Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp theo quy định của luật sở hữu trí tuệ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.41 KB, 53 trang )

Bảng từ viết tắt

Bộ luật dân sự 1995

BLDS 1995

Bộ luật dân sự 2005

BLDS 2005

Sở hữu trí tuệ

SHTT

Sở hữu công nghiệp

SHCN

Kiểu dáng công nghiệp

KDCN

Điều ước quốc tế

ĐƯQT

Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 sửa đổi, bổ Luật SHTT
sung năm 2009

Hiệp định về khía cạnh liên quan đến thương mại của Hiệp định TRIPs
quyền sở hữu trí tuệ (được Tổ chức Thương mại thế


giới ký ngày 15/4/1994 và có hiệu lực ngày
01/01/1995)

MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
1.1.

Khái niệm kiểu dáng công nghiệp

1.2.

Phân loại kiểu dáng công nghiệp

1.3.

Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp

1.4.

Sơ lược lịch sự phát triển của pháp luật bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở
Việt Nam
1.4.1. Các quy định về kiểu dáng công nghiệp trong thời kỳ đầu
1.4.2. Sau khi Luật sở hữu trí tuệ ra đời

1.5.

Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với một số đối tượng sở hữu công

nghiệp khác
1.5.1. Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với nhãn hiệu
1.5.2. Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với sáng chế
1.5.3. Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với đối tượng của quyền tác giả

CHƯƠNG II: ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM
2.1.

Điều kiện đối với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ
2.1.1. Tính mới của kiểu dáng công nghiệp
2.1.1.1. Phải có sự khác biệt cơ bản rõ rệt với những kiểu dáng đã
bộc lộ công khai
2.1.1.2. Phải có sự khác biệt cơ bản với nhau giữa hai kiểu dáng
công nghiệp cùng loại
2.1.1.3. Phải chưa bị bộc lộ công khai
2.1.2. Tính sáng tạo của kiểu dáng công nghiệp
2.1.3. Khả năng áp dụng công nghiệp của kiểu dáng công nghiệp


2.2.

Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa kiểu dáng công nghiệp
2.2.1. Hình dáng bên ngoài của sản phẩm do đặc tính kỹ thuật bắt buộc
phải có
2.2.2. Hình dáng bên ngoài của công trình xây dựng dân dụng hoặc công
nghiệp
2.2.3. Hình dáng của sản phẩm không nhìn thấy được trong quá trình sử
dụng


CHƯƠNG III: THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN LIÊN
QUAN ĐẾN ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT
NAM
3.1.

Thực tiễn thực hiện quy định về điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
3.1.1. Thực trạng vi phạm KDCN
3.1.2. Khiếu nại cấp văn bằng bảo hộ KDCN
3.1.3. Nguyên nhân vi phạm KDCN

3.2.

Một số biện pháp bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
3.2.1. Về phía doanh nghiệp
3.2.2. Về phía nhà nước
3.2.3. Về phía người tiêu dùng

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI NÓI ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, các hoạt động xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật sở hữu
trí tuệ được bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ 20. Đến nay, Việt Nam đã có một
hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về sở
hữu trí tuệ theo đánh giá chung của quốc tế, trong đó trụ cột là Luật sở hữu trí tuệ
năm 2005. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự gia tăng đa dạng
của các loại hình sản phẩm, người tiêu dùng Việt Nam không chỉ quan tâm đến chất

lượng của sản phẩm, mà ngày càng chú trọng đến hình dáng của sản phẩm. Do vậy,
các doanh nghiệp đều mong muốn tạo ra nhiều sản phẩm với kiểu dáng công
nghiệp tối ưu, thu hút được sự quan tâm của công chúng; việc đầu tư vào nghiên
cứu triển khai áp dụng các kiểu dáng công nghiệp mới ngày một được chú trọng.
Tuy nhiên, điểm chung của các doanh nghiệp Việt Nam là hiểu biết về vấn đề sở
hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ kiểu dáng công nghiệp nói riêng chưa được
đầy đủ, dẫn đến việc các doanh nghiệp của chúng ta thường gặp nhiều khó khăn
trong cạnh tranh thương mại, nhất là ở thị trường nước ngoài.
Thực tế trong những năm gần đây, số đơn yêu cầu bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp tại Cục sở hữu trí tuệ ngày càng tăng lên đáng kể, điều đó chứng tỏ sự nhận
thức về giá trị, vai trò của kiểu dáng công nghiệp trong xã hội đã thay đổi. Tuy
nhiên, để xây dựng kiểu dáng công nghiệp đáp ứng mục đích kinh doanh của doanh
nghiệp và đáp ứng được những quy định về điều kiện bảo hộ kiểu dáng công
nghiệp lại không phải dễ dàng. Việc bảo hộ một kiểu dáng công nghiệp có thành
công hay không trước hết kiểu dáng công nghiệp đó phải đáp ứng được các điều
kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
Trước tình hình thực tế đó, tác giả chọn đề tài: “Điều kiện bảo hộ kiểu dáng
công nghiệp theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam” với mong muốn có


cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về kiểu dáng công
nghiệp, đặc biệt là các quy định về điều kiện bảo hộ đối với kiểu dáng công nghiệp,
qua đó mong đóng góp một phần nhỏ trong việc làm rõ những quy định của pháp
luật sở hữu trí tuệ về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu, đồng thời tăng cường sự
hiểu biết, sự nhận thức về những quy định đó thêm đầy đủ và đúng đắn, góp phần
giải quyết được những vấn đề của thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề kiểu
dáng công nghiệp nói chung và vấn đề bảo hộ kiểu dáng công nghiệp nói riêng. Với
đề tài: “Điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp theo quy định của Luật Sở hữu trí

tuệ Việt Nam”, khóa luận đi sâu nghiên cứu về các điều kiện để dấu hiệu được công
nhận là kiểu dáng công nghiệp, đây là một nội dung trong nhiều nội dung của vấn
đề bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở học hỏi và rút
kinh nghiệm từ những nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu với hai mục đích chính đó là:
Làm rõ những vấn đề lý luận, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá các
quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về điều kiện bảo hộ đối với kiểu dáng công
nghiệp.
Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về
điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài


Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những vấn đề mang tính lý
luận về điều kiện bảo hộ đối với kiểu dáng công nghiệp được quy định trong Luật
sở hữu trí tuệ 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung đi sâu vào nghiên cứu các quy định
của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về điều kiện bảo hộ đối với kiểu dáng công
nghiệp, đồng thời nghiên cứu những quy định về kiểu dáng công nghiệp của pháp
luật Việt Nam trong sự so sánh, đối chiếu với những quy định của điều ước quốc tế
và của pháp luật một số quốc gia trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Với đề tài: “Điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp theo quy đinh của Luật
Sở hữu trí tuệ Việt Nam”, khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
như phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về kiểu dáng công nghiệp

Chương 2: Điều kiện bảo hộ đối với kiểu dáng công nghiệp theo quy định
của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện liên quan đến điều kiện
bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP

1.1.

Khái niệm kiểu dáng công nghiệp
Là một trong các đối tượng của quyền SHTT theo Điều 2 Công ước

Stockholm 1967 về việc thành lập Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), KDCN mang
những đặc tính chung của tài sản trí tuệ - sản phẩm của sự sáng tạo, có tính chất vô
hình, dễ bị phổ biến, lan truyền.
Hiện nay, quan niệm về KDCN còn tồn tại nhiều cách hiểu với các tiêu chí
khác nhau và dưới đây là một số định nghĩa cơ bản:
Theo định nghĩa của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO): “KDCN là các khía
cạnh mang tính chất trang trí hay thẩm mỹ của sản phẩm. Kiểu dáng có thể bao
hàm các khía cạnh ba chiều, ví như hình dạng hoặc bề mặt của sản phẩm, hoặc
các khía cạnh hai chiều, ví như mẫu hoa văn, đường nét hoặc màu sắc” [5, tr9].
Theo định nghĩa trên, KDCN có thể được hiểu theo một nghĩa rất rộng.
KDCN được xác định trước hết ở tính chất trang trí hay thẩm mỹ của nó. Cùng với
đó, KDCN cũng có thể được xác định biểu hiện bên ngoài của sản phẩm và biểu
hiện đó có thể là ở không gian hai chiều như họa tiêt, đường nét, màu sắc hoặc ba
chiều như hình khối, kết cấu của sản phẩm.
Theo pháp luật Hoa Kỳ: “Kiểu dáng bao gồm các đặc tính trang trí được
thể hiện hay áp dụng trong một sản phẩm. Vì kiểu dáng được thể hiện ở hình dáng

bên ngoài nên các đối tượng bảo hộ kiểu dáng có thể là hình dạng của một sản
phẩm, là trang trí mặt ngoài của một sản phẩm, hay là sự kết hợp giữa hình dạng


và trang trí bên ngoài. Một kiểu dáng trang trí bề ngoài không thể tách rời sản
phẩm mà nó trang trí và do vậy không thể tự thân tồn tại một mình được” [3, tr13].
Như vậy theo pháp luật Hoa Kỳ, đặc tính trang trí của KDCN đã được nhấn
mạnh ngay từ đầu. Ở định nghĩa này, cũng đặt ra yêu cầu là KDCN phải luôn gắn
liền với sản phẩm, theo nghĩa đó pháp luật Mỹ loại trừ cái gọi là KDCN nhưng lại
không gắn với một sản phẩm cụ thể. Bên cạnh đó, mặc dù định nghĩa không đề cập
rõ, nhưng thông qua việc khẳng định KDCN được thể hiện ở hình dạng sản phẩm
thì cũng cho thấy rằng KDCN có thể được thể hiện ở không gian hai chiều hoặc ba
chiều.
Theo quan niệm của Nhật Bản, một KDCN không chỉ là những yếu tố thể
hiện bên ngoài của sản phẩm mà kiểu dáng còn phải đạt đến độ thẩm mỹ cao, để có
thể “là cái thông qua thị giác gợi lên một cảm xúc mỹ học” và “phải có sức hấp dẫn
đối với thị giác”. Điều 2.1 Luật kiểu dáng Nhật Bản ( luật số 125) ngày 13/4/1959,
sửa đổi bởi Luật số 220 ngày 22/12/1999 quy định: “Kiểu dáng là hình dáng bên
ngoài, hình khối, màu sắc hoặt kết hợp các yếu tố đó tạo nên ấn tượng thẩm
mỹ”[19, Article 2]. Theo nguyên gốc tiếng Anh :“Design" in this Act shall mean
the shape, patterns or colors, or any combination thereof, of an article (including a
part of an article, the same shall apply hereinafter except in Article 8), which
creates an aesthetic impression through the eye.
Theo định nghĩa của Liên minh Châu Âu: “Kiểu dáng là là hình dạng bên
ngoài của toàn bộ sản phẩm hay một phần của sản phẩm được tạo thành từ các
yếu tố đường nét, màu sắc, hình dạng và hoặc nguyên vật liệu tạo nên sản phẩm
và/hoặc các yếu tố trang trí của sản phẩm”[17, Article 1]. Theo nguyên gốc tiếng
Anh : “design” means the appearance of the whole or a part of a product resulting
from the features of, in particular, the lines, contours, colours, shape, texture
and/or materials ofthe product itself and/or its ornamentation.



