Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn luyện từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.68 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang

1. Mở đầu...............................................................................................................1
1.1 Lí do viết sáng kiến kinh nghiệm....................................................................1
1.2 Mục đích nghiên cứu:......................................................................................1
1.3 Đối tượng nghiên cứu:.....................................................................................2
1.4 Phương pháp nghiên cứu:................................................................................2
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm................................................................2
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:.......................................................2
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:........................2
2.3 Một số biện pháp thực hiện.............................................................................4
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:...............16
3. Kết luận và kiến nghị.......................................................................................17
3.1 Kết luận:........................................................................................................17
3.2 Kiến nghị:......................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................19

0


1. Mở đầu
1.1 Lí do viết sáng kiến kinh nghiệm
Mục tiêu quan trọng của chương trình Tiếng Việt tiểu học là dạy cho học
sinh một công cụ để giao tiếp và học tập. Nhưng để sử dụng Tiếng Việt như một
công cụ giao tiếp và học tập thì trước hết học sinh phải nắm được vốn từ tiếng
Việt. Từ là đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ, nếu không làm chủ được vốn
từ của một ngôn ngữ thì không thể sử dụng được ngôn ngữ đó để học tập cũng
như trong giao tiếp. Ngoài ra, vốn từ ngữ của một người càng giàu bao nhiêu thì
khả năng diễn đạt của người đó càng chính xác và tinh tế bấy nhiêu. Vì vậy, làm
giàu vốn từ cho học sinh là việc làm rất quan trọng và cần thiết.


Mặt khác, với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa
trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em
chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung
chung chứ chưa đầy đủ và chưa chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ
đã học vào giao tiếp và học tập còn nhiều hạn chế, học sinh còn gặp khó khăn
và bị lúng túng trong việc tìm từ và sử dụng từ. Làm giàu vốn từ cho học sinh
ngoài việc cung cấp thêm các từ mới, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ còn tạo
tính thường trực của từ nhằm nâng cao khả năng lựa chọn và sử dụng từ của
học sinh khi học các môn học nói riêng và trong cuộc sống nói chung. .
Thế nhưng việc học luyện từ và câu ở trường tiểu học, đặc biệt ở học sinh
lớp 2 (là lớp đầu tiên làm quen và học phân môn này) thì thật không dễ chút nào.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi nhận thấy nhiều giáo viên chưa chú trọng
việc làm giàu vốn từ cho học sinh. Mặt khác, một số giáo viên chưa có sự sáng
tạo về phương pháp dạy học luyện từ và câu cũng như là vận dụng linh hoạt các
hình thức dạy học hiện đại để làm giàu vốn từ cho các em. Còn về phía học sinh,
vốn từ của các em còn rất ít, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế, các em đọc còn chưa
lưu loát vì vậy ít nhiều làm giảm khả năng tìm từ đúng, đặt câu đúng, câu hay,
diễn đạt bằng lời nói. Dẫn đến các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin trong học
tập và giao tiếp. Một số em chưa chăm chỉ học tập, chưa hứng thú tham gia vào
giờ học Luyện từ và câu. Khả năng phân tích cấu trúc và vận dụng bài học vào
thực tiễn còn hạn chế. Mặt khác, ta biết rằng tư duy của các em học sinh lớp 2 là
tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào đặc điểm trực quan của
những đối tượng và hiện tượng cụ thể. Do đó việc dạy luyện từ và câu ở lớp 2
chủ yếu phải sử dụng đồ dùng trực quan để có cơ sở hình thành kiến thức cho
các em. Để làm giàu vốn từ cho các em như thế nào cho có hiệu quả? Đó là điều
mà tôi luôn luôn trăn trở. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn, nghiên cứu và viết giải
pháp hữu ích “ Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông
qua phân môn Luyện từ và câu” này.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn luyện

cho học sinh kỹ năng chính:
Làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh
Biết sử dụng từ ngữ trong đời sống hàng ngày.

1


1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân
môn Luyện từ và câu.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp trò chuyện.
+ Phương pháp đọc sách và tài liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Với mục tiêu chung của môn Tiếng Việt thì mục tiêu của phân môn Luyện
từ và câu là một bộ phận nhỏ của môn Tiếng Việt hết sức cần thiết để giúp học
sinh mở rộng và phát triển vốn từ làm cho vốn ngôn ngữ của các em càng
phong phú; việc giúp học sinh nắm ý nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ để bồi
dưỡng cho các em thói quen dùng từ chính xác, nói – viết thành câu, có ý thức
sử dụng Tiếng Việt có văn hóa trong học tập và giao tiếp.
Thông qua mục tiêu chương trình cũng như cụ thể hóa được vai trò của
nhân tố từ ngữ trong việc sử dụng tiếng Việt. Bên cạnh đó, phân môn Luyện từ
và câu ở lớp 2 còn góp phần quan trọng giúp học sinh mở rộng và phát triển
vốn từ. Từ đó, học sinh sẽ có một vốn từ nhất định để hình thành thói quen
dùng từ, nói và viết thành câu: có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong học
tập, giao tiếp và thích học Tiếng Việt. Do đó, người giáo viên dạy lớp 2 (hay

dạy bậc Tiểu học) cần phải hội đủ các yếu tố như: Có kiến thức sâu rộng và
chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung cũng như mục tiêu của
từng bài dạy; có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, về ý đồ của sách
giáo khoa và về cấu trúc của từng bài theo các thông tin thể hiện ở sách giáo
khoa; có năng lực giảng dạy nhất định, biết xử lý và linh hoạt sáng tạo trong
quá trình dạy – học. Đây chính là cơ sở vững chắc để giúp học sinh lĩnh hội
kiến thức một cách tốt nhất, các em biết vận dụng thành công vốn từ trong học
tập và giao tiếp.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
a. Thuận lợi:
- Nhà trường:
+ Nhà trường thường mở các chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi kinh
nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trường đều tạo điều kiện
cho giáo viên trao đổi, tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn.
+ Một số tranh ảnh trực quan để phục vụ cho các bài Luyện Từ & Câu
ở lớp 2 đã có sẵn ở thư viên: Tranh các chim, loài cá, thú…
- Học sinh:
+ Các em học sinh có đủ SGK, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ cho
môn học.
+ Phần lớn phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình.
2


b. Khó khăn:
- Giáo viên:
+ Phân môn Luyện Từ & Câu là phân môn mà học sinh lớp 2 vừa được
làm quen, nên giáo viên gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn các hình thức dạy học
phù hợp với các em.
+ Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học
nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách

