Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Thực tiễn hoạt động của toà án hình sự quốc tế (ICC) và khả năng gia nhập của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.74 KB, 10 trang )

Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

MỤC LỤC
Trang
I. Khái quát chung về Toà án hình sự quốc tế (ICC)…………………………………...........1
II. Thực tiễn hoạt động của Toà án hình sự quốc tế
1. Thực tiễn hoạt động……………………………………………………………………….1
2. Một số nhận xét……………………………………………………………………............4
III. Khả năng gia nhập của Việt Nam
1. Ý nghĩa của việc gia nhập ICC……………………………………………………............5
2. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam ảnh
hưởng tới việc gia nhập ICC…………………………………………………………............6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………........9

Nhóm 1 - Lớp N03.TL3


Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

MỞ ĐẦU
Trong điều kiện thế giới đang đứng trước các thời cơ và thách thức, nền chính trị quốc tế
còn nhiều yếu tố không ổn định, mỗi quốc gia dân tộc phải có những đóng góp vào việc chống lại
các tội ác nghiêm trọng, ngăn ngừa và giảm thiểu những tác động tiêu cực của chiến tranh và
xung đột vũ trang. Việt Nam đang xúc tiến các hoạt động nhằm tích cực và chủ động hội nhập
quốc tế trên các lĩnh vực. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về Toà án hình sự
quốc tế (ICC), những cơ hội và khó khăn gặp phải khi gia nhập ICC,… là việc làm hết sức cần
thiết đối với Việt Nam.
Nghiên cứu về đề tài “Thực tiễn hoạt động của Toà án hình sự quốc tế (ICC) và khả
năng gia nhập của Việt Nam”, nhóm em xin đưa ra một số ý kiến như sau:
I. Khái quát chung về Toà án hình sự quốc tế (ICC)
Nhu cầu về một tòa án hình sự ở quy mô quốc tế đã được nhắc đến vào cuối thế kỷ XIX.


Vào đầu 1872, Gustave Moynier, một người Thuỵ Sĩ, đã đưa ra ý kiến này khi chứng kiến sự bạo
tàn của cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (1870 – 1871). Tuy nhiên, tại thời điểm đó, một ý kiến như
vậy đã không nhận được sự ủng hộ tích cực từ phía các quốc gia. Chỉ đến khi Quy chế Rome về
việc thành lập Tòa án hình sự quốc tế được thông qua thì một thiết chế quốc tế thường trực có
thẩm quyền truy tố những kẻ vi phạm luật quốc tế về nhân đạo mới thực sự được hình thành. 160
quốc gia đã tham gia vào Hội nghị ngoại giao của Liên Hợp quốc (LHQ) được tổ chức tại Rome
từ 15/6 đến 17/7/1998 để thành lập ra Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court).
ICC là tòa án quốc tế thường trực dựa trên cơ sở hiệp ước nhằm giải quyết trách nhiệm hình
sự của các cá nhân đối với các tội phạm quốc tế nghiêm trọng nhất liên quan tới toàn thể cộng
đồng quốc tế, cụ thể là tội diệt chủng, các tội ác chống nhân loại và các tội chiến tranh, chiếu theo
Điều 6, 7, 8 của Quy chế Rome. Mục tiêu là nhằm bắt các cá nhân phải chịu trách nhiệm cho các
tội ác đã được liệt kê trong danh sách những vi phạm nghiêm trọng và mức độ lớn những giá trị
chung của con người. ICC là một thể chế độc lập được thiết lập bởi một hiệp ước mà các quốc gia
tự nguyện tham gia. Tòa án này không phải là một bộ phận của Liên hợp quốc hay bất kì một tổ
chức chính trị nào. Nó có chức năng pháp lý đơn thuần. Mỗi vụ án đều được xử về phương diện
pháp lý phù hợp với đạo luật của Tòa.
ICC được thành lập năm 1998 và chính thức đi vào hoạt động khi Quy chế Rome có hiệu
lực ngày 1/7/2002 căn cứ theo Điều 1267. Về cơ cấu tổ chức của ICC: Theo Điều 34 Quy chế
Rome thì Tòa Hình sự quốc tế gồm có 4 cơ quan chính: Chủ tịch Tòa án (The Presidency); Bộ
phận phúc thẩm (Appeals Division); Bộ phận xét xử (Trial Division) và Bộ phận Tiền xét xử
(Pre-Trial Division); Văn phòng Công tố viên (The Office of the Prosecutor) và Thư ký Tòa
(Registrar). Trụ sở chính thức của tòa án là ở Den Haag (The Hague), Hà Lan, nhưng các tố tụng
hình sự của tòa có thể diễn ra bất cứ nơi nào. Tính đến tháng 9 năm 2011, toà án có 116 quốc gia
thành viên. Còn 34 quốc gia nữa, bao gồm Nga, đã ký nhưng không phê chuẩn Quy chế Rome;
một trong số các nước đó, Côte d'Ivoire, đã chấp nhận quyền tài phán của Tòa án.
II. Thực tiễn hoạt động của Toà án hình sự quốc tế (ICC)
1. Thực tiễn hoạt động
Kể từ khi thành lập, việc bầu các Thẩm phán, Trưởng Công tố được gấp rút tiến hành. Tòa
hiện có 800 nhân viên thường trực đến từ 79 quốc gia và một đội ngũ nhân viên, tư vấn, thực tập
sinh, chuyên gia không thường trực giúp việc. Với đội ngũ đó, ICC kể từ khi chính thức hoạt