Như vậy, khác với WIPO, Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu không đề cập đến
tính chất thẩm mỹ của KDCN. Trong khi đó, chỉ xác định KDCN là biểu hiện bên
ngoài của sản phẩm và liệt kê cụ thể các yếu tố hợp thành KDCN đó là đường nét,
màu sắc, hình, bố cục hay trang trí. Như thế, hiểu gián tiếp thì KDCN có thể được
biểu đạt ở dạng không gian hai chiều hoặc ba chiều.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam: Trước khi Luật SHTT 2005 ra đời,
định nghĩa KDCN xuất hiện tại Điều 784 BLDS 1995 về KDCN: “KDCN là hình
dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc
hoặc sự kết hợp của những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu
để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp”. Với định nghĩa này,
KDCN được hiểu không chỉ bao gồm những đặc điểm mang tính bản chất, mà còn
bao gồm cả những tiêu chí bảo hộ.
Đến Luật SHTT 2005, quan niệm về KDCN của Việt Nam đã có sự đổi mới
đáng kể, tại Điều 4 Luật SHTT 2005 quy dịnh: “KDCN là hình dáng bên ngoài của
sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp
những yếu tố này”, định nghĩa này khá tương đồng với quan điểm về KDCN của
các nước trên thế giới.
Từ những quan niệm về KDCN của pháp luật các nước, một KDCN được
xác định dựa trên hai yếu tố: KDCN phải là biểu hiện bên ngoài của một sản phẩm
(hình dáng, hình khối, hóa văn, mẫu trang trí hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của các
yếu tố đó…); KDCN có khả năng áp dụng vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp hoặc
thủ công nghiệp (theo quan điểm của rất nhiều nước như: Hoa Kỳ, EU, Indonexia,
Malayxia…). Các đặc điểm khác như tính mới, tính khác biệt, tính nguyên gốc chỉ
là các điều kiện để một KDCN được bảo hộ, không phải là đặc điểm của KDCN.
Một sản phẩm có đủ hai đặc điểm nêu trên, cho dù có hay không có tính mới, tính
khác biệt, tính nguyên gốc thì nó vẫn được coi là một KDCN [3, tr23]. Tuy nhiên,



để chủ sở hữu KDCN có được bảo hộ về quyền và lợi ích hay không thì tùy theo
pháp luật của mỗi quốc gia mà KDCN đó yêu cầu phải có tính mới, tính khác biệt
hay tính nguyên gốc. Đối với Việt Nam thì Luật SHTT 2005 đã có những quy định
rõ ràng về những điều kiện bảo hộ một KDCN.
Có thể thấy, mặc dù quan niệm về KDCN theo pháp luật mỗi nước còn có
điểm khác biệt, song đều đề cập đến một số đặc điểm cơ bản của một kiểu dáng
công nghiệp, làm cơ sở xây dựng các tiêu chí cho việc bảo hộ cũng như việc thực
thi quyền sở hữu KDCN trên thực tế.
1.2.

Phân loại kiểu dáng công nghiệp
Việc phân loại KDCN có ý nghĩa quan trọng đối với lý luận và thực tiễn bảo

hộ KDCN. Hiện nay, dựa vào đặc điểm, tính chất, chức năng của KDCN có thể
phân loại KDCN theo những cách dưới đây:
 Việt Nam sử dụng Bảng phân loại quốc tế KDCN của Thỏa ước Locamo để
phân nhóm sản phẩm có sử dụng KDCN. Có thể kể tên một số nhóm như Nhóm
01 Thực phẩm, Nhóm 06 Đồ đạc gia đình, Nhóm 17 Nhạc cụ, Nhóm 26 Thiết bị
và dụng cụ chiếu sáng...
 Phân loại theo hình dáng bên ngoài của sản phẩm [3, tr48]:
+) KDCN là hình dáng của sản phẩm: Với loại KDCN này thì đó chính là dáng
vẻ bề ngoài của một sản phẩm nhất định. Còn hình là toàn thể nói chung những
đường nét giới hạn của một vật trong không gian, làm phân biệt được rõ vật đó với
xung quanh. Hình dáng có thể là dạng hình phẳng hoặc dạng hình không gian ba
chiều của sản phẩm nhìn từ bên ngoài.
+) KDCN là sự kết hợp của hình dáng và họa tiết: Ở đây, biểu hiện bên ngoài
của sản phẩm gồm cả hình dáng và họa tiết, tức là bên cạnh dáng vẻ bên ngoài của


sản phẩm, thì bên ngoài sản phẩm còn được thể hiện bởi các họa tiết. Và tổng thể

hình dáng, họa tiết bên ngoài của sản phẩm đã tạo nên tính khác biệt của sản phẩm
đó.
+) KDCN là sự kết hợp của hình dáng và màu sắc: Màu sắc ở đây là màu của
bản thân sản phẩm có được do nguyên liệu được sử dụng trong thực tế hoặc màu
của thuốc nhuộm hoặc sơn phủ lên sản phẩm. Đối với loại KDCN này, bề ngoài của
sản phẩm được nhận biết thông qua dáng vẻ, hình thù bên ngoài và màu sắc được
dùng để trang trí.
+) KDCN là sự kết hợp của hình dáng, họa tiết và màu sắc: Hiện nay, cùng với
nhu cầu thẩm mỹ ngày càng tăng và trình độ sáng tạo, khả năng sản xuất công
nghiệp phát triển vượt bậc, thì loại kiểu dáng này là phổ biến. Loại KDCN này
mang trong nó tất cả các yếu tố thể hiện: hình dáng, họa tiết và màu sắc.
1.3.

Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu của

người tiêu dùng ngày càng tăng cao. Họ không chỉ quan tâm đến chất lượng sản
phẩm mà đặc biệt chú trọng đến hình thức, kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm. Nhận
biết được điều này, các doanh nghiệp đều đầu tư trí tuệ, tiền bạc và thời gian để tạo
ra những sản phẩm có KDCN tối ưu và giá trị thẩm mỹ cao thỏa mãn người tiêu
dùng. Tuy nhiên, những thành quả lao động sáng tạo này lại dễ dàng bị đánh cắp,
sử dụng. Do đó, pháp luật SHTT đã thừa nhận KDCN là một trong những đối
tượng được bảo hộ quyền SHCN. Có nhiều quan điểm khác nhau về cách định
nghĩa “bảo hộ quyền SHCN”, định nghĩa phổ biến nhất là việc Nhà nước – thông
qua hệ thống pháp luật – xác lập quyền của các chủ thể (có thể là các tổ chức hoặc
cá nhân) đối với đối tượng SHCN tương ứng và bảo vệ quyền đó, chống lại bất kỳ
sự vi phạm nào của bên thứ ba. Việc xác lập quyền SHCN được thực hiện dưới


hình thức cấp văn bằng bảo hộ cho chủ thể có quyền sở hữu đối tượng SHCN

tương ứng. [4, Tr20]
Từ định nghĩa trên thì bảo hộ KDCN có thể được hiểu như sau: Bảo hộ
KDCN là việc Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật xác lập quyền của các chủ
thể (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) đối với KDCN tương ứng và bảo vệ quyền đó,
chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của bên thứ ba. Việc xác lập quyền sở hữu KDCN
được thực hiện dưới hình thức cấp văn bằng bảo hộ cho chủ thể có quyền sở hữu
KDCN tương ứng.
Có thể thấy, Nhà nước bảo hộ KDCN cho các chủ thể dựa trên các quy định
pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và thực hiện các biện pháp
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu KDCN trong thời gian Bằng độc
quyền KDCN có hiệu lực. Bảo hộ KDCN tức là chủ sở hữu KDCN được Nhà nước
đảm bảo quyền khai thác, sử dụng KDCN khi tiến hành việc nắm giữ, khai thác, sử
dụng quyền mà không gặp phải sự vi phạm từ bên thứ ba. Hành vi vi phạm là sự
sao chép, hưởng lợi bất hợp pháp trên thành quả, sáng tạo, đầu tư của nhà sản xuất.
Việc đăng ký bảo hộ KDCN sẽ giúp cho chủ sở hữu được độc quyền khai thác, sử
dụng trong thời hạn nhất định. Bên cạnh đó, điều này còn giúp làm tăng doanh thu
và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.4.

Sơ lược lịch sự phát triển của pháp luật bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở
Việt Nam
1.4.1. Các quy định về kiểu dáng công nghiệp trong thời kỳ đầu
Trên thế giới, pháp luật về SHTT nói chung và pháp luật về KDCN nói riêng

đã có một về dày lịch sử phát triển nhưng ở Việt Nam đây vẫn còn là một lĩnh vực
còn khá mới. Ngày 8/3/1949, với danh nghĩa là nước Việt Nam cộng hòa, Chính
phủ ngụy quyền đã tham gia ký kết công ước quốc tế quan trọng có chứa đựng nội


dung bảo hộ KDCN là Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền SHCN. Tuy nhiên,

trong nước (kể cả chế độ ngụy quyền miền Nam và ở miền Bắc ) vẫn chưa có văn
bản pháp luật nào điều chỉnh cụ thể về KDCN.
Cơ sở pháp lý đầu tiên về KDCN được thiết lập khi đất nước thống nhất là
việc ban hành Nghị định số 85/HĐBT ngày 13/5/1988 về KDCN, kèm theo đó là
Điều lệ về KDCN, tiếp theo là Điều lệ về mua bán quyền sử dụng sáng chế, giải
pháp hữu ích, KDCN, nhãn hiệu hàng hóa và bí quyết kỹ thuật ban hành kèm theo
Nghị định số 201/HĐBT ngày 28/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (Điều lệ về mua
bán lixăng). Mặc dù đã xuất hiện các bản pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực KDCN,
song hiệu lực của những văn bản này mới chỉ dừng lại ở những băn bản dưới luật
do Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành. Sang năm 1989, trước yêu
cầu của công cuộc đổi mới và đòi hỏi về thể chế pháp luật cho chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, Hội đồng nhà nước
(nay là Ủy ban thường vụ Quốc hội) đã ban hành Pháp luật bảo hộ quyền SHCN.
Đây là lần đầu tiên một cơ quan quyền lực thường trực của nhà nước ban hành văn
bản điều chỉnh hoạt động này.Việc ban hành pháp lệnh này đã mở ra một chương
mới trong việc điều chỉnh hoạt động bảo hộ quyền SHCN, trong đó có KDCN.
[3, tr70]
Tuy nhiên, phải đến khi BLDS chính thức được Quốc hội thông qua thì lĩnh
vực bảo hộ quyền SHCN trong đó có KDCN mới được điều chỉnh bởi một văn bản
pháp luật có hiệu lực cao. Kể từ đó, hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền SHCN nói
chung và KDCN nói riêng mới được hình thành một cách khá hoàn chỉnh về mặt cơ
cấu. Hệ thống văn bản pháp luật về KDCN bao gồm: Bộ luật dân sự năm 1995 (từ
Điều 780 đến Điều 825); Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 156, Điều 157, Điều
158, Điều 170 và Điều 171); Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy
định chi tiết về SHCN; Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính


phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 63/CP; Nghị định số 60/CP ngày
06/6/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định của BLDS về quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài; Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 01/7/1998 của

Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ; Nghị định số 12/1999/NĐCP ngày 06/3/1999 của Chính phủ về xử phát vi phạm hành chính trong lĩnh vực
SHCN; Thông tư số 3055/TT-SHCN ngày 31/12/1996 của Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền
SHCN và một số thủ tục khác trong Nghị định số 63/CP của Chính phủ ; Thông tư
số 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 03/5/2000 của Bộ khoa học, Công nghệ và Môi
trường về hướng dẫn thi hàng Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 06/3/1999 của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN…
Về phương diện quan hệ quốc tế, Việt Nam đã tham gia các công ước quốc
tế cơ bản về bảo hộ SHCN nói chung và bảo hộ KDCN nói riêng như: Công ước
Stockholm về việc thành lập tổ chức SHTT Thế giới (WIPO); Công ước Paris về
bảo hộ quyền SHCN…Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã kết các hiệp định thương
mại song phương với các nước trong lĩnh vực thương mại. Điển hình là Hiệp định
thương mại song phương với Hoa Kỳ năm 2001. Đây là Hiệp định được lập và ký
kết theo quy chuẩn nhất định của WTO. Một trong những nội dung luôn được các
bên quan tâm và thể hiện khá cụ thể trong Hiệp định là vấn đề bảo hộ SHTT nói
chung trong đó có vấn đề bảo hộ KDCN.
Nhìn chung trong giai đoạn này, hệ thống pháp luật bảo hộ KDCN đã có sự
phát triển cả về lượng và chất. Tuy nhiên, trong bản thân hệ thống pháp luật này
vẫn còn tồn tại nhiều sự bất cập như: các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực
bảo hộ KDCN hầu như chưa được ban hành trong hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật riêng ngoại trừ Thông tư số 29/2003/TT-BKHCN ngày 05/11/2003 của
Bộ khoa học và Công nghệ hướng dẫn thủ tục đăng ký KDCN. Các quy phạm pháp


luật này nằm trong các văn bản cũng đồng thời điều chỉnh các đối tượng SHCN
khác. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh về KDCN có mức độ cụ thể hóa rất thấp
và chưa đầy đủ. Về phương diện xác lập quyền sở hữu đối với KDCN, thủ tục đăng
ký KDCN tại Cục SHTT còn thiếu rất nhiều các quy phạm hướng dẫn cụ thể gây
khó khăn cho các cá nhân, tổ chức trong việc xác lập quyền của chủ sở hữu, sử
dụng đối với KDCN.

1.4.2. Sau khi Luật sở hữu trí tuệ 2005 ra đời
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh
tế quốc tế, sự ra đời BLDS 2005 và đặc biệt Luật SHTT 2005, có hiệu lực từ ngày
1/7/2006, đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của Việt Nam trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật về SHTT. Tại Quốc Hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 đã ban
hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT, năm 2009. Văn bản Luật
này được hợp nhất từ Luật SHTT năm 2005 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật SHTT năm 2009. Bên cạnh Luật SHTT, còn có các văn bản pháp luật điều
chỉnh về KDCN nói riêng và SHCN nói chung đó là: Nghị định của Chính phủ số
103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật SHTT về SHCN và Thông tư của Bộ khoa học và công
nghệ số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghị định số
103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp. Nghị định số
122/2010/NĐ-CP ngày 31/12/2010 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
103/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp. Nghị định số
97/2010/NĐ-CP ngày 21/09/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực
sở hữu công nghiệp. Việc ra đời Luật sở hữu trí tuệ 2005 đã tạo lập được một
khung pháp lý đồng bộ để điều chỉnh một các toàn diện, đầy đủ và cụ thể các khía


cạnh của việc xác lập, bảo hộ và thực thi quyền SHTT. Cùng với đó, KDCN được
nhìn nhận một cách đầy đủ và chi tiết hơn.
1.5.

Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với một số đối tượng sở hữu công
nghiệp khác
1.5.1. Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với nhãn hiệu
Là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, định nghĩa nhãn hiệu được quy


định tại Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT:“ Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Cùng với đó, Điều 72
Luật SHTT đã quy định về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu: “Nhãn hiệu được
bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể
cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hay
nhiều màu sắc;
2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng
hóa dịch vụ của chủ thể khác.”
Quy định này đã thể hiện chức năng quan trọng nhất của nhãn hiệu đó là
chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Có thể
thấy, khác với pháp luật bảo hộ KDCN là nhằm mục đích bảo hộ “sự sáng tạo” –
là kết quả do con người thực hiện, pháp luật bảo hộ nhãn hiệu lại thể hiện mức uy
tín kinh doanh của người sử dụng nhãn hiệu trên thị trường. Như vậy, quy định này
cũng cho phép các doanh nghiệp có thể hiểu được một cách mở rộng là “bất kỳ dấu
hiệu nào” khi đáp ứng khả năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của mình với sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp khác là có thể đăng ký làm nhãn hiệu. Theo khoản
1 Điều 87 Luật SHTT thì tổ chức, cá nhân có thể đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng
hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp. Khác với nhãn hiệu, KDCN


