tranh giữa các mặt đối lập để phát hiện tội phạm và coa các hình phạt thích
đáng để răn đe và vận động người dân sống và làm việc theo hp và pl. Có như vậy mới đảm bảo
cho nhân dân một cs bình yên và hp.

7


Câu 3: Nội dung các cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tượng, nội
dung và hình thức. Ý nghĩa phương pháp luận, sự vận dụng của Đảng CSVN.
a. Nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, ý nghĩa
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối
liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều có 1 hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Nghiên cứu nắm được nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng là rất cần thiết có ý nghĩa to lớn đối với chúng ta trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
- Trước hết chúng ta phải hiểu được các khái niệm
+ Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật
với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
+ Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa các nguyên nhân đã xuất hiện và tác
động. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả bao giờ nó cũng là cái hình thành, xuất hiện trước kết

quả, còn kết quả ra đời sau khi đã có nguyên nhân và nguyên nhân bắt đầy phát huy tác dụng.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ 1 sự nối tiếp nhau nào về mặt thời gian cũng là mối quan hệ NN –
KQ, chỉ có cái nào vừa có trước về mặt thời gian vừa trực tiếp làm sản sinh ra kết quả thì nó
mới được gọi là nguyên nhân.VD ngày kế tiếp đêm ,mùa hè kế tiếp mùa xuân.. nhưng không
phải đêm là nguyên nhân của ngày, mùa xuân là nguyên nhân của mùa hè.
- Trong hiện thực, mối liên hệ NN – KQ biểu hiện rất phức tạp, cùng một nguyên nhân có thể
gây nên nhiều kết quả khác nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể chỉ những mối quan hệ trước
sau về mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
Trong hiện thực mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, thực tiễn đã cho thấy rằng:
Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể;
Cùng một kết quả có thể gây nên bởi nhiều nguyên nhân khác nhau (tác động riêng lẻ hay tác
động cùng một lúc).
Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết
quả nhanh chóng hơn, ngược lại nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật ngược
chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn. Thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng
của nhau.
- Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể chia ra
các nguyên nhân sau đây: Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu, trong đó nguyên nhân
chủ yếu là những nguyên nhân mà nếu thiếu chúng thì kết quả không được hình thành.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, trong đó nguyên nhân bên trong là sự
tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố của cùng một hệ thống kết cấu vật chất, nó quyết
định sự tồn tại, phát triển và biến đổi của kết cấu vật chất đó.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan trong đó nguyên nhân khách quan là
những nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào yếu tố con người, vào trình độ nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nếu nhận thức của con người phù hợp với các quy
luật khác quan và biết cách tổ chức lao động thực tiễn có hiệu quả thì hoạt động của con người
sẽ cót ác động đẩy nhanh quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội.
Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng sau khi xuất hiện kết quả không giữ vai trò thụ động,
ngược lại nó có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân. Nguyên nhân và kết quả trong
điều kiện nhất định có thể chuyển hoá lẫn nhau cái trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì

8


trong mối liên hệ khác là kết quả và ngược lại. Sự tác động qua lại đó tạo thành chuỗi liên hệ
nhân quả, chuỗi này vô tận vì thế giới vật chất là vô cùng vô tận.
* Ý nghĩa
- Thừa nhận mối liên hệ nhân quả là khách quan do đó phải tìm hiểu nguyên nhân thì mới
nhận thức được sự vật, hiện tượng một cách đúng đắn. Nếu hiểu được đúng mối quan hệ này ta
có khả năng chủ động tạo những điều kiện để cho kết quả xảy ra như mong muốn. Để loại bỏ
một hiện tượng nào đó phải loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh nó. Trong quá trình tìm hiểu xác
định các nguyên nhân cần phải hết sức tỉ mỉ, thận trọng , phải biết đánh giá từng nguyên nhân,
sàng lọc, phân loại đâu là nguyên nhân bên trong chủ yếu có vai trò quyết định để từ đó có giải
pháp giải quyết nguyên nhân.
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên
trong vì nó quyết định sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của sự vật, đồng thời phải nắm được
những nguyên nhân tác động cùng chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp hạn chế sức những
nguyên nhân nghịch chiều.
- Tăng cường hiệu quả hoạt động nhân tố chủ quan của con người, nâng cao trình độ nhận
thức, trang bị những kiến thức về kỹ thuật, quản lý và đưa ra những cơ chế tổ chức thực hiện
phù hợp để hoạt động của con người không vi phạm những quy luật của khách quan làm tăng
hiệu quả của nhân tố chủ quan và xem đó là nguyên nhân có tính quyết định đối với sự phát
triển của xã hội.
- Kết quả tác động lại nguyên nhân vì vậy phải biết khai thác vận dụng các kết quả đạt được
để nâng cao nhận thức và tiếp tục đẩy sự vật phát triển.
* Sự vận dụng của Đảng CSVN
Trong thực tiễn Đảng và nhà nước ta đã thấy được nguyên nhân sâu xa đã làm cho nền kinh
tế tăng trưởng chậm, những tác động xấu của cơ chế thị trường; buôn lậu làm cho sản xuất đình
đón. Từ đó Đảng và nhà nước ta đã đưa ra chủ trương, biện pháp để khắc phục và tiến tới giải
quyết căn bản những hậu quả xấu xảy ra tác động đến các mặt của đời sống xã hội, tư tưởng của
nhân dân.

Trong đời sống xã hội ta có thể hạn chế, thậm chí loại trừ nguyên nhân khi biết nó sẽ gây ra
những kết quả tiêu cực đối với sự phát triển của xã hội.
* Liên hệ vận dụng vào công tác công an:
- Đối với người công an nhân dân, việc nắm vững và vận dụng cặp phạm trù này là hết sức
quan trọng trong quá trình công tác và cuộc sống hàng ngày.
- Nắm vững cặp phạm trù này sẽ giúp cho người cand hiểu được các sự vật hiện tượng một
cách đầy đủ, chính xác và khách quan để vận dụng vào công tác nghiệp vụ đạt được kết quả
đúng đắn nhất.
- Trong công tác đấu tranh nắm tình hình phải thấy được các tác động sâu xa, trực tiếp và
gián tiếp liên quan đền thực tết của địa bàn mình đảm nhiệm để phân tích một các khách quan
và đúng đắn nhất các nguyên nhân để từ đó đưa ra những biện pháp đúng đắn và phú hợp.
Trên cơ sở phân tích đúng các nguyên nhân dẫn đến kết quả của tình hình an ninh trật tự trên
địa bàn sẽ đua lạ cho người cong an những biệm pháp để phòng tránh tội phạm phù hợp nhất.
- Công tác phòng ngừa : để phòng ngừa tội phạm , tệ nạn xã hội cần đi từ nguồn gốc gây nên
hành vi phạm tội và các tnxh đó chính là việc giải quyết nguyên nhân sinh ra nó. Khi đã nắm
được các nguyên nhân thì người công an sẽ đưa ra được các biện pháp phòng ngừa xã hội,
phòng ngừa nghiệp vụ phù hợp nhất .
Ví dụ: Tình hình trộm tài sản ở khu 7 phường Phú Nhuận – tp Huế trong tháng 08/2011 tăng
đột biến. Khi tìm hiểu thực tế, qua bắt tình hình phát hiện ra nguyên nhân chủ yếu là do đây là
thánh mà học sinh, sv nghỉ hề về địa bàn sh nhiêu, cộng thêm có một số đối tượng mới chuyển
từ nơi khác tới cư trú ở địa bàn là nguyên nhân chính.....