động đã tiến hành điều tra, truy tố một vài cá nhân nằm trong thẩm quyền truy tố của mình. ICC
đã nhận được thông tin về khá nhiều vụ việc và đã tiến hành xem xét, phân tích, điều tra. ICC
cũng đã tiến hành giai đoạn xét xử và các Tòa dự thẩm đã tiến hành một số phiên tòa cũng như
đưa ra một số quyết nghị. Dưới đây là một số vụ việc cụ thể mà ICC đã điều tra, xét xử.
- Đối với vụ việc ở CHDC Công-gô: Ngày 17/3/2006, Tòa Dự thẩm I của ICC đã ban
hành lệnh bắt giữ lãnh tụ của phong trào quân sự- chính trị “Liên minh những nhà ái quốc CôngNhóm 1 - Lớp N03.TL3


Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

gô” là Thomas Lubanga Dyilo với tội tuyển mộ và sử dụng trẻ em từ năm 2002 đến năm 2003.
Vụ việc này liên quan đến vụ thảm sát và hành quyết hàng nghìn người vào năm 2002, cũng như
các hành vi hãm hiếp, tra tấn trên phạm vi rộng và tuyển mộ trẻ em làm quân lính. Việc điều tra
các vụ phạm tội đã lần lượt được tiến hành với thứ tự ưu tiên cho những việc quan trọng nhất.
Sau một thời gian dài nỗ lực điều tra, phía công tố đã cáo buộc ông sử dụng những trẻ em 9 tuổi
làm vệ sĩ, nô lệ tình dục và tham gia chiến đấu. Cuối cùng ba vị thẩm phán của tòa đã thống nhất
buộc tội ông về việc sử dụng trẻ em dưới 15 tuổi làm binh lính. Ông này đã bị bắt và được
chuyển giao cho ICC và HĐ dự thẩm đã tiến hành phiên xét xử toàn thể.
- Đối với vụ việc ở Uganđa: Vào sáng ngày 29/7/2004, Trưởng Công tố đã xác định có cơ
sở để mở cuộc điều tra vụ việc xảy ra ở Bắc Uganđa sau khi nhận được thông báo từ Tổng thống
nước này vào tháng 12/2003.
HĐ dự thẩm II đã thông báo những lệnh bắt giữ đầu tiên vào ngày 13/10/2005 với 5 bị
can. Văn phòng công tố tiến hành điều tra một loạt các vụ bắt cóc trên quy mô lớn với đa số nạn
nhân là trẻ em, những vụ giết người, tra tấn, và bạo lực tình dục. Văn phòng công tố cũng đã kí
một thỏa thuận hợp tác với chính phủ Uganđa liên quan đến việc điều tra vụ việc này.
- Về vụ việc ở Darfur –Sudan:
Ngày 31/3/2005, HĐBA LHQ đã thông qua nghị quyết 1593, thông báo về vụ việc Darfur
với trưởng công tố. Sau khi xem xét, ngày 6/6/2005, Trưởng công tố đã chính thức mở cuộc điều
tra về tội phạm tại Darfur, bao gồm việc giết hại hàng ngàn dân thường, phá hủy và cướp bóc trên
diện rộng nhiều làng mạc cũng như hãm hiếp, bạo lực tình dục và đe dọa những người làm công