hướng dẫn vì sợ sai.
+ Đối với một số giáo viên do sử dụng đồ dùng dạy học nói chung và đồ
dùng trực quan nói riêng chưa được thường xuyên, nên việc sử dụng còn nhiều
lúng túng.
- Học sinh:
+ Quan sát học sinh khi học phân môn Luyện từ và câu, tôi yêu cầu các
em tìm từ ngữ thuộc các chủ đề, chủ điểm đang học. Đa số các em tìm được rất
ít từ hoặc không tìm được từ, chỉ khi cô giáo gợi mở sát vào từng ngữ cảnh học
sinh mới tìm được từ mà giáo viên yêu cầu.
+ Qua tiết học phân môn Tập làm văn, tôi thường quan sát các em trong
việc trả lời câu hỏi, đặt câu, viết đoạn văn ngắn từ 3 - 5 câu. Tôi thấy các em đa
1
số chưa biết đặt câu, sử dụng từ chưa chính xác, chỉ hơn
số học sinh trong
4
lớp biết dùng một số mẫu câu đơn giản.

Đoạn văn kể về ông (hoặc bà) của em.
+ Một số em chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia vào giờ học Luyện
từ và câu.
Kết quả khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm của lớp 2A (lớp
thực nghiệm) và lớp 2B (lớp đối chứng)
Lớp
2A
2B

Tổng số
HS
34
34


HTT
SL
5
6

TL
14,5%
17,4%

HT
SL
15
16

TL
44,9 %
52,2%

CHT
SL
14
12

TL
40,6%
34,8%

3



Từ thực trạng trên tôi thấy nếu không có biện pháp mở rộng vốn từ
cho học sinh thì chất lượng dạy học môn Tiếng Việt sẽ không cao. Trong năm
học trước, khi đánh giá chất lượng bài thi các giáo viên đều có chung nhận
định: Vốn từ của học sinh đang còn nghèo nàn, nhiều em tìm từ không đúng
yêu cầu và có rất nhiều em không tìm được từ. Những hạn chế trên một phần là
do giáo viên chưa chú ý đúng mức đến dạy học mở rộng vốn từ cho học sinh.
Trong quá trình dạy giáo viên ít tạo điều kiện cho học sinh được hoạt động
nhiều với từ nên khả năng thường trực từ ở học sinh và sử dụng khi cần thiết
chưa cao. Có bài tập cần phải sử dụng hoạt động thảo luận nhóm, thì giáo viên
lại tổ chức làm việc chung cả lớp, có bài tập đề bài cần tổ chức cho học sinh
hoạt động cá nhân thì giáo viên lại tổ chức trò chơi học tập tập trung đối tượng
học sinh năng khiều. Thời gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù hợp, hệ
thống câu hỏi và hình thức thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu cầu, chưa phân
loại đối tượng học sinh để dạy học cho phù hợp.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu và vận dụng: “Một số biện
pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu”
2.3 Một số biện pháp thực hiện.
Biện pháp 1: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn
từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó dưới sự
hướng dẫn của giáo viên mà các thành viên trong nhóm thực hiện việc trao đổi,
thảo luận, chất vấn và chia sẻ lẫn nhau.
Quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy rất ít giáo viên sử dụng phương pháp
thảo luận nhóm trong quá trình dạy học làm giàu vốn từ đặc biệt là trong nhiệm
vụ mở rộng vốn từ cho học sinh. Trong bài dạy, giáo viên chủ yếu sử dụng
phương pháp cá nhân làm việc độc lập, phương pháp vấn đáp để dạy các bài
tập mở rộng vốn từ. Số lượng từ ngữ học sinh nắm được trong giờ học không
cao và không bền vững. Khi huy động vốn từ theo chủ đề, mỗi học sinh chỉ huy
động được khoảng 1, 2 từ, nhiều nhất là 4, 5 từ. Thậm chí có học sinh không

huy động được một từ ngữ nào. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực
trạng trên là do giáo viên ít vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
cực vào trong giờ học, không tạo được điều kiện để học sinh có thể hoạt động
nhiều hơn với từ, lặp đi, lặp lại các thao tác với từ để có thể nhớ từ một cách
bền vững. Hơn nữa, khả năng giao tiếp của học sinh hiện nay còn yếu, học sinh
diễn đạt chưa rõ ràng, mạch lạc vì trong quá trình học, học sinh không được
thao tác nhiều với từ. Vì thế, trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học
sinh luyện tập sử dụng từ.
Cách thực hiện:
Để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào trong bài dạy đạt hiệu quả,
giáo viên phải thực hiện các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị ở nhà
- Giáo viên chuẩn bị kỹ bài dạy, nghiên cứu kỹ nhiệm vụ của bài dạy. Xác
định bài tập sẽ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm.
4


- Giáo viên thiết kế phiếu bài tập để giao việc cho các nhóm học sinh. Khi
thiết kế phiếu bài tập, giáo viên lưu ý xây dựng thêm các bài tập giải nghĩa từ
đối với những từ học sinh chưa hiểu nghĩa. Tùy thuộc vào trình độ nhận thức
của lớp mình, giáo viên thiết kế thêm các bài tập bổ sung để cụ thể hóa yêu cầu
của bài tập (đối với học sinh yếu, kém, trung bình) tạo điều kiện cho tất cả học
sinh đều được hoạt động hết khả năng của mình.
- Chuẩn bị các phương tiện dạy học như: phiếu bài tập, bảng để học sinh
ghi kết quả theo thảo luận nhóm…
Bước 2: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
- GV chia nhóm học sinh
Tùy theo đặc điểm của bài tập, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh
thảo luận theo những cách khác nhau như: Chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi, chia

nhóm theo hình thức ngẫu nhiên, chia nhóm theo trình độ nhận thức và mức độ
nắm vốn từ của học sinh…. Mỗi cách chia nhóm đều có ưu và nhược điểm nhất
định, khi lựa chọn giáo viên phải linh hoạt, thường xuyên thay đổi hình thức để
tránh nhàm chán cho học sinh.
- Giao nhiệm vụ thảo luận cho học sinh.
Nhiệm vụ thảo luận nhóm được cụ thể hóa trong phiếu bài tập (hoặc phiếu
giao việc) cho cả nhóm.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 1, Tuần 4 – TV2, tập 1 – trang 35, Mở rộng vốn từ:
Từ chỉ sự vật, GV sử dụng phiếu thảo luận:
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, nói cho bạn nghe và nghe bạn nói các từ theo mẫu
trong bảng sau rồi ghi vào bảng trong thời gian 2 phút:
Chỉ người
M: học sinh
………….