9


Trên cơ sở đó người công an đưa ra biện pháp là theo doixm kiểm tra đối tượng đó và kết quả
là tơi tháng 9/2011, tình hình ở địa bàn lai j trở lai bình thường.
- Đó là một đơn cử rất nhỏ trong công tác của người cand. Vận dụng Ptru này sẽ giúp
cho người cand hoàn thành được nhiệm vụ của mình, đảm bảo tính chính xac, khoa học và hiệu
quả trong công tác để bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.

- Phối hợp với các tổ chức xã hội, cơ quan, đoàn thể quần chúng: Cầm phải đi từ các nguyên
nhân, các yếu tố tác động để đề ra được nhũng biện pháp đúng đắn, phù hợp nhất trong đấu
tranh phòng chống tôi phạm và các tnaxh....
b. Nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng. Ý nghĩa
Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa những nhân
tố ổn định ở bên trong sự vật với những yếu tố thường xuyên biến đổi ở bên ngoài sự vật.
- Nghiên cứu nắm vững được nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng theo quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biện chứng là rất cần thiết có ý nghĩa to lớn đối với chúng ta trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
- Trước hết chúng ta phải hiểu được các khái niệm:
+ Bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định tạo thành thể thống nhất hữu cơ ở bên trong quy định sự vận động và
phát triển của sự vật đó.
+ Hiện tượng là phạm trù dùng để chỉ biểu hiện bên ngoài của cái bản chất gắn bó chặt chẽ
với phạm trù cái chung, nhưng bản chất không phải bất kỳ cái chung nào. Nó chỉ là cái chung
tất yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính chất quy luật. Nói đến bản chất của sự vật tức là
nói đến những quy luật vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên bản chất và quy luật không
hoàn toàn không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện được một mặt, một
khía cạnh nhất định của bản chất, còn bản chất là tổng hợp hàng loạt quy luật.
- Mỗi sự vật là sự thống nhất biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Bản chất và hiện tượng
đều tồn tại khách quan không phụ thuộc vào yếu tố của con người và có quan hệ hữu cơ với
nhau. Bản chất và hiện tượng là hai mặt vừa thống nhất vừa độc lập với nhau.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng được thể hiện: bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua
hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất, không có bản chất tồn tại
một cách thuần tuý, ngược lại không có hiện tượng không phải là sự biểu hiện của một bản chất
nào đó.
- Bản chất và hiện tượng tương ứng với nhau, bản chất như thế nào thì hiện tượng như thế ấy.
Bản chất mất đi thì hiện tượng do nó sinh ra cũng mất theo. Bản chất mới ra đời thì các hiện
tượng mới gắn liền với nó cũng xuất hiện.

- Về căn bản bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, phù hợp với nhau nhưng hiện
tượng không bao giờ hoàn toàn trùng khớp với bản chất, sự không hoàn toàn trùng khớp đó
khiến cho sự thống nhất mang tính đối lập được thể hiện.
- Bản chất là cái ở bên trong ẩn dấu sâu xa của sự vật, được biểu hiện ra các hiện tượng ở bên
ngoài. Tất cả các hiện tượng đều biểu hiện bản chất nhưng biểu hiện cách khác nhau dưới hình
thức cải biến đôi khi xuyên tạc bản chất.
- Sự đối lập giữa bản chất là cái tương đối ổn định biến đổi chậm với hiện tượng là cái
thường xuyên biến đổi. Bản chất của sự vật tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, chỉ khi
sự vật mất đi thì bản chất thay đổi. Bản chất của sự vật tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự
vật, chỉ khi sự vật mất đi thì bản chất thay đổi và những hiện tượng của nó cũng thay đổi theo.
- Sự đối lập giữa cái sâu sắc hơn với cái phong phú hơn: hiện tượng phong phú hơn bản chất
vì tuỳ theo sự biến đổi của điều kiện và hoàn cảnh mà hiện tượng có những biểu hiện khác
10


nhau. Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì bản chất phản ánh cái bên trong, cái chung tất yếu
quyết định sự tồn tại của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận, sự vận dụng của ĐCSVN:
- Trong nhận thức để hiểu đầy đủ và đúng đắn về sự vật không nên dừng lại ở hiện tượng mà
phải đi sâu vào tìm hiểu bản chất của nó ẩn đằng sau những hiện tượng.
- Trong khoa học cần phải dựa vào hiện tượng. Phải phân tích hiện tượng một cách cặn kẽ,
phải loại bỏ được các hiện tượng giả để hiểu đúng đắn bản chất của sự vật. Trong hoạt động
thực tiễn cần dựa vào bản chất chứ không dựa trên hiện tượng để xác định phương thức hoạt
động. Cần biết thu thập, sàng lọc, đánh giá, phát hiện và loại bỏ những hiện tượng giả, hết sức
thận trọng khi kết luận về bản chất của con người, của đối tượng, của sự việc nào đó.
- ĐCSVN trong quá trình lãnh đạo phong trào cmvn cần vận dụng quy luật này để đi đúng
con đường cmxhcn. Phải nhận thấy bản chất ưu việt của cnxh, thấy được cong đường tất yếu
của cmvn là xd cnxh, đảm bảo cuộc sống ấm no, hp cho nhân dân. Hiện nay, nước ta đang thực
hiện sn cnh, hdh đất nước. Trong thực tiễn vẫn có những hiện tượng tham nhũng, hối lộ, láng
phí.... nhưng đó chỉ là hiện tượng chứ không phải bản chất. Vì vậy cần phải đáu tranh loại bỏ

các hiện tượng tiêu cực để đi đến con đường đúng đắn.....
*Liên hệ công tác công an:
- Trong công tác công an không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà còn đi sâu vào bản chất để hiểu
rõ quy luật, sự việc và con người để từ đó xử lý đúng người, đúng tội. Nhận thức đúng vấn đề
thì LL công an mới giải quyết nhanh chóng, kịp thời, mới vạch rõ được những phương thức thủ
đoạn che đậy hành vi sai trái, đánh lạc hướng lực lượng công an của các đối tượng. Do vậy, phải
tiến hành điều tra nghiên cứu tất cả các dấu hiệu, các hiện tượng để làm rõ bản chất và hiện
tượng trong quá trình điều tra phá án.
- Đấu tranh chống tội phạm, TNXH đi từ bản chất đến hiện tượng.
c. Nội dung cặp phạm trù nội dung và hình thức. Ý nghĩa
Mỗi bộ môn khoa học đều có 1 hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bề ngoài của nó. Song phép biện chứng duy vật chú ý
chủ yếu đến hình thức bên trong của sự vật, nghĩa là cơ cấu bên trong của nội dung. Trong cặp
phạm trù nội dung và hình thức, phép biện chứng duy vật chủ yếu muốn nói đến hình thức bên
trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu của nọi dung chứ không muốn nói đến hình thưc bề ngoài
của sự vật.
- Phạm trù nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự
vật.
- Phạm trù hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối quan
hệ tương đối bền vững giữa các yêu tố của sự vật đó.
- Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau trong một sự vật
hiện tượng. Các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng, các quá trình vừa góp phần tạo nên nội
dung, đồng thời lại vừa tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Do đó nội dung và hình
thứa không tách rời nhau mà gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau. Không có hình thức nào không
chứa đựng nội dung, đồng thời không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức
nhất định. Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức và cùng một hình thức có
thể chứa đựng nhiều nội dung. Quan hệ giữa nội dung –hình thức mang tính đa dạng, phức tạp
thể hiện ở chỗ không phải lúc nào nội dung và hình thức cũng phù hợp tuyệt đối với nhau, cùng
một nội dung nhưng trong những tình hình , hoàn cảnh khác nhau có thể hiện ra dưới nhiều hình

thức khác nhau. Ngược lại, cũng có thể cùng một hình thức nhưng lại biểu thị nhiều nội dung
khác nhau.
11


Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, nội dung là mặt động nhất,
khuynh hướng chủ đạo cuả nó là biến đổi. Hình thức là mặt tương đối bền vững của sự vật nên
khuynh hướng chủ yếu đạo là ổn định. Sự phát triển của sự vật bao giờ cũng từ sự biến đổi, phát
triển của nội dung, hình thức cũng biến đổi nhưng biến đổi chậm hơn so với nội dung. Khi nội
dung biến đổi đến một mức độ nhất định thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với
nội dung mới.
Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là mối quan hệ biện chúng, trong đó nội dung
quyết định hình thức và hình thức tác động trở lại nội dung. Nội dung quyết định hình thức
nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại với nội dung. Hình thức phù hợp
với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại nếu hình thức không phù hợp thì
sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Ý nghĩa phương pháp luận, Sự vận dụng của Đảng ta
- Nội dung và hình thức luôn thống nhất hữu cơ với nhau. Vì vậy trong hoạt động nhận thức
và thực tiễn không được tách rời giữa nội dung và hình thức, hoặc tuyệt đối hóa một trong hai
mặt đó.
- Nội dung quyết định hình thức nên khi xem xét sự vật, hiện tượng thì trước hết phải căn cứ
vào nội dung. Khi nghiên cứu xem xét sự vật trước hết cần căn cứ vào nội dung của nó và để
làm biến đổi 1 sự vật thì trước hết cần tác động vào những yếu tố của nội dung. Muốn thay đổi
sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của nó.
- Trong thực tiễn cần phát huy tác động tích cực của hình thức đối với nội dung trên cơ sở
tạo ra tính phù hợp của hình thức với nội dung; mặt khác cũng cần phải thực hiện những thay
đổi đối với những hình thức không còn phù hợp với nội dung, cản trở sự phát triển của nội
dung.
- Cần thường xuyên theo dõi mối quan hệ giữa nội dung và hình thức để kịp thời phát hiện sự
không đồng bộ, không phù hợp, không tương xứng giữa nội dung –hình thức, kịp thời để kịp

thời can thiệp vào quá trình phát triển của chúng. Cần chống lại khuynh hướng tách rời nội
dung và hình thức tuyệt đối hóa mặt này hay mặt khác.
* Liên hệ với ngành công an
- Trong công tác của người cand cần phải kết hợp nhiều biện pháp, hình thức đấu tranh và
phòng chống tội phạm để tìm ra được tội phạm một cách chính xác, đầy đủ nhất. Người công an
phải căn cứ vào các hình thức biểu hiện bên ngoài của tội phạm để phân tích một cách chính xác
nhất, khoa học nhất tìm ra nội dung bên trong hành vi phạm tội từ đó đưa ra những kết luận
đúng đăn nhất để xử lý đúng người, đúng tội.
Trong một vụ án hay một hành vi phạm tội có thể có nhiếu hình thức biểu hiện khác nhau,
nhưng ngươi cand phải biết van dung cap phạm tru nay de tin ra duoc cái nội dung bên trong từ
đó sư dụng các biện phá nghiệp vụ để phá án một cách chính xác nhất.
- Trong công tác vận động quần chúng tham gia thế trận ANND nhằm đảm bảo ANCT và
TTATXH cần phải vận dụng cặp phạm trù này để thuyết phục, động viên mọi người biết được
nội dung cơ bản của thế trận ANND nhằm đảm bảo ANCT và TTATXH, từ đó có các hình thức
đấu tranh và phòng tránh phù hợp với đặc thù của đơn vị và địa bàn.
Bên cạnh đó, với sự phát ngaỳ càng mạnh mẽ cua công nghệ thông tin thì tội phạm và tnxh
có rất nhiều hình thức biểu hiện khác nhau cho nên phải tuyên truyền để nhân dân hiểu được cái
nội dung bên trong. Từ đó mới có thể đưa ra những biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm
đạt hiệu quả cao nhất.

12


Câu 4: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn. Việc vận dụng của Đảng CSVN. Liên hệ công tác CA?
a. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Quan điểm của triết học Mác- Lênin cho rằng giữa chủ thể và khách thể có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Mối quan hệ đó không phải đơn thuần chỉ trong hoạt động nhận thức mà cả
trong hoạt động thực tiễn.
- Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có tính lịch sử- xã hội của con

người làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
- Hoạt động thực tiễn khác với hoạt động tư duy ý thức, trong hoạt động thực tiễn con người
đã sử dụng những công cụ, những phương tiện vật chất tác động vào những đối tượng vật chất
để làm biến đổi chúng, do vậy hoạt động thực tiễn trước hết là hoạt động vật chất của con
người. Hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người, nếu con vật chỉ hoạt động
theo bản năng để thích nghi với môi trường và thừa hưởng những gì có sẳn trong tự nhiên thì ở
con người hoạt động phải theo mục đích nhằm cải tạo thế giới và tạo ra của cải vật chất thỏa
mãn nhu cầu vật chất thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình. Con người không chỉ thỏa
mãn với những gì mà tự nhiên có sẳn bằng hoạt động thực tiễn mà trước hết là lao động sản
xuất con người đã sáng tạo ra những vật phẩm vốn đã không tồn tại trong thiên nhiên.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, song có 3 hình thức cơ bản trong liên hệ tác động qua lại.
Đó là: Hoạt động sản xuất vật chất; Hoạt động đấu tranh biến đổi xã hội; Hoạt động thực
nghiệm khoa học.
Trong ba hình thức trên, thì hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản nhất có vai trò
quyết định và là cơ sở các hình thức hoạt động khác.
Trong quan hệ với nhận thức, thực tiễn có vai trò sau đây:
- Thực tiễn là động lực của nhận thức.
Nhận thức, ngay từ đầu xuất phát từ thực tiễn do thực tiễn quy định. Chính yêu cầu của thực
tiễn sản xuất vật chất và cải biến xã hội buộc con người phải nhận thức thế giới xung quanh.
Thực tiễn không ngừng vận động phát triển, nên nó không ngừng đặt ra những nhu cầu mới
thúc đẩy nhận thức con người. Khi thực tiễn đặt ra con người lại sáng tạo, phải vượt qua và giải
quyết nó, lúc đó con người có nhận thức mới, cứ như thế nhận thức con người phát triển không
ngừng.
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức.
Thực tiễn cung cấp những tài liệu về hiện thực khách quan cho con người nhận thức, chỉ có
hoạt động trực tiếp con người mới trực tiếp tác động vào thế giới khách quan giúp cho nhận
thức nắm bắt được bản chất các quy luật vận động và phát triển của thế giới và cải tạo thế giới
khách quan.
Thực tiễn đã rèn luyện các giác quan và tư duy của con người. Trong quá trình hoạt động
thực tiễn các giác quan của con người đặc biệt là bộ óc không ngừng hoàn thiện tạo điều kiện