luôn phải gắn liền với một sản phẩm nhất định theo quy định tại khoản 13 Điều 4
Luật SHTT: “Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được
thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này”.
Sản phẩm được hiểu là đồ vật, dụng cụ, phương tiện…được sản xuất bằng phương
pháp công nghiệp hay thủ công nghiệp, có kết cấu và chức năng rõ ràng, được lưu
thông độc lập.
Về thời hạn bảo hộ, theo khoản 4 Điều 93 Luật SHTT, bằng độc quyền
KDCN có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn, có

thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần năm năm. Khác với KDCN, loại thời hạn được
áp dụng với nhãn hiệu là mười năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ, có thể gia hạn liên
tiếp nhiều lần mỗi lần mười năm. Như vậy, nhãn hiệu có khả năng được bảo hộ
trong thời hạn lâu hơn so với KDCN.
1.5.2. Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với sáng chế
Khoản 12 Điều 4 Luật SHTT đã định nghĩa sáng chế như sau: “Sáng chế là
giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề
xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên”. Có thể thấy, sáng chế là
những sản phẩm sáng tạo của hoạt động sáng tạo do con người thực hiện. Tuy
nhiên, trong khi sáng chế là ý tưởng kỹ thuật được tạo ra bằng cách ứng dụng các
quy luật tự nhiên và được bảo hộ theo quan điểm kỹ thuật, chức năng của sản phẩm
thì KDCN lại được “thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp
của những yếu tố này”. Có nghĩa là, KDCN phải đề cập đến khía cạnh thẩm mỹ
hoặc trang trí của sản phẩm và tạo được ấn tượng thẩm mỹ cảm nhận được bằng
mắt thường. Như vậy, KDCN và sáng chế là sự sáng tạo thuộc hai lĩnh vực khác
nhau, một bên là kỹ thuật, còn một bên là trang trí.
Cũng theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật SHTT, sáng chế tồn tại chủ yếu
thông qua hai dạng của giải pháp kỹ thuật là sản phẩm và quy trình. Điều này khác


với KDCN, chỉ thể hiện bên ngoài của một sản phẩm nhất định. Bởi kiểu dáng bao
gồm các đặc tính trang trí được thể hiện hay áp dụng trong một đồ vật. Vì kiểu
dáng được thể hiện ở vẻ ngoài nên đối tượng bảo hộ kiểu dáng có thể là cấu hình
hay hình dạng của một đồ vật, là trang trí mặt ngoài của một đồ vật, hay là sự kết
hợp giữa cấu hình và trang trí bên ngoài. Một kiểu dáng trang trí bề ngoài không
thể tách rời đồ vật mà nó trang trí và do vậy không thể tự thân tồn tại một mình
được.
1.5.3. Phân biệt kiểu dáng công nghiệp với đối tượng của quyền tác giả
Theo khoản 2 Điều 4 Luật SHTT quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Cùng với đó

căn cứ xác lập quyền tác giả được quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật SHTT :
“Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới
một hình thức nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương
tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”.
Có thể thấy, đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học. Tác phẩm là thành quả lao động sáng tạo của tác giả được thể hiện dưới
hình thức nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa
học và khi cá nhân tạo ra tác phẩm trí tuệ, không phụ thuộc vào giá trị nội dung và
nghệ thuật đều có quyền tác giả đối với tác phẩm. Bởi vì, không một ai có thể biết
được một vấn đề đang nằm trong suy nghĩ của người khác nên quyền tác giả đối
với tác phẩm thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm mà không bao gồm ý
tưởng của tác giả thể hiện trong tác phẩm [1, tr35]. Như vậy, một đối tượng được
bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ về hình thức. Trong khi đó, một đối tượng được bảo
hộ KDCN khi và chỉ khi đảm bảo ba điều kiện: “có tính mới”, “tính sáng tạo”,
“có khả năng áp dụng công nghiệp”. Có nghĩa là, đối tượng được bảo hộ KDCN
không chỉ dừng lại ở việc đối tượng đó được định hình trên một dạng vật chất nhất


định, mang tính mới, tính sáng tạo mà còn phải có khả năng áp dụng vào sản xuất
với quy mô công nghiệp. Như vậy, một đối tượng được bảo hộ KDCN là bảo hộ về
nội dung.
Việc đăng ký bảo hộ KDCN là thủ tục bắt buộc bởi vì KDCN chỉ được pháp
luật bảo hộ khi chúng đã được cơ quan nhà nước chính thức cấp văn bằng bảo hộ.
Việc đăng ký văn bằng bảo hộ là cách thức để công khai hóa quyền sở hữu KDCN
của chủ thể này đối với chủ thể khác, qua đó tránh tình trạng tài sản bị người khác
chiếm đoạt mà không có căn cứ chứng minh bảo vệ quyền của mình. Khác với
quyền tác giả, việc đăng ký chỉ mang tính chất khuyến khích, không bắt buộc bởi từ
thời điểm tạo ra tác phẩm, tác giả được bảo hộ về mặt pháp lý và có các quyền của
người sáng tạo mà không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục đăng ký nào. Việc đăng
ký quyền tác giả không phải là căn cứ làm phát sinh quyền tác giả, mà chỉ có giá trị