Chỉ đồ vật
M: ghế
…………..

Chỉ con vật
M: Chim sẻ
…………..

Chỉ cây cối
M: Xoài
…………..

Ví dụ 2: Ở bài tập 1, Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về Bác Hồ, Tuần 30, TV2 –
Tập 2 – Trang 104, ta có thể hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm theo phiếu

học tập sau:
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, trong thời gian 2 phút, tìm các từ:
a. Nói lên tình cảm của Bác Hồ đối với thiếu nhi ………………………..
.……………………………………………………………………………
b. Nói lên tình cảm của Bác Hồ đối với thiếu nhi ………………………..
……………………………………………………………………………
- Học sinh thảo luận nhóm
Trong bước này, học sinh thực hiện các yêu cầu của phiếu bài tập, giáo
viên quan sát hướng dẫn và giúp đỡ các nhóm khi cần thiết, đảm bảo mọi nhóm
đều thảo luận sôi nổi, hiệu quả.
- Các nhóm báo cáo kết quả.
Trong thời gian các nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tạo điều kiện cho các
nhóm khác nhận xét, bổ xung để đi đến kết quả thảo luận cuối cùng của lớp.
5


- Giáo viên tổng kết, chốt lại kiến thức cần nhớ sau khi thảo luận nhóm và
tuyên dương những nhóm, cá nhân tiêu biểu, nhắc nhở những nhóm, những cá
nhân chưa tích cực để lần sau các em cố gắng hoạt động hiệu quả hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm nhằm hình thành năng lực giao tiếp, kỹ năng
hợp tác, khả năng suy nghĩ độc lập. Với phương pháp này, học sinh được học
từ bạn và tất cả các em đều được tham gia hoạt động giao tiếp. Tôi đã vận dụng
những ưu điểm của phương pháp dạy học này như một biện pháp làm giàu vốn
từ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao
tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ.

Thảo luận nhóm 4, bài: Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về Bác Hồ.
TV2 – Tập 2, trang 104
Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi học tập giúp học sinh mở rộng vốn từ

Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và
chủ yếu là vui chơi, giải trí và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng.
Nhưng qua trò chơi, người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội
giao lưu với mọi người cùng hợp tác với mọi người, cùng hợp tác với đồng
đội trong nhóm, tổ.
Ở bậc tiểu học cũng như các bậc học khác, sử dụng trò chơi trong quá
trình học tập làm cho việc tiếp thu tri thức, rèn luyện kỹ năng, củng cố tri thức
bớt đi sự khô khan, có thêm sự sinh động, hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của
học sinh tăng lên.
Trong giờ mở rộng vốn từ, học sinh phải thực hiện các nhiệm vụ để làm
giàu vốn từ cho mình. Nếu giáo viên chỉ sử dụng một phương pháp cho cả tiết
học thì hiệu quả giờ học không cao, học sinh thụ động, lười suy nghĩ. Sử dụng
trò chơi học tập là phương pháp dạy học tích cực. Từ đó làm thay đổi không
khí trong lớp học, tạo ra sự thi đua sôi nổi, hào hứng của các đội chơi và sự cổ
vũ nhiệt tình của các bạn trong lớp. Nhờ có trò chơi học tập, học sinh hứng thú
hơn với việc học từ ngữ trong các bài tập mở rộng vốn từ, làm giảm bớt đi sự
khô khan của bài học, học sinh tiếp thu từ và nghĩa của từ nhanh, phân loại,
quản lý vốn từ đúng, sử dụng từ chính xác, linh hoạt.
6


Thứ nhất: Trò chơi ghép nhanh tên sự vật
Ví dụ 1: Tìm những từ chỉ sự vật( người, đồ vật, con vật, cây cối,..) được vẽ
dưới đây. (bài tập 1 tuần 3, TV2 – Tập 1, trang 26)
Ví dụ 2: Các tranh dưới đây vẽ một số hoạt động của người. Hãy tìm từ chỉ
mỗ hoạt động đó. (Bài tập 2 tuần 7, trang 59, TV2 –Tập 1)
Ví dụ 3: Hãy nêu tên các con vật có trong hình (Bài tập 3 tuần 16 trang
134, TV 2, tập 1).
a. Đối với dạng bài này, giáo viên chuẩn bị 2 bộ đồ dùng để chơi: mỗi bộ
gồm 1 số đồ vật thật hoặc tranh ảnh đại diện cho nghĩa của từ được nêu trong

sách giáo khoa Tiếng Việt 2, các thẻ từ (bìa giấy) ghi tên các đồ vật (tranh ảnh)
- Giáo viên hoặc một học sinh là trọng tài để đánh giá kết quả.
b. Cách thực hiện:
- Chơi theo từng cặp 2 học sinh hoặc 2 nhóm học sinh (mỗi nhóm từ 2 đến 4
người chơi - Các đồ vật hoặc tranh ảnh đã được sắp xếp hoặc treo thành 2 nhóm.
Mỗi học sinh (hoặc mỗi nhóm) tham gia trò chơi được phát một bộ thẻ từ ghi tên
các đồ vật (tranh ảnh). Học sinh (hoặc nhóm) nào dán đúng và nhanh nhất các tên
(từ) vào đồ vật hoặc tranh thích hợp thì thắng cuộc.
Thứ hai: Trò chơi tìm nhanh từ cùng chủ đề
a. Mục tiêu
- Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh
- Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh
b. Chuẩn bị: bảng phụ hoặc giấy nháp
c. Cách tiến hành
Trò chơi có từ 2 đến 4 nhóm, mỗi nhóm có từ 2 đến 4 học sinh tham gia.
- Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên chủ đề (ví dụ: đồ dùng
học tập là những dụng cụ của cá nhân dùng để học tập hoặc vật nuôi là những
con vật nuôi trong nhà...), giáo viên nêu yêu cầu:
+ Hãy kể ra những từ gọi tên đồ dùng học tập ( hoặc những từ nói về tình
cảm gia đình..)
+ Từng nhóm ghi lại những từ đó vào bảng phụ hoặc ghi vào giấy nháp để
đọc lên. Thời gian viết khoảng 2-3 phút.
Thứ ba: Trò chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Trò chơi này giúp học sinh nhận biết nhanh các từ ngữ đồng nghĩa, làm giàu
vốn từ ngữ của học sinh. Trò chơi này được dùng khi dạy về chủ đề học tập tuần
2, TV 2, tập 1.
a. Chuẩn bị
- Từ 2 đến 4 bộ quân bài có nội dung như nhau, nhưng khác màu để khỏi lẫn
(xanh, đỏ, vàng...), tương tự quân bài trong cỗ tam cúc. Mỗi bộ có 10 hoặc 12
quân bài đã ghi sẵn các từ.