giúp cho con người có khả năng phản ánh đầy đủ và chính xác thế giới khách quan.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các giác quan của con người không thoả mãn được nhu
cầu nhận thức của con người. Do đó con người đã biết sáng tạo ra các phương tiện và công cụ
để nối dài khí quan con người, giúp cho con người nhận thức thế giới được sâu sắc hơn như ống
dòm kính hiển vi thiên văn, tàu vũ trụ, máy vô tuyến điện, các máy tính điện tử ...
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa khi nó vận dụng vào trong thực tiễn. Chính thực tiễn
là nơi thể hiện sức mạnh của tri thức. Mục đích của nhận thức không phải là bản thân các tri
thức mà là nhằm cải tạo hiện thực khách quan, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của xã hội
13


thông qua hoạt động thực tiễn. Chính nhu cầu của thực tiễn là dẫn đến sự hình thành và phát
triển của các ngành khoa học, biến những tri thức khoa học thành phương tiện hùng mạnh giúp
cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Do đó, thực tiễn là mục đích của nhận thức.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tri thức, là tiêu chuẩn của chân lý, bởi vì chỉ có đem
những tri thức thu nhận được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới thấy rõ tính đúng đắn hay sai lầm
của nhận thức.
Như vậy thực tiễn là động lực, là cơ sở hình thành và phát triển của nhận thức, là mục đích
của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý. Vì thế, Lênin đã khẳng định: "Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lí luận về nhận thức".
b. Sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn. Ý nghĩa
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, nguyên lý thống nhất giữa lí luận và thực tiễn có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Coi trọng tổng kết thực tiễn là một phương pháp căn bản trong hoạt
động lí luận, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, phát triển lí luận hoàn chỉnh
đường lối để chỉ đạo sự nghiệp đối với xã hội ở nước ta.
- Thực tiễn là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất có lịch sử xã hội của con
người làm biến đổi tự nhiên và xã hội. Bản chất của hoạt động thực tiễn đó là sự tác động qua
lại của chủ thể và khách thể.
Hoạt động thực tiễn đa dạng song có thể chia thành ba hình thức cơ bản, hoạt động sản xuất

vật chất, hoạt động biến đổi chính trị- xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó hoạt
động sản xuất vật chất là hoạt động có ý nghĩa quyết định và chi phối các hoạt động hình thức
còn lại.
Lí luận với ý nghĩa chung nhất là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là tổng hợp các
tri thức về tự nhiên xã hội đã được tích luỹ trong quá trình lịch sử của con người. Theo Hồ Chí
Minh : Lý luận là “sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về
tự nhiên và XH tích lũy lại trong quá trình lịch sử”.
Như vậy lí luận là sản phẩm của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực khách quan. Trong
hiện tượng các khái niệm phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lí luận thì qui luật là
hạt nhân của lí luận. Là sản phẩm của quá trình nhận thức nên bản chất của lí luận là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan đã được tri thức hoá.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa lí luận và thực tiễn có mối quan hệ
biện chứng với nhau, được thể hiện:
Vai trò của thực tiễn đối với lí luận.
Trong quan hệ với lí luận thực tiễn các vai trò quyết định bởi vì thực tiễn là hoạt động vật
chất, còn lí luận là hoạt động tinh thần. Vật chất có quyết định tinh thần. Vai trò quyết định của
thực tiễn đối với lí luận thể hiện ở chỗ:
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và đồng thời nó cũng là của hoạt động
lí luận bởi vì lí luận là kết quả của hoạt động nhận thức. Thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra
lý luận.
Thông qua hoạt động thực tiễn lí luận mới có sức mạnh thực sự để cải tạo thế giới, lí luận
hiện thực hoá thông qua hoạt động thực tiễn, lí luận mà không có thực tiễn là lí luận suông.
Lênin viết "Thực tiễn cao hơn nhận thức (lí luận)... Nó có ưu điểm không những của tính phổ
biến mà của tính hiện thực trực tiếp".
Thực tiễn có vai trò quyết định đối với lí luận song chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định
sự tác động tích cực trở lại của lí luận đối với nhận thức.
Lí luận có vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng hoạt động thực tiễn, bởi vậy có thể nói lí
luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Thực tiễn mà không có lí luận là thực tiễn mù
quáng.
Lí luận khái quát hoạt động thực tiễn, qua đó có thể điều chỉnh định hướng cho hoạt động

thực tiễn của con người làm cho hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả tốt hơn.
14


Lí luận có tác động to lớn trong đấu tranh xã hội góp phần đẩy nhanh quá trình tiến triển của
các mặt. LêNin viết: "Không có lí luận thì cũng không thể có phong trào các mặt".
Thực tiễn và lí luận không tách rời nhau, mà liên hệ với nhau, xâm nhập vào nhau và tạo điều
kiện cho nhau cùng phát triển. Bởi vậy sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên lý
cơ bản của triết học Mác- LêNin.
Ý nghĩa:
Không được đề cao thực tiễn, hạ thấp vai trò của lí luận để rơi vào chủ nghĩa thực dụng, chủ
nghĩa kinh nghiệm.
Ngược lại không được đề cao lí luận đến mức xa rời thực tiễn vào bệnh chủ quan duy ý chí.
Đối với tư duy trong sự gắn liền hoạt động thực tiễn là một trong những chủ trương lớn hiện
nay của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ có đổi mới tư duy lí luận, gắn lí luận với thực tiễn thì mới có
thể nhận thức được các quy luật khách quan và đề ra đường lối các mặt đúng đắn trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
* Việc vận dụng của Đảng CSVN:
Trong hoạt động nhận thức, cần phải xây dựng và quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm
này yêu cầu để nhận thức về sự vật hiện tượng nào đó trước hết cần xuất phát từ thực tiễn, dựa
trên cơ sở thực tiễn, theo nhu cầu của thực tiễn và con người tổng kết thực tiễn, khái quát những
kinh nghiệm của thực tiễn...
Cần phải xây dựng và quán triệt quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động. Quan
điểm này yêu cầu: để nhận thức thức về sinh vật, hiện thực nào cần xuất phát từ thực tiễn dựa
trên cơ sở thực tiễn theo nhu cầu của thực tiễn đi sâu vào thực tiễn và khái quát những kinh
nghiệm của thực tiễn.
Cần kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn xây dựng hệ thống lý luận từ thực tiễn và
dùng thực tiễn để kiểm nghiệm, kiểm chứng lý luận kịp thời bổ sung điều chỉnh, bổ sung lý
luận khi nó không phù hợp với thực tiễn.
Tích cực hoạt động trên phương diện nhận thức lý luận nhằm giải đáp phục vụ cho hoạt động