là chứng cứ chứng minh của đương sự khi có tranh chấp xảy ra.
KDCN được bảo hộ theo thời hạn của văn bằng bảo hộ. Hiệu lực của văn
bằng bảo hộ KDCN được quy định tại khoản 4 Điều 93 Luật SHTT: “Bằng độc
quyền KDCN có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp
đơn, có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần năm năm”. Về thời hạn bảo hộ quyền
tác giả được quy định tại Điều 27 Luật SHTT và được hướng dẫn tại Điều 26 Nghị
định số100/2006/NĐ-CP. Trong đó, các quyền được pháp luật bảo hộ vô thời hạn là
các quyền nhân thân gắn liền với tác giả không thể chuyển dịch (Quyền đặt tên cho
tác phẩm, quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm…). Còn các quyền đối
với tác phẩm được pháp luật bảo hộ có thời hạn bao gồm quyền nhân thân có thể
chuyển dịch (Quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm) và các quyền
tài sản được xác định như sau:
- Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời
hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối


với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời
hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là
một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh,
khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ các tác phẩm của họ được
tính kể từ ngày danh tính của họ được xác định cho đến năm mươi năm sau khi họ
chết;
- Tác phẩm không thuộc loại hình khác có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả
và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả
thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối
cùng chết;
Như vậy, có thể thấy đối tượng của quyền tác giả có thời hạn bảo hộ lâu hơn
rất nhiều so với thời hạn bảo hộ KDCN.



CHƯƠNG II
ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ ĐỐI VỚI KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP THEO QUY
ĐỊNH CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM

2.1.

Điều kiện đối với kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ
Điều kiện bảo hộ đối với KDCN là các yêu cầu cụ thể đối với đối tượng là

SHCN để đối tượng này nhận được sự bảo hộ về mặt pháp lý, do đó điều kiện bảo
hộ được xác định rõ ràng trong luật. Luật SHTT đã quy định cụ thể các điều kiện
bảo hộ đối với KDCN được quy định tại Mục 2 Chương VII Phần thứ ba, đó là:
“tính mới”, “tính sáng tạo” và “có khả năng áp dụng công nghiệp”.
2.1.1. Tính mới của kiểu dáng công nghiệp
Điều 65 Luật SHTT đã quy định: “KDCN được coi là có tính mới nếu
KDCN đó khác biệt đáng kể với những KDCN đã bị bộc lộ công khai dưới hình
thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước
hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký
KDCN được hưởng quyền ưu tiên”.
Có thể thấy “tính mới” quy định trong Luật SHTT đã mang tính kế thừa từ
BLDS 1995. Theo đó KDCN phải có “tính mới” được quy định tại Điều 784:
“KDCN là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình
khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và
dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp”. Cùng với
đó, khoản 1 Điều 5 Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi
tiết về SHCN cũng quy định đầy đủ các tiêu chí để KDCN được công nhận là có
tính mới đối với thế giới theo Điều 784 BLDS 1995.


Về phương diện quốc tế, tính mới cũng được ghi nhận thông qua các công

ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Tại khoản 2 Điều 25 Mục 4 Hiệp định
TRIPs quy định như sau: “Các thành viên phải bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp
mới hoặc nguyên gốc được tạo ra một cách độc lập”. Bên cạnh đó, Hiệp định
TRIPs cũng cho phép các thành viên có thể quy định rằng KDCN không được coi
là mới hoặc nguyên gốc nếu không khác biệt cơ bản với những kiểu dáng đã biết
hoặc với tổ hợp các đặc điểm tạo dáng của kiểu dáng đã biết. Như vậy, điều kiện
của KDCN phải có “tính mới” được Hiệp định TRIPs quy định một cách khá linh
hoạt. Điều kiện này cũng được nêu ra trong Điều 10 Hiệp định thương mại Việt
Nam – Hoa Kỳ như là một trong các điều kiện để được bảo hộ: “Mỗi bên quy định
việc bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp được tạo ra một cách độc lập, có tính mới
hoặc nguyên gốc”.
Có một điểm đáng lưu ý là về tính nguyên gốc, đây là tiêu chí đều được nêu
ra trong Hiệp định TRIPs và Điều 10 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
như là một trong hai tiêu chí để một KDCN có thể được bảo hộ. Tuy vậy, cả hai
Hiệp định đều không lý giải rõ thế nào là tính nguyên gốc?[3, tr35] Hiện nay, trên
cơ sở các tiêu chí Hiệp định TRIPs đưa ra để một KDCN được bảo hộ là “tính
mới” hoặc “tính nguyên gốc”, pháp luật của đại đa số các quốc gia khác đều không
đặt ra tiêu chí “tính nguyên gốc” mà thường ghi nhận “tính mới” là một tiêu chuẩn
để bảo hộ KDCN của nước mình. Ví dụ, Nhật Bản quy định khả năng bảo hộ
KDCN tại Điều 3, Điều 4, Điều 5 Luật Kiểu dáng công nghiệp. Trong đó, tính mới
của kiểu dáng ở đây được hiểu là: kiểu dáng đó chưa được công chúng biết đến tại
Nhật Bản hoặc nước khác trước ngày nộp đơn đăng ký kiểu dáng; kiểu dáng đó
trước ngày nộp đơn đăng ký kiểu dáng; kiểu dáng đó chưa được mô tả trong các
xuất bản phẩm, công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Nhật Bản hoặc
các nước khác trước ngày nộp đơn đăng ký; kiểu dáng không dễ dàng được tạo ra.