- 1 bộ quân bài dành cho người cầm cái (trọng tài) khác màu với mỗi bộ
quân bài của người chơi. Trên mỗi quân bài này có ghi từng từ đồng nghĩa với từ
được ghi trên quân bài của người chơi.
- Mỗi quân bài đều được ghi ở cả hai đầu để người chơi dễ nhìn khi cầm bài
trên tay.
b. Cách tiến hành
7


Để thực hiện trò chơi cần thực hiện qua 4 bước sau:
Bước 1: Giới thiệu tên và mục đích của trò chơi: mục đích của trò chơi là
học sinh thi tìm từ đồng nghĩa
Bước 2: chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm 2-4 học sinh. Quản trò là
giáo viên và hai học sinh giúp giáo viên làm trọng tài.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh chơi:
- Từ 2 đến 4 người chơi. Mỗi người có 1 bộ quân bài như nhau (10, 12 quân)
- Trọng tài lật 1 quân bài của mình (có từ đồng nghĩa với từ trong bộ bài của
người chơi). Những người chơi phải chọn thật nhanh quân bài của mình có từ
đồng nghĩa với quân bài của trọng tài để đánh ra.
- Trọng tài công nhận quân bài đánh ra là từ đồng nghĩa thì người đánh quân
bài đó đã "ăn", nếu sai thì người đánh quân bài đúng tiếp theo sẽ được "ăn ".
Trường hợp 2 - 3 người cũng ra quân bài đúng thì cũng được “ăn".
- Đánh hết bộ quân bài, ai có số lượng quân bài được "ăn" nhiều nhất sẽ
thắng cuộc. Như vậy, người thắng cuộc nhận ra nhanh, đúng từ đồng nghĩa.
Bước 3: Học sinh thực hiện trò chơi
Bước 4: giáo viên thay mặt cho tổ trọng tài công bố nhóm tìm được nhiều từ
đúng và chính xác nhất, rồi tuyên dương nhóm tìm được nhiều từ đúng và nhanh.
Các cặp từ đồng nghĩa nói về chủ đề học tập dùng làm bộ bài để chơi và bộ
bài để cầm cái: học tập - học hành, siêng năng - chăm chỉ, vui vẻ - phấn khởi,
giảng dạy - dạy dỗ, bài tập - bài vở, chăm chú - chú ý, lễ phép - lễ độ, thông minh

- sáng dạ, vâng lời - nghe lời, kiên nhẫn - kiên trì....
Thứ tư: Trò chơi tìm nhanh từ trái nghĩa
Mục tiêu: Học sinh nhận biết nhanh từ trái nghĩa, làm giàu vốn từ của học
sinh luyện trí thông minh, nhanh mắt nhanh tay
Cách chuẩn bị và cách chơi giống như cách chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Áp dụng trò chơi này khi dạy bài 1 tuần 16: Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ
sau: tốt, nhanh, ngoan, trắng, cao, khỏe ( TV2, tập 1, trang 133)
Các cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động, tính chất dùng làm bộ bài để chơi: tốt xấu, ngoan - hư, nhanh - chậm, trắng - đen, cao - thấp, khỏe - yếu, đẹp - xấu,
ngắn - dài...
Thứ năm: Trò chơi thi đoán từ
a. Mục tiêu: Trò chơi này giúp cho học sinh có kĩ năng đoán nhanh một từ
khi biết nghĩa hoặc một số dấu hiệu hình thức của từ đó. Củng cố về nghĩa từ và
mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh.
b. Để thực hiện trò chơi này cần chuẩn bị:
- Một số câu đố về từ. Mỗi phiếu ghi một câu đố theo thứ tự 1, 2, 3...làm các
bộ phiếu giống nhau đủ cho số nhóm chơi, phiếu khổ to ghi sẵn kết quả các từ
(ghi theo số thứ tự trong phiếu câu đố), giấy, bút để ghi kết quả.
- Giáo viên cùng 2, 3 học sinh làm trọng tài, ghi số sao của các nhóm tham
gia chơi.
8


c. Cách tiến hành: Giáo viên lập 4 nhóm chơi (mỗi nhóm 4, 5 học sinh), nêu
yêu cầu:
Sau khi nhận 2 bộ phiếu ghi các câu đố về từ, các nhóm thảo luận với nhau
để giải câu đố, tìm từ và ghi kết quả vào tờ giấy của nhóm.(nhớ ghi đúng từ theo
số thứ tự trên phiếu).
- Hết 3 phút, các nhóm dừng lại, lần lượt đọc kết quả để tổ trọng tài đánh giá
(mỗi từ tìm đúng được tính 2 sao)
Ví dụ: dạy chủ đề trường học tôi có thể đưa ra các câu đố cho học sinh giải

như sau:
1. Viên màu trắng dùng để viết lên bảng.(là gì?)
2. Nơi em đến học hàng ngày. (là gì?)
3. Tờ gì mỏng dùng để viết chữ lên.(là gì?)
4. Cột gì cao trước sân trường
Chỉ mang một lá huy hoàng tung bay
Đầu tuần buổi sáng thứ hai
Cả trường, cả lớp ai ai cũng chào?
( là gì?)
Thông qua trò chơi học tập, học sinh được phát triển cả về trí tuệ, thể lực,
nhân cách giúp học sinh phát triển về ngôn ngữ, mở rộng được nhiều vốn từ, rèn
cho học sinh tính nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh, làm
giảm tính chất căng thẳng của giờ học. Tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Trò chơi học tập rất hấp dẫn đối với học sinh. Tuy nhiên, giáo viên không
nên lạm dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi gây nhàn chán
đối với học sinh. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ về điều kiện vật chất
và cách thức thể lệ chơi. Trong lúc chơi, giáo viên cần hướng dẫn, động viên
hoàn thành tốt bài tập, tạo sự hưng phấn, thích thú trong tiết học. Tổ chức trò
chơi trong giờ mở rộng vốn từ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: thời gian
ngắn, nội dung kiến thức thay đổi theo từng bài học… Vì vậy, tổ chức trò chơi
phải linh hoạt, khéo léo, không làm ảnh hưởng đến thời gian và đảm bảo chất
lượng dạy học.