thực tiễn
Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Cần kết hợp học đi đôi với hành. Nếu xa
rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Ngược lại nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm
chủ nghĩa.
Cần đổi mới tư duy trong sự gắn liền với hoạt động thực tiễn là một trong những chủ trương
lớn hiện nay của Đảng ta. Chỉ có đổi mới tư duy lý luận, gắn lý luận cới thực tiễn thì mới có thể
nhận thức được các quy luật khách quan và trên cơ sở đó đề ra được đường lối cách mạng đứng
đắn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
* Liên hệ công tác công an:
Thế kỷ XXI toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Việt
Nam đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình hội nhập
và phát triển đói hỏi người cand phải không ngừng học tập và rèn luyện để đáp ứng được yêu
cầu của công viêc trong hoàn cảnh quốc tế và điều kiện nước ta hiện nay.
Người cand phải nâng cao nhận thức về mặt lý luận theo con đường mà đảng và nhà nước
ta đã lựa chọn, đồng thời phải vận dụng nó vào thực tiến nghiệp vụ và địa bàn của mình để giải
quyết cac công việc đạt được hiệu quả ccao nhất.
Trong tình hình mới, đòi hỏi người cand phải có trình độ lý luận nói chung của ngành
cảnh sát là phải tiếp cận với luật pháp quốc tế và khu vực, đồng thời phải gắn với thực tiến của
nước ta. Có như vậy chúng ta mới đảm bảo được antt của đất nước và tiến hành hội hập khu vực
và quóc tế được thành công.
Bản thân tôi là một chiến sĩ trẻ, cho nên trong hoạt động thực tiến tôi luôn nhận được
nhiệm vụ của mình là phải không ngừng học tập và rèn luyện để có được trình độ chuyên môn
15


và nghiệp vụ có thể đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao củ công việc. Đồng thời tôi
cúng thấy được sự cần thiết phải vận dung những lý thuyết đã họ vaog công tác thực tiến để có
thể hoàng thành tốt nhất công việc được giao.
Trong công tác của người cand, cần phải hết sực tránh chủ nghĩa kinh nghiệm, giáo điều, cần

phải tích cực đấu tranh để tìm ra nguyên nhân của những hạn chế này và đưa ra nhuengx biện
pháp để khắc phục. Có như vậy mới đảm bảo người cand thưc sự.....

Câu 5: Hình thái kinh tế - xã hội. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng của Đảng CSVN?
a.Hình thái kinh tế - xã hội
- Hình thái kinh tế-xã hội là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử để chỉ một xã hội cụ thể
tốn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất đặc trưng, dựa trên
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tấng dựa trên những
quan hệ sản xuất đó.
- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của
LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã
hội.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất vật chất – là quan
hệ cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội. Nó là bộ xương của hình thái kinh tế - xã
hội, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế xã hội khác.
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất xã
hội, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mà chỉ phụ thuộc vào tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Điều đó khẳng định rằng con người không thể tùy tiện lựa chọn
hay xóa bỏ một kiểu quan hệ sản xuất nào đó, nó hoàn toàn được quy định bởi tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Vì vậy lực lượng sản xuất quyết định cả sự vận động, phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội.
- Bộ phận thứ ba trong hình thái kinh tế - xã hội là kiến trúc thượng tầng tương ứng, nghĩa là
một kiểu kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra. Đây là cái thứ sinh, cái phản ánh, làm
cho xã hội được hiểu như một chỉnh thể, một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa các yếu tố
vật chất và tinh thần, kinh tế và chính trị, là sự tác động giữa cái khách quan và chủ quan của xã
hội.
Trong cơ cấu và sự tác động của các yếu tố của hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ giai
cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình…được hình thành và chịu sự tác động của các yếu tố

trên.
Nghiên cứu lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác ta thấy các yếu tố hợp thành hình thái
kinh tế - xã hội có mối quan hệ và tác động lẫn nhau theo những quy luật khách quan vốn có
của nó. Trước hết và cơ bản vẫn là quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX,
quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến truc thượng tầng… sự tác động tổng hợp của các quy luật
này tạo nên động lực của sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Sự vận dụng của Đảng ta
- Xuất phát từ phạm trù hình thái kinh tế - xã hội, Đảng ta nhận thức đúng bản chất tiến trình
quá độ lên CNXH ở nước ta. Đây là cơ sở khoa học cho phép Đảng ta xác định đúng điểm xuất
phát, mục tiêu vươn tới và đặc điểm con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Với đặc điểm xuất
phat này thì mô hình, bước đi và tính chất quá trình XD CNXH ở nước ta là phức tạp và rất khó
16


khăn, phải trải qua nấc thang trung gian quá độ mới đi đến mục tiêu XD thành công CNXH ở
nươc ta.
- Trong đường lối XD CNXH, Đáng ta luôn xác định nội dung có tính chất toàn diện cả về
LLSX lẫn QHSX và kiến trúc thượng tầng. bới vì phạm trù thái kinh tế - xã hội cho phép nhận
thức xã hội nói chung và CNXH nói riêng phải là sự phát triển đồng bộ, tương ứng với nhau
trên các yếu tố cơ bản.
b.Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự vận dụng của Đảng CSVN?
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không thể tách rời trong phương thức sản
xuất. Sự tác động biện chứng giữa chúng theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định của xã hội loài người qua các giai
đoạn lịch sử từ thấp đến cao.
Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ
chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với
người được hình thành trong quá trình sản xuất.
- Lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất.

Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
của quá trình sản xuất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định nội dung quyết định hình
thức, cho nên lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất như thế nào?
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất,
trình độ của lực lượng sản xuất quyết định kiểu quan hệ sản xuất tương ứng, sự vận động phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
+ Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển xét đến
cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản
xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai
đoạn lịch sử đó.
Trình độ lý luận sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiêm và
kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng
dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính hất của lực lượng sản xuất. Tính chất của
lực lượng sản xuất là nói đến tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động là có tính chất cá
nhân hay xã hội.
Trình độ của lực lượng sản xuất thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lý luận sản
xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Trình độ của lực lượng sản xuất là cơ khí, hiện đại, phân
công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa rộng rãi trên cơ sở
chuyên môn hóa.
Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chổ có tính chất cá nhân lên tính chất
xã hội hóa.
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất
phù hợp với nó:
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trạng thái mà trong đó tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy
đủ cho lực lượng sản xuất phát triển, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa

người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả
năng của nó.

17


Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc, độc hại và nâng cao năng suất lao động,
con người luôn tìm cách cải tiến và chế tạo ra những công cụ lao động mới hiện đại hơn. Cùng
với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm, kỹ năng lao động, tri thức
khoa học kỹ thuật của con người cũng tiến bộ, trình độ tổ chức quản lý sản xuất, phân công lao
động xã hội cũng nâng cao.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất hiện có thì quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hảm lực
lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu phải
thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực lượng
sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Nhưng rồi quan hệ sản xuất này cũng
sẽ trở thành không phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ mới khác nữa… Sự thay
thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ
mất đi và phương thức sản xuất mới ra đời.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất; quy định hệ thống tổ chức quản lý sản
xuất, phân công lao động xã hội; quy định phương thức phân phối sản phẩm lao động; tác động
đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ cho nên tác động đến thái độ lao động của
người lao động (lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội) và do đó tác đông sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một
cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Song tác dụng kìm hảm chỉ là tạm thời vì theo quy luật nó sẽ được thay thế
bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn cho phù hợp với trình độ mới của lực lượng

sản xuất .
Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại đã tạo ra
nguồn gốc động lực của sự vận động phát triển lịch sử. Lịch sử loài người đã chứng minh rằng
sự thay thế của các chế đô xã hội từ thấp đến cao là do sợ tác động hệ thống các quy luật xã
hội, trong đó quy luật này là quy luật cơ bản nhất. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thông qua đấu tranh giai cấp
và cách mạng xã hội.
Sự vận dụng của Đảng CSVN
- Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lạc hậu, lao
động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất ở nước ta là một nền đại công nghiệp. Chính vì
vậy, để đưa nước ta phát triển Đảng ta đã tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, coi đó là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH.
- Xây dựng một nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại, quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ của LLSX.
- Để xây dựng quan hệ sản xuất trong quá trình đổi mới xây dựng xã hội ở nước ta, Đảng và
Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay.