tác nhân đạo.
Cho đến thời điểm này, ICC đã phát lệnh truy nã và bắt giữ ba người bị coi là có liên quan
đến vụ việc này. Trong đó có Tổng thống của Sudan- ông Omal al- Bashir (ông bị ICC phát lệnh
bắt vào ngày 4/3/2009 với cáo buộc về các tội ác chiến tranh và tội ác chống loài người ở Darfur).
Đây là lần đầu tiên ICC phát lệnh bắt đối với một Tổng thống đang tại nhiệm. Ngoài ra ICC còn
phát lệnh bắt đối với Bộ trưởng Bộ quốc phòng Sudan Abdel Raheem Muhammed Hussei vào
ngày 1/3/2012 về các tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại trong vụ xung đột tại khu vực
Darfur của Sudan.
- Về vụ việc ở Cộng hoà Trung Phi: Ngày 7 tháng 1 năm 2005, Trưởng Công tố cho biết đã
nhận được thư của Chính phủ Cộng hoà Trung Phi, thông báo về các tội phạm thuộc quyền tài
phán của ICC diễn ra trên lãnh thổ Trung Phi từ ngày 1 tháng 7 năm 2002. ICC chính thức tiến
hành điều tra tội phạm trên lãnh thổ quốc gia này, Văn phòng Công tố đã tiến hành tích cực xem
xét quyết định khởi tố điều tra vụ việc.
- Đối với vụ việc ở Lybia: Từ đầu năm 2011, ICC đã phát lệnh truy nã đối với Tổng thống
của Lybia là ông Gaddafi, con trai ông và Giám đốc cơ quan Tình báo Lybia Abdulla al- Senussi
với cùng cáo buộc tội ác chiến tranh vì họ có cơ sở cho rằng những người này đã tra tấn và giết
hại những người đứng lên chống lại chính quyền, đàn áp đẫm máu những cuộc biểu tình của
người dân trong thời kì nội chiến ở quốc gia này.
Cuộc chiến tranh ở Lybia diễn ra vô cùng ác liệt và đẫm máu. Mãi đến 20/10/2011, khi
Gaddafi bị bắn chết, tình hình bắn phá ở đây mới tạm dừng. Tuy nhiên, sau khi ông Gaddafi chết,
thì không chỉ có những cáo buộc đối với những người từng theo chế độ cũ của ông, mà cũng đã
xuất hiện những cáo buộc đối với quân đội NATO về việc họ mượn cớ bảo đảm thực thi Nghị
quyết 1973 của LHQ để cố phóng tên lửa giết hại nhiều dân thường vô tội và cố tình giết người,
những cáo buộc đối với lực lượng NTC và các lực lượng bán quân sự cùng tham gia vào tổ chức
này về hành động giết người bừa bãi và tội ác chiến tranh. Trước tình hình rắc rối ở Lybia,
2/11/2011, ICC đã chính thức ra tuyên bố sẽ mở các cuộc điều tra hình sự đối với tất cả các bên
trong cuộc nội chiến ở Lybia, bao gồm NATO, lực lượng nổi dậy và cả lực lượng trung thành với
Nhóm 1 - Lớp N03.TL3



Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

ông Gaddafi. Hiện nay 2 người còn lại bị truy nã cùng với Gaddafi là Abdulla al-Senussi và Saif
al-Islam cũng đã bị bắt giữ và đang chờ xét xử.
- Bên cạnh đó, ở Serbia, ICC cũng đã tiến hành điều tra và phát lệnh bắt đối với các tội
phạm chiến tranh ở nước này trong cuộc chiến ở Croatia 1991-1995. Trong đó, đáng kể phải nói
đến việc ICC đã ra lệnh truy nã đối với Goran Hazdic- người từng là Tổng chỉ huy quân đội trong
thời chiên ở Croatia, với cáo buộc các tội về tội ác chiến tranh.
Vào ngày 29/11/2011, Tòa án Hình sự quốc tế cũng đã tống đạt trát bắt cựu tổng thống của
nước Côte d’Ivoire là Gbagbo với cáo buộc ông về tội ác chiến tranh trong thời kì các cuộc bạo
động hậu bầu cử tại quốc gia này.
Như vậy có thể thấy, kể từ khi chính thức hoạt động ICC cũng đã có nhiều nỗ lực trong
việc điều tra, xét xử những tội phạm quốc tế, những hoạt động tố tụng trong khuôn khổ của tòa án
này đang vận hành ngày càng có hệ thống hơn.
2. Một số nhận xét
Cho tới thời điểm hiện nay, ICC đã trở thành một thực thể tư pháp quốc tế đang hoạt động.
Trên thực tế ngày càng đi sâu vào quá trình chuyển đổi quan trọng từ xây dựng tòa án sang giai
đoạn xét xử. Trong quá trình hoạt động của mình, tòa án hình sự quốc tế ICC đã có sự phối hợp
khá nhịp nhàng, linh hoạt giữa các cơ quan trong tổ chức trên cơ sở sự phân công nhiệm vụ, trách
nhiệm rõ ràng nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác điều tra, xét xử. Điều đó có thể nhận
thấy thông qua những biểu hiện như: Phòng đăng kí của tòa án đã tiến hành hàng loạt các hoạt
động nhằm hỗ trợ tòa án trong hoạt động thực tiễn của mình. Văn phòng thực địa Kampala ở
Uganđa đang hoạt động toàn diện như văn phòng thực địa ở Kinshasa ở Cộng hòa dân chủ Công
gô. Tòa án cũng dự định sẽ thiết lập đại diện ở Sat để thu thập chứng cứ từ những trại tị nạn ở
biên giới giữa Sat và Xuđăng, nơi có nhiều nạn nhân cũng như người làm chứng của vụ phạm tội
ở Darfur, Xuđăng đang sinh sống. Nhiều mạng lưới đã được thiết lập với các đối tác địa phương
để hỗ trợ tòa án trong việc thực hiện sứ mạng của mình, việc hỗ trợ này cũng góp phần cung cấp
thông tin cho những cộng đồng chịu ảnh hưởng trong hoạt động của tòa án. Việc thu thập thông
tin như vậy cùng với việc các phân tòa cũng được giao nhiệm vụ rất cụ thể, phụ trách một vụ việc
(phân tòa tiền xét xử 1 phụ trách tình hình ở Cộng hòa dân chủ Cônggô; Phân tòa tiền xét xử 2