Trò chơi: “Em biết tuốt” Mở rộng vốn từ về . (Bài tập 2, TV2, tập 1, trang 137)
9


Biện pháp 3: Vận dụng hợp lý và linh hoạt các hình thức thi đua,
khen thưởng nhằm khuyến khích học sinh mạnh dạn, chủ động, sáng tạo
trong giờ học theo tinh thần hợp nhất giữa Thông tư 22 và Thông tư 30.

Thi đua gắn với khen thưởng là một động lực không thể thiếu được
trong quá trình học của học sinh. Hình thức thi đua, khen thưởng rất phù hợp
với đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học. Các em cố gắng phấn đấu vì động
cơ rất đơn giản: Cố gắng để được tích sao, được cô giáo khen, được bạn bè
mến phục, cố gắng để làm vui lòng ông bà, bố mẹ… Trong giờ học mở rộng
vốn từ, nhờ không khí thi đua, học sinh sôi nổi hơn, hăng say hơn, khen
thưởng giờ mở rộng vốn từ là sự công nhận kết quả mà học sinh đạt được
(Học sinh tìm ra từ mới, phát hiện ra nghĩa mới câu từ, đặt được câu hỏi, đoạn
văn hay …). Nếu được khen đúng lúc, học sinh sẽ cảm thấy tự tin và phấn đấu
hơn. Hiện nay, giáo viên ít sử dụng khen thưởng nên giờ học trầm, không sôi
nổi và chất lượng dạy học vốn từ cũng bị hạn chế do lý do này.
- Trong quá trình dạy mở rộng vốn từ tôi đã vận dụng phương pháp thi
đua, khen thưởng như sau:
+ Trước khi vào bài học hay trước khi tổ chức một trò chơi học tập, giáo
viên nêu tiêu chí thi đua rõ ràng, cụ thể để tạo tâm thế thi đua cho học sinh.
Ví dụ:
Thi đua xem bạn nào tìm được nhiều từ mới sẽ được tích thêm sao vào
sổ thi đua.
Thi đua xem nhóm nào thảo luận sôi nổi, hoàn thành bài tập đúng và
nhanh sẽ được cộng thêm sao cho cả nhóm.
Thi đua giữa các tổ về mọi mặt: nề nếp, ý thức, hiệu quả thảo luận…
- Hình thức khen thưởng đưa ra phải mang tính cụ thể, chủ yếu về mặt
tinh thần để khuyến khích học sinh: tích sao, 1 tràng vỗ tay,…
- Trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần kịp thời khen những cá nhân tiêu biểu
xuất sắc và những cá nhân có tiến bộ vượt bậc theo từng nhóm đối tượng học
sinh trong tiết học. Từ đó học sịnh cả lớp có thể noi gương để phấn đấu, phấn
đấu để được cô giáo khen và phấn đấu để không kém bạn bè.
- Tuy nhiên, trong một tiết học, không phải mọi học sinh đều có tinh
thần thi đua để học tốt, vẫn có một số học sinh ít chú ý vào bài học. Vì vậy,
bên cạnh việc sử dụng biện pháp khen thưởng, giáo viên phải sử dụng hình

thức nhắc nhở đối với học sinh không chú ý xây dựng bài. Việc nhắc nhở phải
nghiêm khắc và công minh để các em nhận ra khuyết điểm và quyết tâm sửa
chữa để tiến bộ cùng bạn bè.
Trong giờ mở rộng vốn từ nói riêng và tất cả các giờ học khác nói chung,
giáo viên phải luôn tạo được không khí thi đua sôi nổi, hào hứng trong giờ
học.Khi học sinh đạt thành tích, giáo viên cần khen thưởng kịp thời để khuyến

10


khích, động viên các em. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, giáo viên không
lạm dụng quá nhiều gây nhàm chán đối với học sinh.

Học sinh được khen thưởng trong tháng 3
Biện pháp 4: Sử dụng đồ dùng trực quan để hệ thống và làm giàu vốn
từ cho học sinh
a. Đối với bài hệ thống hóa vốn từ
Hệ thống hóa vốn từ là yêu cầu học sinh tìm từ hoặc phân loại từ theo một
dấu hiệu chung nào đó. Do đó, đối với dạng bài tập này ngoài việc dựa vào các
ví dụ mẫu trong sách giáo khoa để hướng dẫn học sinh tìm từ thì giáo viên có
thể sử dụng những đồ dung trực quan nhằm gợi ý, định hướng cho học sinh
trong việc tìm từ, hệ thống hóa vốn từ.
Ví dụ 1: Kể tên các loài cây mà em biết theo nhóm:
- Cây lương thực, thực phẩm.
M: lúa
- Cây ăn quả
M: cam
- Cây lấy gỗ
M: lim
- Cây bóng mát

M: phượng
- Cây hoa
M: cúc
( TV2, tập 2, trang 87)
Làm bài tập trên, mặc dù đã có những từ mẫu (còn gọi là từ điểm tựa), để
giúp HS hiểu rõ yêu cầu bài tập. Nhưng đối tượng HS yếu thường lúng túng khi
kể tên cũng như phân loại cây theo nhóm. Vì thế, giáo viên chuẩn bị tranh ảnh
một số loại cây để giúp HS nhớ tên gọi từ đó có cơ sở xếp vào các nhóm theo
yêu cầu bài.

11


Ví dụ 2: Hãy giải nghĩa từng từ dưới đây bằng từ trái nghĩa với nó: trẻ
con, xuất hiện, cuối cùng, bình tĩnh.(TV2, Tập 2, trang 137)
Nếu từ cho sẵn có nghĩa trừu tượng, khó nhận biết, để trợ giúp hoạt động
tìm từ của học sinh, giáo viên giải thích nghĩa của từ cho sẵn và nêu một số
ngữ cảnh điển hình, trong đó có sử dụng từ cho sẵn ấy. Bên cạnh đó nếu thấy
nhóm học sinh nào còn lúng túng, giáo viên có thể dụng đồ dùng trực quan để
hỗ trợ thêm cho các em.
Đối với dạng bài tập trên, học sinh thường lúng túng khi tìm từ trái nghĩa
với từ bình tĩnh để giải nghĩa. Vì thế tôi sưu tầm tranh có thể hiện hoạt động
của người (đang cuống quýt, hốt hoảng...), cho học sinh quan sát tranh, đặt câu
hỏi gợi mở để các em nêu được nội dung tranh, tìm được từ cuống quýt, hốt
hoảng.... Như vậy, thông qua tranh ảnh trực quan, tôi đã giúp các em giải nghĩa
từ bằng từ trái nghĩa với nó một cách rất dễ dàng và hiệu quả.
b. Đối với dạng bài sử dụng vốn từ
Mục đích cuối cùng của việc dạy từ là để HS sử dụng được từ trong hoạt
động nói năng. Ta biết rằng, có một số lượng từ rất lớn HS hiểu được nghĩa
nhưng chúng không đi vào vốn từ tích cực, không được học sinh sử dụng trong