18


Câu 6: Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai
cấp. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
a. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa các giai cấp mà lợi ích cơ bản đối lập nhau và kết quả
của đấu tranh giai cấp là dẫn đến cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội này bằng chế độ xã
hội khác tiến bộ hơn. Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng đấu tranh cách mạng của giai cấp
bị bóc lột chống lại giai cấp bóc lột thống trị là một trong những động lực thực sự của xã hội có
giai cấp được thể hiện là:

- Sự phát triển xã hội là kết quả của sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lỗi
thời biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp bị bóc lột là giai cấp đại biểu cho lực
lượng sản xuất mới với giai cấp thống trị bóc lột đại biểu cho những lợi ích gắn liền với quan hệ
sản xuất lỗi thời nhưng còn đang thống trị. Mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng cuộc
đấu tranh cách mạng của giai cấp bị bóc lột chống giữa lại giai cấp bóc lột mà đĩnh cao của nó
là cách mạng xã hội bùng nổ thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới mở đường
cho sản xuất xã hội phát triển dẫn đến sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Thực tiễn lịch
sử xã hội loài người đã chứng minh rằng: nô lệ đấu tranh chống chủ nô làm cho chế độ CHNL
tan rã, giai cấp nông dân đấu tranh chống lại giai cấp địa chủ làm cho chế độ phong kiến tan rã,
giai cấp vô sản đấu tranh chống lại giai cấp tư sản dẫn đến sự ra đời của thời đại mới, thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, bắt đầu từ cách mạng Tháng Mười năm
1917.
- Đấu tranh giai cấp chẳng những có tác dụng cải tạo xã hội cũ, xóa bỏ các lực lượng xã hội
phản động, mà còn có tác dụng cải tạo cả bản thân các giai cấp cách mạng.
- Đấu tranh giai cấp là quy luật của xã hội có giai cấp, song quy luật ấy có những biểu hiện
đặc thù trong từng xã hội cụ thể. Điều đó do kết cấu giai cấp của mỗi xã hội, địa vị lịch sử của
mỗi giai cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất, do tương quan lực lượng giai cấp
trong từng giai đoạn và trên từng đia bàn quyết định. Muốn hiểu đúng quy luật đấu tranh giai
cấp, còn phải phân tích cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
b. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
Đại hội IX của Đảng CSVN khẳng định nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta là: thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công
bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế
lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định : động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và tri thức do Đảng lãnh đạo , kết

hợp hài hoà các lợi ích cá nhân ,tập thể và xh, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các
thành phần kinh tế của toàn xh.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam diễn ra trên tất cả các lĩnh vực CT, VH, tư
tưởng .Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là nhằm giữ vững độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện
dân giàu nước mạnh xh công bằng dân chủ văn minh.trong cuộc đấu tranh này chúng ta có thể
19


và cần phải sử dụng tổng hợp và linh hoạt các hình thức đấu tranh , kết hợp đấu tranh bằng bạo
lực và hoà bình, bằng giáo dục thuyết phục và hành chính pháp chế , bằng chính trị quân sự và
kinh tế, bằng cải tạo những quan hệ cũ và xây dựng những quan hệ mới, bằng hợp tác và cạnh
tranh, bằng đối đầu và đối thoại, bằng giữ vững độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế
bằng việc sử dụng các thành phần kinh tế tư bản để xây dựng CNXH....
* Vai trò của người CSND :
- Nhận thức sâu sắc đầy đủ học thuyết về đấu tranh g/c của chủ nghĩa MLN cũng như quan
điểm về đất tranh g/c của Đảng CSVN ở nước ta hiện nay.
-Làm tốt công tác tham mưu cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Xd thế trận an ninh nhân
dân, quốc phòng toàn dân nhằm bảo vệ chếnđộ XHCN.
-Kịp thời phát hiện những sơ hở thiếu sót trong hệ thống pháp luật, trong tổ chức quản lý xh
và đề xuất giải pháp .Đồng thời phát hiện những âm mưu những hành động tiêu cực sai trái
chống phá sự nghiệp cách mạng , sự nghiệp CN hoá hiện đại hoá hiện nayKịp thời phát hiện
những sơ hở thiếu sót trong hệ thống pháp luật, trong tổ chức quản lý xh và đề xuất giải pháp
.Đồng thời phát hiện những âm mưu những hành động tiêu cực sai trái chống phá sự nghiệp
cách mạng , sự nghiệp CN hoá hiện đại hoá hiện nay
- Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay, thông qua nhiệm vụ
chủ yếu để bảo vệ ANCT và giữ vững TTATXH
- Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tội phạm TNXH, bảo vệ đảng, chính
quyền.
- Làm tham mưu đắc lực cho cấp uỷ chính quyền trong sự nghiệp bảo vệ AN tổ quốc góp
phần xây dựng thế trận ANND và Quốc phòng toàn dân.

Câu 7: Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử. Sự vận dụng của
Đảng CSVN. Liên hệ công tác CA?
Sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội đã chứng minh rằng con người là chủ thể chân
chính sáng tạo ra lịch sử. Tuy nhiên, vai trò quyết định sự phát triển xã hội là thuộc về quần
chúng nhân dân hay của các cá nhân có phẩm chất đặc biệt – vĩ nhân lãnh tụ thì chúng ta cần
hiểu rõ:
a. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
- Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành
phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá
nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một
thời đại nhất định.
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính
ra lịch sử. Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung sau:
+ Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều
kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực
lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay
và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Song vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thưc tiễn
sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong
nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng hoạt động sản xuất
của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
+ Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng
minh rằng không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của
quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi
của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng.
20


Tất nhiên suy đến cùng thì nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt từ sự phát triển của lực

lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất
vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh
tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
+ Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Quần chúng
nhân dân đóng vai trò to lơn trong việc phát triển khoa học, nghệ thuật, văn học đồng thời áp
dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học nghệ thuật, khoa
học, chính trị, đạo đức … của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát
triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân
dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã
hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng
chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần
chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên tùy vào điều kiện lịch sử
mà vai trò chủ thể của quần chúng cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội
quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân như Bà
Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung… Đảng CS Việt Nam cũng khẳng định
rằng cách mạng là sự nghiêp của quần chúng và quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành bài học
kinh nghiệm nói lên vai trò của nhân dân Việt Nam lịch sử.
b. Vai trò của lãnh tụ
- Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong
trào cách mạng của quần chúng tạo nên. Lãnh tụ là người có những phẩm chất cơ bản sau đây:
Có tri thức khoa học uyên bác; Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và
hành động của quần chúng; Gắn bó mật thiết với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và
nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân.
- Vai trò của lãnh tụ
Trong mối quan hệ với quần chúng, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu là: Nắm bắt xu hướng thế
của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình
kinh tế, chính trị, xã hội; Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách
mạng; Tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí hành động của

quần chúng nhằm giải quyết những mục tiêu cách mạng đã đề ra.
Từ những nhiệm vụ trên, lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng như sau:
Một là, thúc đẩy hoặc kìm hảm sự tiến bộ xã hội. Nếu lãnh tụ nắm bắt được những quy luật
vận động và phát triển của xã hội thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển và ngược lại.
Hai là, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức
đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức, điều khiển và quản lý các tổ chức chính trị, xã hội, có vai
trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại phát triển và hoạt động của các tổ chức ấy.
Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó.
Không có lãnh tụ cho mọi thời đại mà chí có lãnh tụ gắn với một thời đại nhất định. Sau khi
hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần mãi mãi trong tình cảm và
niềm tin của quần chúng nhân dân.
* Sự vận dụng của ĐCS Việt Nam:
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò sức mạnh của quần chúng nhân dân, như
Nguyễn Trãi đã nói :”chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống,
nghịch lòng dân thì chết”. Đảng CSVN cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, và quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo
ra lịch sử của nhân dân lao động VN.