phụ trách tình hình ở Uganđa), giúp cho hoạt động tham gia tranh tụng, đưa ra các quyết định
chính xác và thuyết phục, đảm bảo tính khách quan.
Hoạt động của ICC luôn đảm bảo tính công khai, khách quan, đồng thời tuân thủ những
nguyên tắc của luật quốc tế. Những hoạt động của ICC thường xuyên được cập nhật trong trang
Web của tổ chức, thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, chỉ thụ lí các vụ
việc đúng thẩm quyền (tội ác quốc tế, tội chống nhân loại..), hoạt động đảm bảo không xâm hạm
đến chủ quyền, công việc nội bộ của các nước có liên quan.
Bằng hoạt động thực tế cũng như kết quả đã đạt được, ICC được cộng đồng quốc tế ủng hộ,
điều này thể hiện ở việc số lượng thành viên của ICC đang tiếp tục tăng lên, đồng nghĩa là qui mô
của tổ chức này đang ngày càng được mở rộng. Về số lượng các nước thành viên như ở phần trên,
hiện nay nhiều quốc gia đang trong quá trình gia nhập tổ chức này. Trong khi tổ chức hoạt động
cũng nhận được sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, như sự giúp đỡ của Hội đồng bảo an, của
chính các quốc gia thành viên, cả các quốc gia không là thành viên, các cơ quan báo chí địa
phương…
Là một tòa án quốc tế mới thành lập và đi vào hoạt động, ICC không thể ngay lập tức đạt
được nhiều kết quả mà không có những hạn chế nhất định. Trước hết, về nguyên tắc, hoạt động
của ICC chỉ mang tính bổ sung cho hệ thống tư pháp của các quốc gia và Tòa án chỉ vào cuộc để
đưa một vụ việc ở một quốc gia ký kết ra xét xử khi hệ thống tòa án của quốc gia đó bất lực hoặc
không xét xử vụ việc đó. Nhưng việc phân xử “Tòa án quốc gia bất lực” hoặc “không xét xử” vụ
vi phạm lại chính do Tòa án hình sự quốc tế thực hiện. Có nghĩa là, vào bất cứ lúc nào ICC cũng
Nhóm 1 - Lớp N03.TL3


Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

có thể nhảy vào cuộc để xét xử một vụ việc xảy ra ở một quốc gia nào đó. Có thể thấy rằng đây là
một rủi ro lớn đối với các quốc gia thanh viên liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền của họ. Cho
tới nay, ICC cũng đang chịu nhiều chỉ trích từ phía dư luận quốc tế sau khi ICC phát lệnh bắt giữ
Tổng thống Sudan Omar al- Bashir gồm 5 cáo buộc tội ác chống loài người và 2 cáo buộc tội ác
chiến tranh, song không có cáo buộc tội diệt chủng tại Darfur. Cộng đồng quốc tế quan ngại rằng