giao tiếp của mình. Chính vì vậy, dạy sử dụng từ rất quan trọng. Nhiệm vụ cơ
bản của dạy từ ngữ là chuyển vốn từ tiêu cực của học sinh thành vốn từ tích
cực. Thế nhưng, không phải đối tượng HS nào cũng làm được điều đó. Vì thế,
tôi nghiên cứu sử dụng đồ dùng trực quan để giúp các đối tượng HS yếu sử
dụng từ một cách hợp lí.
Ví dụ 3: Đặt câu với từ em vừa tìm được ở bài tập 1( yêu quý, biết ơn)

Hình ảnh minh họa: Bài: Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về Bác Hồ.
TV2 - Tập 2, trang 104
Với dạng bài tập đặt câu nêu trên, HS thường lúng túng khi đặt câu, tôi
sẽ dùng tranh gợi ý các em đặt câu dựa vào nội dung tranh (để đặt câu với từ
thương yêu tôi dùng tranh 1, TV2, tập 2 trang 100, đặt câu hỏi gợi mở: Bác
Hồ cùng các em thiếu nhi đang làm gì? Qua tranh, các em thấy tình cảm của
Bác Hồ với các cháu thiếu nhi như thế nào? Tương tự, để đặt câu với từ:
“biết ơn” tôi dùng tranh 2, TV2, trang 104: Các em thấy, các bạn trong tranh
đang làm gì? Các bạn thiếu nhi dâng hoa ở lăng Bác thể hiện điều gì?). Như
12


vậy với câu hỏi gợi mở cùng tranh hỗ trợ các em đã có thể đặt được câu với
từ yêu quý, biết ơn.
Ví dụ 4 : Bài: Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về loài thú. Dấu chấm, dấu phẩy,
TV2, tập 2, trang 55
Hãy chọn tên con vật thích hợp với mỗi chỗ trống dưới đây:
a/ Dữ như…
c/ Khỏe như…
b/ Nhát như….
d/ Nhanh như….
( thỏ, voi, hổ (cọp), sóc)
Đối với các bài tập này, đối tượng HS yếu còn lúng túng tôi tung một số

tranh ảnh có thể hiện đặc điểm, hoạt động các con vật (tranh vẽ voi đang kéo
gỗ, hổ đang vồ bắt thú, chú sóc đang chuyền cành, chú thỏ đang nấp vào bụi
rậm tránh các con vật dữ). Như vậy, từ những hình ảnh trên đã giúp học sinh
có cơ sở sử dụng từ để điền từ đúng tạo thành những câu thành ngữ thích hợp
trên cơ sở thấy được đặc điểm của các con vật.
Biện pháp 5: Hình thành và bồi dưỡng ý thức tự làm giàu vốn từ cho
học sinh.
- Theo quan điểm của giáo dục học, tự học là quá trình tự mình hoạt động
lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành không có sự hướng
dẫn trực tiếp của cơ sở giáo dục. Tự học có thể bằng cách đọc tài liệu, sách
giáo khoa, nghe đài, xem truyền hình, thăm bảo tàng, triển lãm…
- Tự học gắn liền với tự ý thức và tự giáo dục. Ở học sinh tiểu học, tự ý
thức và tự giáo dục của các em đang hình thành và phát triển. Do vậy, tự học
của học sinh tiểu học khác với tự học của các cấp học trên (THCS, THPT) về
yêu cầu, mức độ, phạm vi… Tự học của học sinh tiểu học chỉ giới hạn ở việc
trẻ tự giác hoàn thành các nhiệm vụ học tập được giao (làm các bài tập về nhà,
chuẩn bị để học bài mới…). Dù trực tiếp hay gián tiếp, hoạt động tự học của
học sinh tiểu học đều có sự hướng dẫn của giáo viên. Tự học của học sinh tiểu
học không những diễn ra ở nhà mà diễn ra ngay trong lớp học với hình thức
dạy học cá nhân trên lớp. Ở hình thức dạy học này, học sinh thực hiện theo nội
dung, cách thức và tiến độ khác nhau tùy thuộc vào năng lực cá nhân, dưới sự
hướng dẫn của giáo viên.
- Trên cơ sở đó, tự làm giàu vốn từ có thể hiểu là quá trình học sinh tự
mình lĩnh hội vốn từ, tự mình tìm hiểu nghĩa của từ, phân loại quản lý vốn từ
và vận dụng từ vào trong hoàn cảnh giao tiếp.
- Đối với học sinh lớp 2, tự làm giàu vốn từ có thể bao gồm các công việc
sau: Học sinh tự giác hoàn thành các bài tập trong giờ mở rộng vốn từ, hoàn
thành các nhiệm vụ giáo viên giao, có thắc mắc và có ham muốn tìm hiểu
những từ mình chưa rõ nghĩa, chưa biết sử dụng, thường xuyên đọc và tra từ
điển để tăng thêm vốn từ và hiểu nghĩa của từ…

- Để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh tôi đã thực hiện sau:
Hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự làm giàu vốn từ: Giáo viên giao
nhiệm vụ cho học sinh. Khi giao nhiệm vụ, giáo viên phải đảm bảo tất cả các
học sinh đều nhớ và hiểu rõ nhiệm vụ được giao, bao gồm: Ôn lại các từ và
13