21


+ Giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ có mối quan hệ thống nhất với nhau , lãnh tụ là từ
phong trào quần chúng mà ra chính phong trào quần chúng đã rèn luyện nên phẩm chất của lãnh
tụ . Ngược lại lãnh tụ là người dẫn dắt phong trào thúc đẩy phong trào cách mạng quần chúng
nhân dân . Không có phong trào thì không có lãng tụ , ngược lại không có lãnh tụ phong trào
không thể phát triển được. ĐCSVN nhấn mạnh đáng giá về Chủ tịch Hồ Chí Minhvà dân tộc
Việt Nam (Non sông đất nước VN đã sản sinh ra Hồ Chí Minh và chính ngừơi đã làm rạng rỡ
non sông đất nước ta)
+ Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình . Sự thống
nhất về các mục tiêu cách mạng , hành động cách mạng , giữa lãnh tụ và quần chúng trên nền

tảng sự thống nhất về mặt lợi ích. Từ lợi ích mà có sự thống nhất và tùy thuộc vào lợi ích , sự
thống nhất đó có được bền chặt hay không và kéo dài được bao lâu. Trong điều kiện Đảng cộng
sản cầm quyền lợi ích ĐCS và nhân dân lao động là thống nhất với nhau, vì vậy mối quan hệ
ĐCS với tư cách lãnh tụ tập thể và quần chúng nhân dân lao động là lâu dài gắn bó mật thiết và
quan hệ (máu thịt).
+ Xây dựng và quán triệt quan điểm quần chúng trong mọi hoạt động với nội dung căn bản
và tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, tổ chức vận động quần chúng nhân dân
tham gia vào các phong trào cách mạng tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Vận dụng vơi người cand:
+ Trong công tác giáo dục tổ chức quần chúng tham gia vào phong trào bảo vệ ANTQ xây
dựng thế trận ANND, xác định bảo vệ ANQG là sự nghiệp của quần chúng.
+ Xác định trách nhiệm và ý thức tự hào trong việc bảo vệ Đảng bảo vệ lãnh tụ bảo vệ đường
lối của Đảng bảo vệ tổ chức cơ sở Đảng.
+ Đấu tranh chống lại âm mưu hành động phá hoại chia rẽ khối đại đoàn kết tòan dân, phá
hoại sự chia rẽ giữa Đảng và quần chúng .
+ Nhận thức sâu sắc vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đ/với lịch sử từ đó xác định
vai trò quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay là quầng chúng nhâ dân.
+Nhận thức sâu sắc ý nghĩa của luận điểm: CM là sự nghiệp của quần chúng, của chủ nghĩa
MLN và bài học lấy dân làm gốc của Đảng CSVN
+Xác định thái độ trách nhiệm thuộc về dân, vì dân, bảo vệ dân, đồng thời tuyên truyền giáo
dục thuyết phục tổ chức vận động quần chúng tham gia vào các phong trào bảo vệ tổ quốc, đấu
tranh phòng chống tệ nạn.
+ Cần phải chống thái độ coi thường quần chúng hoặc đề cao tôn sùng cá nhân.
MENU: TRIẾT HỌC
Câu 1: Nội dung nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Ý nghĩa
phương pháp luận, sự vận dụng của Đảng CSVN.Liên hệ công tác CA.
Câu 2: Nội dung Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Ý nghĩa phương
pháp luận, Sự vận dụng của Đảng CSVN.
Câu 3: Nội dung các cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tượng, nội dung

và hình thức. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng CSVN.
Câu 4: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Việc vận dụng của Đảng CSVN.
Câu 5: Hình thái kinh tế - xã hội. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng của Đảng CSVN?
Câu 6: Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
22


Câu 7: Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử. Sự vận dụng của Đảng
CSVN. Liên hệ công tác CA?

PHẦN II: CNXHKH
Câu 1: Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Những đặc trưng cơ bản của xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
a. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản có những đặc trưng cơ bản sau:
- Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ sở hữu công cộng về
tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Phát triển nền sản xuất xã hội với tốc độ cao, tạo ra nhiều của cải có thể thoả mãn nhu cầu
của xã hội.
+ Thực hiện nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
+ Con người được phát triển toàn diện.
+ Phát triển có kế hoạch nền kinh tế , văn hoá xã hội. Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của
một xã hội văn minh.
Cụ thể:
1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền SX công nghiệp hiện đại.
Cả mặt thực tế, cả lôgíc - lý luận khoa học đều chứng minh rằng, XH XHCN là sự kế tiếp sau
XH TBCN, có nhiệm vụ giải quyết những mâu thuẫn mà CNTB đã không thể giải quyết triệt để.

Đặc biệt là giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu XH hoá ngày càng tăng của LLSX ngày càng
hiện đại hơn với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu SX. Do đó, LLSX của XH XHCN,
khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với CNTB. Đương nhiên, các nước tư bản phát triển đã có
LLSX cao (như G7...) thì lên XH XHCN giai cấp vô sản ở đó chủ yếu chỉ phải trải qua một
cuộc CM CT thành công. Khi đó chính trình độ LLSX đã phát triển cao là một cơ sở rất thuận
lợi cho việc tiếp tục xây dựng thắng lợi, hoàn thiện CNXH - cả QHSX và LLSX cao hơn
CNTB.
Ở những nước XHCN “bỏ qua chế độ TBCN” (như VN và các nước khác) thì đương nhiên
phải có quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng từng bước cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của CNXH. Hiện nay, Trung Quốc, VN, Cuba... đang đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ khá cao, đạt được nhiều thành tựu to lớn và ngày càng vững
chắc.
2. XH XHCN đã xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu
SX chủ yếu
Các nhà kinh điển của CNML đã chỉ rõ, CNXH không xoá bỏ chế độ tư hữu nói chung mà
chủ yếu xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN về tư liệu SX (còn các chế độ tư hữu khác: chế độ tư hữu
chủ nô, phong kiến, xét trên toàn cầu thì đã bị CNTB xoá bỏ trước đó rồi). Bởi vì chế độ tư hữu
TBCN đã nô dịch, áp bức bóc lột giá trị thặng dư đối với đại đa số ND lao động, đem lại lợi
nhuận ngày càng cao cho thiểu số các tập đoàn tư bản lũng đoạn và giai cấp thống trị XH.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kết cấu XH còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp XH; cơ sở
KT quá độ còn nhiều thành phần vận hành theo cơ chế SX hàng hoá, quan hệ thị trường, vẫn tồn
tại những quan hệ KT cụ thể như thuê mướn lao động... cá nhân người này vẫn có thể còn bóc
lột những cá nhân khác. Đó chỉ là những quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải xem xét trên cả
một chế độ XH, giai cấp này bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác. V.I. Lênin và Đảng Cộng sản
Nga, sau một thời gian áp dụng “Chính sách cộng sản thời chiến” (trưng thu lương thực... do
23