điều đó có thể sẽ tạo nên tiền lệ nguy hiểm trong đời sống chính trị Thế giới, sự quan ngại rằng
tòa án này là mối đe dọa đến chủ quyền của các quốc gia và đến nguyên tắc không can thiệp vào
quyền tài phán trong nước của các quốc gia như đã được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp
quốc.
Thứ hai, cũng có nhiều quan điểm cho rằng, trong Quy chế Rome có những quy phạm
chưa đúng và chưa đủ về quy trình. Cụ thể là hiện tại, Quy chế Rome vẫn chưa có quy định định
nghĩa về tội xâm lược, tội ác nghiêm trọng nhất.
Thứ ba, ICC chưa xóa bỏ được hoàn toàn cho cộng đồng thế giới nghi ngờ về tính khách
quan và vô tư trong hoạt động của mình. Hiện nay, tính công lý của Tòa án đang bị nhiều nước
nghi ngờ, đặc biệt là các quốc gia ở Châu Phi. Mới đây, Chủ tịch Uỷ ban Liên minh Châu Phi AU
đã tuyên bố rằng Châu Phi sẽ thành lập một Tòa án hình sự riêng, vì họ cho rằng những phán
quyết của ICC không hề mang lại công lý và phân biệt đối xử khi mà họ chỉ tập trung theo đuổi
những vi phạm ở Châu Phi, nhưng lại lờ tịt các hành động tương tự khác ở các cường quốc
phương Tây ở Iraq, Afghanistan, Pakistan. Quyết định này của AU đã cho thấy rằng họ không
còn tin tưởng hoàn toàn vào quyền tài phán của ICC sẽ công bằng như lúc đầu tổ chức này mới
thành lập nữa.
Thứ tư, đó là việc một số cường quốc không gia nhập Quy chế này như Hoa Kỳ, Nga, Nhật,
Trung Quốc…đây là những đại diện lớn nhất, tiêu biểu nhất, có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời
sống quốc tế, những thành viên thường trực của HĐBA. Đặc biệt là Hoa Kỳ, không những tẩy
chay Quy chế Rome mà còn tìm cách phá hoại nội dung của nó bằng cách vận động các quốc gia
ký kết Hiệp định song phương về miễn trừ (BIA) với Hoa Kỳ.
Ngoài ra, việc ICC không có lực lượng cảnh sát hỗ trợ của riêng mình, do vậy khi tiến hành
điều tra, truy bắt họ chỉ còn biết trông chờ vào sự hợp tác của các Chính phủ hữu quan hoặc lực
lượng gìn giữ hòa bình của LHQ, do đó nếu có quốc gia nào không hợp tác hoặc có quốc gia nào
không phải là thành viên của Công ước Rome tức sẽ không phải chịu sự ràng buộc của Công ước
và ICC cũng không thể tùy ý thực hiện thẩm quyền của mình trên lãnh thổ quốc gia đó, thì khi đó
chắc chắn ICC sẽ vấp phải những khó khăn trong việc thực hiện thẩm quyền của mình. Ví dụ như
trong việc truy nã tổng thống của Sudan, ICC đã gặp phải rất nhiều khó khăn do có nhiều quốc
gia không phải là thành viên ICC không chịu giao nộp ông, và ngay cả việc tiếp cận với những tội
phạm chiến tranh ở Darfur ICC cũng không thể thực hiện được do sự bất hợp tác của các bên

tham chiến.
Tóm lại, tòa án hình sự quốc tế là một thiết chế quan trọng và cần thiết của luật hình sự
quốc tế nói riêng và luật quốc tế nói chung. Sự ra đời và hoạt động của tòa án hình sự quốc tế trên
cơ sở Quy chế Roma năm 1998 thực sự là thắng lợi của lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
Mặc dù kết quả hoạt động của nó cón những hạn chế nhất định nhưng sự hiện diện của tòa án
hình sự quốc tế chác chắn củng cố niềm tin và chiến thắng vào công lí.
III. Khả năng gia nhập ICC của Việt Nam
1. Ý nghĩa của việc gia nhập ICC
Hoà bình, ổn định và phát triển là mục tiêu mà toàn nhân loại hướng tới, cũng là niềm mơ
ước của nhân dân Việt Nam suốt mấy ngàn năm lịch sử, trong đó, hoà bình, ổn định là cơ sở, là
“bệ đỡ” cho sự phát triển thịnh vượng của mỗi quốc gia cũng như mỗi khu vực và toàn thế giới.
Do đó, sự hiện diện của một Toà án hình sự quốc tế thường trực, độc lập, khách quan và công
bằng, bổ sung cho hệ thống tư pháp quốc gia, hoạt động phù hợp với những nguyên tắc cơ bản
Nhóm 1 - Lớp N03.TL3


Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

của luật quốc tế để xét xử những cá nhân phạm các tội ác quốc tế, góp phần giữ gìn, tăng cường
hoà bình, an ninh quốc tế là vô cùng cần thiết. Ngược dòng lịch sử, chúng ta biết rằng, trước
những tội ác man rợ của đế quốc Mỹ gây ra ở Việt Nam, cộng đồng quốc tế vô cùng phẫn nộ và
nhà bác học người Anh, B.Russel, đã lập ra một Toà án xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt
Nam, song Toà án này không mang tính pháp lý bắt buộc. Trong giai đoạn hiện nay, với “chính
xách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế”, “tham gia tích cực
vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”, nhiệm vụ trọng tâm của công tác đối ngoại của chúng
ta là giữ vững môi trường hoà bình, tạo điều kiện quốc tế thoả thuận cho công cuộc đổi mới của
đất nước, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc sống đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Do đó, việc gia nhập Quy chế Rome và Toà
án hình sự quốc tế hoàn toàn phù hợp và cần thiết để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ này.
2. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng tới việc gia nhập ICC của Việt Nam

Thái độ và hoạt động của Việt Nam với ICC là nói tới khả năng chủ động của chúng ta để
tham gia vào ICC, nhưng khả năng chúng ta tham gia vào ICC có thực hiện được không là còn
phụ thuộc vào những thuận lợi và khó khăn như sau:
2.1. Thuận lợi:
Đầu tiên, việc gia nhập ICC phù hợp với mục tiêu và phương hướng mở rộng quan hệ đối
ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Với tư cách là thành viên của một số điều ước quốc tế có liên quan (Công ước Giơ – ne – vơ
năm 1949 và Nghị định thư bổ sung I, thành tố cơ bản của Luật Nhân đạo quốc tế; Công ước về
Ngăn ngừa và Trừng trị tội diệt chủng năm 1948…) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thực
hiện nghĩa vụ do việc gia nhập quy chế Rome. Đồng thời, pháp luật trong nước hiện hành của
Việt Nam có nhiều nội dung phù hợp với quy chế Rome; hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam
đã được cải tiến đáng kể là những nhân tố cho việc đáp ứng điều kiện của ICC. Cùng với sự ủng
hộ mạnh mẽ từ phía công đồng quốc tê trong việc gia nhập quy chế Rome, Việt Nam có thể học
hỏi kinh nghiệm từ nhiều quốc gia đã gia nhập quy chế Rome.
Nền hòa bình và an ninh của Việt Nam có cơ hội được đặt dưới sự bảo vệ của một số cơ
quan tư pháp quốc tế thường trực, cơ hội tham gia một cách tích cực hơn, chủ động hơn vào công
cuộc gìn giữ hòa bình, bảo vệ công lý trên toàn thế giới, từ đó nâng cao vị thế của mình trên toàn
thế giới, từ đó nâng cao vị thế của mình trong quan hệ quốc tế, tạo điều kiện để hoàn thiện hệ
thống trong nước đặc biệt trong lĩnh vực luật hình sự và tố tụng hình sự còn nhiều bất cập hiện
nay. Cơ hội hoàn thiện hệ thống cơ quan tư pháp, cơ hội để nâng cao trình độ về mọi mặt
( chuyên môn, ngoại ngữ...) cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu và cán bộ thực tiến của Việt Nam,
nhất là các cán bộ trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự và pháp luật quốc tế, cơ hội tham dự
trực tiếp vào quá trình xây dựng và phát triển thể chế tư pháp quốc tế mới – ICC.
Như vậy, những lợi ích mà việc gia nhập Quy chế Rome trở thành thành viên của ICC mang
lại là tích cực, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Bên cạnh đó, Viêt nam cũng có những khả năng nhất định để trở thành thành viên ICC như:
+ Nhiều nội dung trong Quy chế Rome cũng phù hợp với pháp luật hình sự Việt Nam như:
các nguyên tắc chung của luật hình sự, trách nhiệm hình sự cá nhân, không áp dụng thời hiệu đối
với các tội thuộc quyền tài phán của ICC…; và pháp luật tố tụng hình sự như: các nguyên tắc xét
xử công bằng, khách quan, không để lọt tội phạm, không kết án oan người vô tội, bảo vệ chứng

cứ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người tham gia tố tụng như bị cáo, nạn nhân và nhân
chứng.
+ Hệ thống cơ quan tư pháp Việt Nam đã được cải cách đáng kể và có nhiều tiến bộ trong
công tác tư pháp. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân đã được nâng cao về chất lượng, bảo
đảm thời hạn xét xử theo luật định, hạn chế đến mức thấp nhất các bản án, quyết định của Toàn
án có sai lầm nghiêm trọng, khắc phục việc kết án oan… Hoạt động hợp tác và tương trợ tư pháp
Nhóm 1 - Lớp N03.TL3


Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

cũng đang từng bước được cải thiện. Hiện tại, Bộ tư pháp Việt Nam đang chủ trì soạn thảo Luật
Tương trợ tư pháp và dự kiến sẽ trình lên Quốc hội thông qua. Đây là một trong những yếu tố có
ý nghĩa quan trọng để bảo đảm việc thực hiện các nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập và thực
hiện quy chế Rome.
+ Việt Nam còn có sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía cộng đồng quốc tế trong việc gia nhập Quy
chế Rome. EU và nhiều quốc gia cũng như như các tổ chức quốc tế khác luôn tỏ ý sẵn sàng giúp
đỡ và hỗ trợ Việt nam trong việc nghiên cứu Quy chế Rome và soạn thảo luật thực hiện cơ chế.
3.2. Khó khăn
Bên cạnh những cơ hội những lợi ích mang lại từ việc Việt Nam trở thành viên của ICC thì
Việt Nam cũng sẽ gặp phải nhiều khó khăn, trở ngại và thách thức khi gia nhập ICC.
- Sự quan ngại về vấn đề chia sẻ quyền lực với ICC. Gia nhập Quy chế Roma đồng nghĩa
với việc quốc gia thành viên phải chia sẻ và chuyển cho ICC một phần quyền tài phán hình sự
của mình. Do đó, mặc dù việc trao cho ICC một phần quyền tài phán là cần thiết và về thực chất
không làm tổn hại đến chủ quyền quốc gia, nhưng cách tiếp cận mới này không khỏi gây ra
những cuộc tranh luận trong giới khoa học pháp lý và các cơ quan của nhiều nước về quyền tài
phán của quốc gia, một nguyên tắc được ghi nhận lâu đời trong Luật quốc tế. Những yếu tố này
khiến đã cho nhiều quốc gia quan ngại về việc chia sẻ quyền tài phán hình sự quốc gia cho ICC,
vốn là lĩnh vực được coi là đặc quyền và là biểu hiện của việc thực hiện chủ quyền quốc gia,
trong đó có Việt Nam.

- Khi trở thành thành viên của ICC, mỗi quốc gia đều phải chịu nghĩa vụ khá nặng, trong đó
có cả Việt Nam. Những nghĩa vụ này bao gồm nghĩa vụ tuân thủ và nghĩa vụ hợp tác đầy đủ và
để có thể đảm đương được tất cả những gánh nặng này, Việt Nam phải nỗ lực hết sức trên mọi
phương diện từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp.
- Khi quyết định gia nhập ICC, rất nhiều quốc gia trên thế giới không thể không tính đến
những cuộc vận động ngoại giao hết sức ráo riết và trái ngược nhau giữa EU và Hoa Kỳ. Sau khi
Quy chế Roma về ICC được thông qua, các nước EU tiến hành một chiến dịch ngoại giao lớn
nhằm vận động các quốc gia trên thế giới nhanh chóng ký và phê chuẩn Quy chế Roma. Đối với
Việt Nam để thúc tiến qua trình gia nhập ICC, bên cạnh các cuộc tiếp xúc và vận động ngoại
giao, các nước EU còn gián tiếp hoặc trực tiếp tài trợ, tham gia tổ chức hoặc mời các cơ quan Việt
Nam cử cán bộ tham dự các hội thảo, khóa học về ICC. Thông qua những hoạt động này các
nước EU một mặt muốn giúp các nhà nghiên cứu Việt Nam hiểu sâu hơn về ICC, mặt khác cũng
tìm hiểu thái độ của Việt Nam đối với ICC, thăm dò tiến độ Việt Nam nghiên cứu quy chế Rome
cũng như thái độ đối với BIAs của Hoa Kỳ. Trên thực tế, Hoa Kỳ cũng đã tiến hành nhiều cuộc
gặp gỡ ngoại giao nhằm vận động Chính phủ Việt Nam nhằm đàm phán và ký kết BIA, coi đó
như là một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy Việt Nam – Hoa Kỳ. Đây chính là một khó khăn
trong vấn đề ngoại giao của Việt Nam khi cân nhắc gia nhập ICC.
- Quy chế Rome chia thành 12 phần gồm có 128 điều khoản, là một văn bản pháp lý có nội
dung phức tạp, kèm theo nó là nhiều văn bản phụ trợ cho nên việc nghiên cứu, đánh giá nó đòi
hỏi phải mất nhiều thời gian, công sức. Do đó, việc gia nhập Quy chế này dù muốn nhưng cũng
không thể nhanh chóng được.
- Bên cạnh đó pháp luật hình sự Việt Nam còn nhiều điểm chưa tương thích với các quy
định của Quy chế Rome. Một số quy định của Quy chế Rome chưa được quy định hoặc quy định
không đầy đủ trong pháp luật Việt Nam. Vì vậy, để gia nhập được vào ICC, Việt Nam phải sửa
đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp quy hiện hành, như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự…,
đồng thời ban hành những văn bản quy phạm pháp luật cần thiết khác.
- Về mặt cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện nghĩa vụ và hỗ trợ cho các hoạt động của
ICC. Vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, chưa được đầu tư gây ảnh hưởng lớn tới chất lượng các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, hợp tác, tương trợ tư pháp với ICC… nguồn tài chính hạn chế gây
Nhóm 1 - Lớp N03.TL3



Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

khó khăn cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phục vụ các công tác trong nghĩa vụ quốc gia thành
viên ICC.
- Việt Nam thiếu hụt kiến thức và kinh nghiệm giải quyết vụ án hình sự liên quan đến tội
phạm được quy định trong quy chế Rome. Tuy rằng, Bộ luật hình sự Việt Nam có quy định về
các tội xâm phạm an ninh thế giới: tội phá hoại hòa bình, tội chống loài ngýời và tội phạm chíến
tranh (chương XXIV BLHS 1999) nhưng từ khi có các quy ðịnh về các tội phạm này cho đến nay
thì Tòa án các cấp của Việt Nam chưa từng bao giờ xét xử vụ án nào về các tội này. Do vậy,
những kinh nghiệm về trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự về các tội này còn
thiếu hụt trong đội ngũ những người tiến hành tố tụng của các cơ quan tư pháp.
- Hiện tại Việt Nam đang thiếu các cán bộ có trình độ ngoại ngữ chuyên ngành luật hình sự
quốc tế dẫn đến cản trở lớn trong việc dịch các văn bản của ICC cũng như việc tiếp nhận và thực
hiện các yêu cầu từ phía ICC, tham gia các cuộc họp và thảo luận của Hội đồng quốc gia thành
viên ICC sau này. Theo thống kê của Bộ Tư pháp vào giữa năm 2009 thì ở Việt Nam số lượng
luật sư có đủ kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm phán
giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ 1,2% trong tổng số luật sư, trong đó chỉ khoảng 20
luật sư có trình độ ngang tầm với luật sư khu vực.
KẾT LUẬN: Việt Nam chúng ta đang xúc tiến các hoạt động nhằm tích cực và chủ động hội
nhập quốc tế trên các lĩnh vực. Do đó, hiện nay Việt Nam cần phải nghiên cứu một cách tổng thể
và thấu đáo về ICC, phổ biến thông tin về ICC, giáo dục, đào tạo cán bộ và luôn theo dõi sát hoạt
động cũng như sự phát triển của ICC
Việc nghiên cứu, tìm hiểu một cách toàn diện và khoa học về ICC cũng như nội dung của
quy chế Rome, những thuận lợi và khó khăn khi chúng ta trở thành thành viên chính thức của
ICC là điều hết sức cần thiết, đây cũng chính là mục đích bài tiểu luận này của nhóm em. Do thời
gian nghiên cứu và số trang trình bày có hạn, bài làm có thể còn nhiều thiếu sót mong thầy, cô
cho ý kiến nhận xét./


Nhóm 1 - Lớp N03.TL3


Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

CHÚ THÍCH
ICC: Toà án hình sự quốc tế
NATO:Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, là một liên minh quân sự thành lập năm 1949 bao
gồm Hoa Kỳ (Mỹ) và một số nước ở châu Âu
NTC :Hội đồng Chuyển tiếp Quốc gia Lybia (tiếng Ả Rập: al-majlis al-waṭanī al-intiqālī) là một
tổ chức hình thành bởi lực lượng chống lại tổng thống Gaddafi trong cuộc nổi dậy năm 2011.
LHQ: Liên hợp quốc
EU : Liên minh châu Âu
BLHS : Bộ luật hình sự
BIAs :

Nhóm 1 - Lớp N03.TL3


Bài tập nhóm số 2 môn Công pháp quốc tế

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nhóm 1 - Lớp N03.TL3



×