nghĩa vừa học của bài trước, làm các bài tập trong sách giáo khoa, chuẩn bị
quan sát, tìm từ để học bài mới… Giao thêm cho học sinh có năng khiếu các
nhiệm vụ học tập khó hơn, đòi hỏi các em phải có sự cố gắng nhiều hơn.
Hướng dẫn học sinh cách đọc bài, làm bài và sử dụng thời gian tự học.
Khi học bài: Trước khi học bài, học sinh phải nhớ lại bài giáo viên đã
giảng trên lớp (Bài học chủ đề gì? Những từ đã học là từ gì? Nghĩa của từ đó là
gì? Sử dụng từ đó như thế nào?...) Tập trung suy nghĩ để hiểu bài, nhớ lâu từ và
nghĩa của từ trong bài. Tập vận dụng những từ vừa học dưới hình thức: Tìm
thêm ví dụ, liên hệ đối chiếu với các từ trong nhóm và với các từ khác, đưa từ
vào trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể trong cuộc sống của mình.
Khi làm bài: Đọc kỹ đề bài, làm bài ra giấy nháp, sửa chữa cho chính xác
rồi mới viết vào vở. Nếu gặp những từ chưa hiểu rõ nghĩa học sinh phải tự tra
từ điển hoặc hỏi người lớn để hiểu nghĩa.
Trong khi học bài, làm bài, học sinh phải tập thói quen cẩn thận, chắc
chắn, thực hiện đến nơi đến chốn các nhiệm vụ được giao và bố trì thời gian tự
học hợp lí. Trong buổi tự học, cần giành thời gian để ôn bài vừa học, làm các
bài tập, chuẩn bị cho bài ngày hôm sau.
Thứ nhất: Tập cho học sinh thói quen dựa vào sức mình là chính.
Trong bất kỳ kình thức hoạt động nào, dù hoạt động độc lập hay thảo luận
nhóm, học sinh cũng đều phải có ý thức dựa vào bản thân mình là chính. Học
sinh phải tích cực suy nghĩ để tìm từ theo chủ đề, tìm ra dấu hiệu chung của các
từ để thực hiện nhiệm vụ phân loại và quản lí vốn từ … Giáo viên chấn chỉnh
ngay những học sinh có thói quen ỉ lại, dựa dẫm vào các bạn khác trong lớp,

không tích cực học tập, suy nghĩ, thụ động đón nhận tri thức có sẵn.
Thứ hai: Đa dạng hóa các hình thức làm giàu vốn từ.
Hoạt động tự học làm giàu vốn từ của học sinh được tiến hành dưới nhiều
hình thức khác nhau như: Tự học cá nhân, tự học theo nhóm, tự học trên lớp, tự
học ở nhà… Đối với đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 2, khả năng tự học của
các em đã dần dần được hình thành cho nên trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp
dụng tất cả các hình thức tự học trên. Ngoài ra, tôi còn hướng dẫn cho từng cặp
học sinh tự học theo hình thức nhóm đôi. Xây dựng “Đôi bạn cùng tiến” thi đua
và giúp đỡ nhau học tập trên lớp và ở nhà. Nhờ hình thức này, học sinh trao đổi
với nhau các vấn đề liên quan đến từ và vốn từ. Qua quá trình thực hiện tôi
thấy hình thức này đã mang lại hiệu quả tích cực.
Thứ ba: Tăng cường kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của học sinh.
Khi giao bất kỳ nhiệm vụ gì cho học sinh, giáo viên đều phải kiểm tra,
đánh giá, xem xét học sinh có thực hiện không? Kết quả thực hiện như thế nào?
Nếu giao nhiệm vụ tự học, giáo viên không kiểm tra, đánh giá thì học sinh sẽ
dễ dàng bỏ qua nhiệm vụ được giao.
Có thể kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ tự học của học sinh
thông qua các hình thức củng cố kiến thức bài học trước, kiểm tra vở bài tập
hoặc nêu ngay câu hỏi để học sinh trả lời ngay đối với học sinh đang học
trên lớp.
14


Tóm lại, tăng cường tự học làm giàu vốn từ là một trong những con đường
để nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh. Đồng
thời cũng hình thành và phát triển bước đầu cho học sinh năng lực tự học.
Như vậy, trong quá trình dạy học mở rộng vốn từ tôi đã áp dụng 5 biện
pháp trên để làm giàu vốn từ cho học sinh. Các biện pháp này có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Để tìm được các từ theo chủ điểm, phát huy khả năng giao
tiếp và vốn sống của học sinh, tôi dùng biện pháp thảo luận nhóm. Để học sinh

hứng thú hơn trong việc học, tôi sử dụng hình thức thi đua, khen thưởng. Để
thay đổi hình thức dạy học, tôi dùng trò chơi trong giờ học. Đồng thời, không
phải khi nào giáo viên cũng tổ chức thảo luận nhóm hoặc trò chơi học tập, sẽ
có thời gian học sinh phải độc lập làm bài tập cá nhân nên giáo viên luôn phải
nhắc nhở học sinh ý thức tự học và hướng dẫn học sinh phương pháp tự làm
giàu vốn từ.
Sau đây, tôi xin trình bày một kế hoạch bài học minh họa cho sáng kiến:
Luyện từ và câu
TỪ NGỮ VỀ SÔNG BIỂN. DẤU PHẨY
I. MỤC TIÊU:
- Nhận biết được một số loài cá nước mặn, cá nước ngọt (BT1); kể tên
được một số con vật sống dưới nước (BT2).
- Biết đặt dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu còn thiếu dấu phẩy (BT3).
- Nắm bắt, hiểu biết về các loài vật sống dưới nước để vận dụng vào cuộc
sống hằng ngày.
- Hình thành kĩ năng bảo vệ môi trường.
II. CHUẨN BỊ:
1. Phương pháp dạy học:
- Phương pháp trực quan, thảo luận nhóm, hỏi – đáp, trò chơi học tập, cá
thể hóa, đóng vai.
2. Đồ dùng dạy học:
- Bài giảng trình chiếu điện tử, bảng thông minh cho HĐ1, băng giấy cho
BT3, bông hoa thưởng.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC:
* Khởi động (1’): Bài hát “ Bé yêu biển lắm”
Hoạt động 1: Củng cố kiến thức (4’):
- GV chọn một dãy bàn (hàng dọc) cho học sinh đứng dậy nối tiếp nhau nói
ra các từ chứa tiếng biển. HS nào đến lượt mà không nói được sẽ thua cuộc.
- GV dựa vào bài chính tả “Vì sao cá không biết nói?” đặt câu hỏi: Theo
người anh, vì sao cá không biết nói?