Theo pháp luật Hoa Kỳ, điều kiện bảo hộ KDCN được quy định tại Luật
Bằng độc quyền Hoa Kỳ. Kiểu dáng được cấp bằng độc quyền KDCN theo quy
định của pháp luật Hoa Kỳ khi và chỉ khi đáp ứng được các yêu cầu quy định tại

Điều 171 phần 35 USC Luật Bằng độc quyền Hoa Kỳ. Bất kỳ ai sáng tạo ra kiểu
dáng mới, có tính nguyên gốc và mang tính trang trí cho một vật phẩm phục vụ cho
việc sản xuất thì kiểu dáng đó có thể đạt được bằng độc quyền [18]. Theo nguyên
gốc tiếng Anh: Whoever invents any new, original, and ornamental design for an
article of manufacture may obtain a patent. Như vậy, một trong những điều kiện để
một kiểu dáng được cấp bằng độc quyền KDCN theo quy định của pháp luật
SHTT Hoa Kỳ là kiểu dáng đó bảo đảm có tính mới.
Như vậy, pháp luật Việt Nam cũng giống như phần lớn các nước, đặc biệt là
các nước có hệ thống SHTT hiện đại như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Nhật Bản đều quy
định tính mới của KDCN được đặt ra không những trong phạm vi quốc gia mà trên
phạm vi toàn thế giới.
Điều 65 Luật SHTT cũng quy định chi tiết kiểu dáng công nghiệp có“tính
mới” cần đạt được 3 điều kiện sau:
2.1.1.1. Phải có sự khác biệt cơ bản rõ rệt với những kiểu dáng đã bộc lộ
công khai
Nói cách khác, kiểu dáng công nghiệp yêu cầu bảo hộ không được đồng nhất
hoặc tương tự gần giống đến mức gây nhầm lẫn với những kiểu dáng đã tồn tại
trước đó. Khoản 1 Điều 65 Luật SHTT đã quy định: “Kiểu dáng công nghiệp được
công nhận là có tính mới nếu tính đến ngày nộp đơn, kiểu dáng công nghiệp đó có
sự khác biệt cơ bản rõ rệt với những kiểu dáng đã bị bộc lộ công khai dưới hình
thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước
hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký


kiểu dáng công nghiệp được hưởng quyền ưu tiên”. Dưới đây là một trường hợp vi
phạm điển hình điều kiện này [25]:
Hợp tác xã nông nghiệp kỹ thuật cao Vạn Hoa (HTX Vạn Hoa) đã được
Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp Bằng độc quyền KDCN số
9387 bảo hộ cho kiểu dáng Chai, phân loại quốc tế 09-01.
Ngày 24/5/2007, Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lào Cai nhận

được Đơn yêu cầu của HTX Vạn Hoa đề nghị thanh tra và xử lý Công ty Du lịch
Lào Cai vì có hành vi sản xuất, buôn bán sản phẩm rượu có kiểu dáng chai xâm
phạm kiểu dáng được bảo hộ theo Bằng độc quyền kiểu KDCN số 9387. Tại Công
ty Du lịch Lào Cai, Đoàn thanh tra đã phát hiện Công ty đang tàng trữ để bán 562
chai rượu mang nhãn hiệu “SAN LÙNG” có hình vuông như mô tả trong Đơn yêu
cầu xử lý xâm phạm của HTX Vạn Hoa. Xem xét mẫu chai rượu có kiểu dáng
hình vuông của Công ty Du lịch Lào Cai, thấy rằng:
Những sản phẩm chai rượu của Công ty Du lịch Lào Cai có dạng hình khối
trụ với mặt cắt ngang gần như hình vuông, các mặt bên của thân chai lõm cong
vào bên trong, cổ chai có dạng khối trụ hình tròn. Những chai này có đặc điểm
tạo dáng không khác biệt rõ rệt so với đặc điểm tạo dáng có trong kiểu dáng
công nghiệp được bảo hộ theo Bằng độc quyền KDCN số 9387.

KDCN được bảo hộ

KDCN xâm phạm


Do đó việc sản xuất, buôn bán sản phẩm có kiểu dáng chai như trên mà
không do chủ văn bằng hoặc người được chủ văn bằng cho phép sản xuất là hành
vi xâm phạm quyền SHCN đối với KDCN được bảo hộ, vi phạm điểm d khoản 1
Điều 12 Nghị định 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định về xử phạt vi phạm
hành chính về sở hữu công nghiệp.
Như vậy, ở trường hợp này, kiểu dáng chai xâm phạm có đặc điểm tạo dáng
không khác biệt rõ rệt với đặc điểm tạo dáng trong KDCN được bảo hộ.
2.1.1.2. Phải có sự khác biệt cơ bản với nhau giữa hai kiểu dáng công
nghiệp cùng loại
Phần lớn pháp luật các nước cũng quy định hai KDCN được coi là tương tự
hoặc không khác biệt cơ bản với nhau nếu chỉ khác biệt với nhau ở những đặc điểm
không dễ dàng nhận biết và căn cứ vào các đặc điểm đó không thể phân biệt tổng

thể hai kiểu dáng với nhau. Khoản 2 Điều 65 Luật SHTT quy định: “Hai kiểu đáng
công nghiệp không được coi là khác biệt cơ bản với nhau nếu chỉ khác biệt bởi các
đặc điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết, ghi nhớ và không thể dùng để phân
biệt tổng thể hai kiểu dáng công nghiệp đó”.
Trong thực tiễn công tác bảo hộ, để tìm tính mới, Cục SHTT phải cân nhắc
các đặc điểm tạo dáng cơ bản của KDCN. Thông tư 01/2007/TT – BKHCN hướng
dẫn thi hành Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về
sở hữu công nghiệp đã quy định đó là những yếu tố nhất định về hình khối, đường
nét, màu sắc, tương quan vị trí hoặc tương quan kích thước cùng với các yếu tố
khác tạo thành một tập hợp cần và đủ xác định bản chất của KDCN đó. Các yếu tố
sau đây không được coi là đặc điểm tạo dáng cơ bản của KDCN được quy định tại
Mục 33.7:


×