yêu cầu phục vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc) đã bãi bỏ chính sách này khi bước vào thời kỳ quá
độ, xây dựng CNXH.
Đó là thời kỳ thực hiện “Chính sách KT mới” (NEP) với KT hàng hoá 5 thành phần và tự do

lưu thông hàng hoá trên thị trường nhiều loại sản phẩm. Đó là một đặc trưng KT của thời kỳ
quá độ và cả của CNXH. Việc xoá bỏ một cách nóng vội những đặc điểm trên, sa vào bệnh chủ
quan duy ý chí trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XX của các nước XHCN là trái với quan điểm
của V.I. Lênin về nền KT quá độ lên CNXH.
3. XH XHCN tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới
Quá trình xây dựng và bảo vệ CNXH là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số ND, vì
lợi ích của đa số ND. Chính từ bản chất và mục đích đó mà các nhà kinh điển Mác-Lênin đã
đưa ra những kết luận khoa học cho đến nay vẫn còn giá trị: CNXH sẽ là một kiểu tổ chức lao
động mới của bản thân ND lao động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của đảng cộng sản, đội tiên
phong của giai cấp công nhân và NN XHCN. Do đó, kỷ luật lao động mới cũng có những đặc
trưng mới, vừa là kỷ luật chặt chẽ theo những quy định chung của luật pháp, pháp chế XHCN,
vừa có tính tự giác - kỷ luật tự giác (tức là mỗi người lao động giác ngộ về vai trò làm chủ đích
thực của mình trước XH, trước mọi công việc được phân công ngày càng tốt hơn). Đương
nhiên, để mọi người lao động có được tổ chức và kỷ luật lao động mới tự giác như thế, phải trải
qua quá trình đấu tranh, từng bước hoàn thiện CNXH.
4. XH XHCN thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động - nguyên tắc phân phối cơ
bản nhất
Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người lao động sẽ nhận được từ XH một số lượng sản
phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động của họ đã tạo
ra cho XH, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho XH. Nguyên tắc phân phối này
là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển LLSX trong giai đoạn xây dựng CNXH. Đó là
một trong những cơ sở của công bằng XH ở giai đoạn này.
5. NN XHCN mang bản chất giai cấp công nhân, tính ND rộng rãi và tính dân tộc sâu
sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của ND
Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vô sản, CNML đã xác định rõ bản chất, chức năng,
nhiệm vụ của NN chuyên chính vô sản. Thực chất NN đó là do đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, ND tổ chức ra. Thông qua NN là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn XH về mọi mặt và
ND lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của XH. ND ngày càng
tham gia nhiều vào công việc NN, theo V.I. Lênin, NN chuyên chính vô sản (hay NN XHCN)
không còn nguyên nghĩa như NN của CNTB, mà là “NN nửa NN”, với tính tự giác, tự quản của

ND rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
6. XH XHCN là chế độ đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công
bằng, bình đẳng, tiến bộ XH, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện
Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con người về CT suy cho cùng
cũng là để giải phóng con người về KT, về đời sống vật chất và tinh thần. Dù lúc đầu mới có
chính quyền, trình độ KT, mức sống vật chất của ND còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng
CNXH là đã không còn chế độ tư hữu, áp bức bất công với tư cách một chế độ XH. Đây là
những tiền đề CT, KT khác về bản chất so với các chế độ cũ để từng bước thực hiện việc giải
phóng con người và phát triển con người toàn diện. Không có những tiền đề cơ bản đó không
thể giải phóng con người, không thực hiện được công bằng, bình đẳng, tiến bộ và văn minh
XH... Nói bình đẳng trong CNXH, là nói trong điều kiện, giai đoạn XH vẫn còn giai cấp, còn
NN, trước hết bình đẳng giữa các công dân, giữa các chủ thể SX - kinh doanh (dù họ ở thành
phần KT nào...) trước pháp luật chung của NN; bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giữa các dân tộ
b. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Khẳng định kiên trì con đường đi lên XHCN, cần phải xây dựng một quan niệm đúng đắn về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, hướng dẫn nhân dân ta tự giác hành động cách
24


mạng, định hướng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bằng trí tuệ của toàn Đảng, toàn
dân, Đại hội VII của Đảng (1991) đã nêu lên quan niệm về XH XHCN mà nhân dân xây dựng
gồm có 6 đặc trưng, đến đại hội X của Đảng (2006) và ĐH XI của Đảng (2011) có sự bổ sung
làm sáng tỏ hơn XH XHCN mà nhân dân ta xây dựng gồm có 8 đặc trưng cơ bản, thể hiện sự
khác biệt về chất của CNXH so với các hình thái kinh tế xã hội khác.
- Đặc trưng thứ nhất: là một xã hội dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây
là bản chất ưu việt của chế độ XHCN, thể hiện định hướng đúng đắn trong việc xây dựng
CNXH ở nước ta, muốn đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân thì phải xây
dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, đất nước giàu mạnh thì mới bảo vệ được độc lập dân tộc.
Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể ND VN sau khi đất nước giành được độc lập và thống
nhất Tổ quốc.

- Đặc trưng thứ hai: Do nhân dân làm chủ. Đây là đặc trưng cơ bản khác biệt hoàn toàn với
chủ nghĩa tư bản. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của CNXH hướng vào xác lập và bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân. Dưới CNXH nhân dân lao động thật sự là người chủ của xã hội,
được pháp luật bảo vệ. Song xác lập được quyền làm chủ của nhân dân lao động là cực kỳ khó
khăn và phức tạp, phải đấu tranh gian khổ chống lại mọi trở lực, từ chủ nghĩa quan liêu đến
những thế lực thù địch, từ thói quen tùy tiện của người sản xuất nhỏ đến những trở lực khách
quan của tình trạng chậm phát triển của bản thân nền sản xuất nhỏ ở nước ta. Dự thảo Cương
lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta,
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực NN thuộc về ND. Dân chủ phải được thực hiện
trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của NN do ND
bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên LLSX hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. CNXH là giai đoạn đầu của một hình thái cao hơn
CNTB với nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại mới bảo đảm những điều kiện vật
chất cho sự giải phóng con người, cho sự phát triển toàn diện cá nhân. Nền kinh tế đó dựa trên
chế độ công hữu về TLSX chủ yếu, đó là điểm khác về chất so với các chế độ xã hội dựa trên
chế độ tư hữu về TLXS. QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì mới mở đường cho LLSX
phát triển. Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: KT NN giữ vai trò chủ đạo, KT tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. KT NN cùng với KT tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền KT quốc dân. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH phải dựa trên chế độ
công hữu về các tư liệu SX chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng XHCN
trong phát triển nền KT thị trường với nhiều thành phần KT.
- Đặc trưng thứ tư: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là nền văn hóa yêu
nước, yêu độc lập tự do. Nền văn hóa tiên tiến gắn với bảo toàn và phát triển những truyền
thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa tiên tiến
của nhân loại để làm phong phú về nội dung và hình thức của văn hóa Việt Nam. Xây dựng một
nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị của tinh
hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người VN, xây
dựng một nền văn hóa VN thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến

với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà ND ta đang xây
dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển.
- Đặc trưng thứ năm: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện. Trước đây, chúng ta chỉ quan tâm khía cạnh phát huy vai trò động lực của con
người trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Tuy nhiên về phương diện con người, CNXH đồng
nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con
25


×