- HS trả lời. GV và cả lớp nhận xét và tuyên dương HS trả lời đúng.
2. Bài mới (25’):
* Giới thiệu bài: GV giới thiệu mục tiêu bài và ghi tựa đề.
Hoạt động 2: Bài tập 1: Xếp các loài cá theo nhóm
15


* Mục tiêu: HS phân biệt được các loại cá nước mặn và nước ngọt trong
cuộc sống.
- 2 HS đọc yêu cầu của đề bài.
- HS quan sát trên màn hình và nối tiếp nhau đọc tên các loài cá có trong hình.
- GV chia nhóm và tổ chức cho HS thảo luận theo nhóm 4 phân biệt các
loại cá nước mặn và nước ngọt theo 2 nhóm rồi gắn trên bảng.
- Nhóm nào nhanh nhất sẽ được dán trên bảng, các nhóm còn lại sẽ để ở vị
trí của nhóm mình.
- Nhóm nào làm xong có thể tìm thêm các loài cá nước mặn và nước ngọt
mà em biết.
- Các nhóm cử nhóm trưởng và tiến hành thảo luận
- Nhóm báo cáo kết quả, nhóm khác nhận xét và bổ sung. GV nhận xét và
tuyên dương những nhóm làm việc tích cực.
Hoạt động 3: Bài tập 2: Kể tên các con vật sống dưới nước.
* Mục tiêu: HS vận dụng vốn sống, vốn hiểu biết của mình nêu tên các con
vật sống dưới nước.
- 2 HS đọc đề bài.
- HS làm bài cá nhân.
- GV tổ chức cho HS chơi trò chơi: “TIẾP SỨC” giữa đội Nam và đội Nữ
để sửa bài.
- GV nêu cách chơi. HS tham gia chơi.
- Cả lớp nhận xét.
+ GV hỏi thêm HS năng khiếu về các con vật mà em đã nêu (hình dạng,

cách sống).
- GV tuyên dương đội giành chiến thắng là nhóm viết đúng, nhanh và
nhiều tên các loài vật nhất.
- GV chốt ý chính và chuyển sang bài tập 3.
Hoạt động 4: Bài tập 3: Điền dấu phẩy
*Mục tiêu: Củng cố và hoàn thiện kĩ năng sử dụng dấu câu (dấu phẩy) cho
học sinh.
- HS đọc yêu cầu đề bài.
- GV hỏi: Khi nào ta dùng dấu phẩy?
- HS trả lời.
- HS làm bài cá nhân, 1 bạn làm vào băng giấy mà GV đã chuẩn bị.
- GV và HS chốt lại đáp án đúng. 1 HS đọc lại đoạn văn.
Hoạt động nối tiếp: (5’)
- GV tổ chức trò chơi: Tôi là ai?
- GV nêu cách chơi: Mỗi tổ cử 1 bạn lên đóng vai một con vật dưới nước
để nói về hình dạng, cách sống và cách bảo vệ con vật đó.
- GV và HS tuyên dương bạn sắm vai tốt nhất.
- GV giáo dục ý thức bào vệ môi trường .
- GV nhận xét tiết học.
16


2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:
- Nhờ áp dụng nhiều biện pháp nên vốn từ của học sinh ngày càng phong
phú và bền vững, học sinh có thể huy động nhanh từ theo chủ đề khi giáo viên
yêu cầu hoặc khi viết đoạn văn.

Đoạn văn kể về ông (hoặc bà) của em.
- Học sinh thích làm bài tập hơn, hào hứng với trò chơi học tập, thảo luận
nhóm sôi nổi, tự mình khám phá ra từ mới, nắm nghĩa từ, sử dụng từ. Vận dụng

các biện pháp làm giàu vốn từ đã đề xuất làm cho lớp học sôi nổi hơn nhiều.
Kết quả khảo sát cuối tháng 3 của lớp 2A (sử sụng biện pháp làm giàu vốn
từ cho học sinh) và lớp 2B (không sử sụng biện pháp làm giàu vốn từ cho học
sinh):
HTT
HT
CHT
Tổng
Lớp
số HS
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2A
34
22
69,1%
10
29 %
1
2,9 %
2B

34

11


33,3%

18

52,2%

5

14,5%

Thông qua bảng thống kê, ta thấy chất lượng học sinh giữa hai lớp có sự
khác biệt rõ rệt. Điều đó chứng tỏ tính đúng đắn và hiệu quả của các biện pháp
làm giàu vốn từ cho học sinh mà tôi đã và đang áp dụng.
3. Kết luận và kiến nghị.
3.1 Kết luận:
Sau khi áp dụng các biện pháp làm giàu vốn từ và đạt được một số kết quả
như trên, tôi nhận thấy việc làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 sẽ giúp các em
có kĩ năng sử dụng từ để giao tiếp một cách thường trực. Ngoài ra, các em còn
có thể lựa chọn trong vốn từ của mình những từ ngữ gợi tả, gợi cảm để viết
những câu văn hay, sinh động, giàu hình ảnh.
3.2 Kiến nghị:
- Giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực
để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu như: thảo luận
nhóm, trò chơi học tập và biện pháp thi đua khen thưởng. Bên cạnh đó, giáo
viên cần tự trau dồi vốn từ cho mình để có những hiểu biết sâu sắc về các
nhiệm vụ làm giàu vốn từ ở tiểu học.
17


- Ban giám hiệu nhà trường tham mưu cho cấp trên mua sắm các trang

thiết bị hiện đại phục vụ tốt cho việc dạy học, tổ chức các câu lạc bộ Tiếng Việt
để học sinh được giao lưu và học hỏi lẫn nhau.
- Các cấp quản lý giáo dục cần tổ chức thêm các chuyên đề Tiếng Việt để
tất cả giáo viên được học hỏi thêm kinh nghiệm về cách làm giàu vốn từ cho
học sinh.
Trên đây là một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông
qua phân môn Luyện từ và câu mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng vào công tác
giảng dạy trong năm học. Tuy đã cố gắng nhưng không tránh khỏi những thiếu
sót. Bản thân rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của các đồng nghiệp và cấp
lãnh đạo.

18


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung
của người khác

MẠC THỊ THANH

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD & ĐT - Sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tập 1 - Nguyễn Minh Thuyết
2.

3.
4.
5.
6.
7.

(chủ biên) – NXB GD Việt Nam.
Bộ GD & ĐT - Sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tập 2 - Nguyễn Minh Thuyết
(chủ biên) – NXB GD Việt Nam.
Bộ GD & ĐT - Sách giáo viên Tiếng Việt 2, tập 1 - Nguyễn Minh Thuyết
(chủ biên) – NXB GD Việt Nam.
Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học II- Lê Phương Nga - Nhà
xuất bản Đại học Sư phạm
Phương pháp dạy học các môn ở Tiểu học- Nguyễn Hữu Châu- Nhà xuất
bản Giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Chuyên đề Giáo dục Tiểu học – Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học – Nhà
xuất bản Giáo dục (tập 33, 35).
Sử dụng các tư liệu, hình ảnh trên Internet.

20



×