Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.32 KB, 60 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, các hoạt động xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật sở
hữu trí tuệ được bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ 20. Đến nay, Việt Nam đã
có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với các chuẩn mực
quốc tế về sở hữu trí tuệ theo đánh giá chung của quốc tế, trong đó trụ cột là
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
người tiêu dùng Việt Nam đang đứng trước sự bùng nổ của đa dạng các loại hàng hóa,
dịch vụ. Nhãn hiệu luôn đi liền với sản phẩm và có vai trò, chức năng rất quan trọng
không chỉ trong sản xuất kinh doanh mà cả trong đời sống xã hội. Với tư cách là một dấu
hiệu chỉ ra doanh nghiệp đã cung cấp những sản phẩm, dịch vụ đó ra thị trường, nhãn
hiệu không chỉ giúp người tiêu dùng nhận ra một sản phẩm trong nhiều sản phẩm cùng
loại mà còn thể hiện được uy tín của doanh nghiệp. Tuy nhiên, điểm chung của các doanh
nghiệp Việt Nam là hiểu biết về vấn đề sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ nhãn
hiệu nói riêng chưa được đầy đủ, dẫn đến việc các doanh nghiệp của chúng ta thường
gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh thương mại, nhất là ở thị trường nước ngoài.
Bảo hộ nhãn hiệu tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp quảng bá,
lưu thông, bảo vệ và phát triển các sản phẩm của mình trên thị trường nội địa và
quốc tế, đồng thời cũng bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh để thúc
đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bảo hộ hiệu quả đối với nhãn hiệu góp phần
khuyến khích đầu tư và tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong hoạt động của mình.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, bảo hộ nhãn hiệu góp phần thúc đẩy quá trình
Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Bảo hộ nhãn hiệu có vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, cho phép chống lại việc
sản xuất và buôn bán hàng giả, tránh cho người tiêu dùng không bị lừa dối.
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số đơn yêu cầu bảo hộ nhãn
hiệu tại Cục sở hữu trí tuệ ngày càng tăng lên đáng kể, điều đó chứng tỏ sự nhận
thức về giá trị, vai trò của nhãn hiệu trong xã hội đã thay đổi. Tuy nhiên, để xây
dựng được một nhãn hiệu đáp ứng được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp
và đáp ứng được những quy định về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu lại
không phải dễ dàng. Việc bảo hộ một nhãn hiệu có thành công hay không trước


hết nhãn hiệu đó phải đáp ứng được các điều kiện bảo hộ theo quy định của
pháp luật sở hữu trí tuệ. Trong quá trình xây dựng nhãn hiệu, các doanh nghiệp
đã gặp phải không ít những khó khăn khi áp dụng những quy định pháp luật liên
quan đến vấn đề điều kiện để một nhãn hiệu được bảo hộ.
Trước tình hình thực tế đó, tác giả chọn đề tài: “Điều kiện bảo hộ đối với
nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam” với mong
muốn có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về nhãn
hiệu, đặc biệt là các quy định về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu, qua đó
mong góp một phần nhỏ bé trong việc làm rõ những quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu, đồng thời tăng cường sự hiểu
biết, nhận thức về những quy định đó thêm đầy đủ và đúng đắn, góp phần giải
quyết được những vấn đề của thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề sở hữu
công nghiệp nói chung và vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nói riêng. Với đề tài: “Điều
kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam”, tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu về các điều kiện để dấu hiệu được
công nhận là nhãn hiệu, đây là một nội dung trong nhiều nội dung của vấn đề
bảo hộ nhãn hiệu. Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở học hỏi và rút kinh nghiệm
từ những nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu với hai mục đích chính đó là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận, đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá
các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật
về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những vấn đề mang tính lý
luận về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu được quy định trong Luật Sở hữu trí
tuệ 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung đi sâu vào nghiên cứu các quy
định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về điều kiện bảo hộ đối với nhãn
hiệu, đồng thời nghiên cứu những quy định về nhãn hiệu của pháp luật Việt
Nam trong sự so sánh, đối chiếu với những quy định của điều ước quốc tế và
của pháp luật một số quốc gia trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Với đề tài: “Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật
sở hữu trí tuệ Việt Nam”, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu như phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về nhãn hiệu
Ở chương này, tác giả giới thiệu những vấn đề khái quát nhất về nhãn hiệu
như khái niệm nhãn hiệu, các loại nhãn hiệu và phân biệt nhãn hiệu với một số
đối tượng sở hữu công nghiệp khác.
Chương 2: Điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật
Sở hữu trí tuệ Việt Nam
Ở chương này, tác giả trình bày, phân tích những vấn đề lý luận về điều
kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu được quy định trong pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt
Nam, qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá những quy định của pháp luật về
điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu
Qua một số nhận xét, đánh giá được đưa ra ở Chương 2, Chương 3 sẽ đưa
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định của pháp luật sở hữu trí
tuệ về điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÃN HIỆU
1.1. Khái niệm nhãn hiệu
1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu theo quy định của Hiệp định TRIPs

Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí
tuệ (TRIPs) có hiệu lực từ khi thành lập WTO ngày 1/1/1995. Cho đến nay,
Hiệp định TRIPs là hiệp định đa phương toàn diện nhất liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ. Hiệp định điều chỉnh các đối tượng sở hữu trí tuệ như: quyền tác giả
và các quyền liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế (bao gồm cả bảo hộ giống
cây trồng mới), kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích
hợp, thông tin bí mật.
Hiệp định TRIPs là điều ước quốc tế đầu tiên đưa ra khái niệm nhãn hiệu
hàng hóa. Và cho đến nay khái niệm này vẫn được xem là khái niệm khái quát,
toàn diện nhất và mang tính quy chuẩn.
Cụ thể, tại Khoản 1 Điều 15b của Hiệp định TRIPs có quy định: “Bất kỳ
một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa
hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh
nghiệp khác, đều có thể là nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả
tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp màu sắc cũng như tổ
hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu.
Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc
dịch vụ tương ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký
phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được xác định thông qua quá trình sử dụng. Các
thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải
là dấu hiệu nhìn thấy được” [29].
Qua khái niệm nhãn hiệu của Hiệp định TRIPs thì nhãn hiệu có các yếu tố
sau:
- Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào đó có khả năng phân
biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của
doanh nghiệp khác (đương nhiên phải được hiểu đây là hàng hóa, dịch vụ cùng
loại, vì nếu không cùng loại sẽ mất đi ý nghĩa phân biệt của nhãn hiệu và không
có tính cạnh tranh trong thương mại) [10, tr 7];
- Các loại dấu hiệu có khả năng được sử dụng làm nhãn hiệu có thể bao
gồm các dấu hiệu nhìn thấy và không nhìn thấy được: đó có thể là các từ, kể cả

tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp màu sắc cũng như
tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó;
- Yêu cầu đối với dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu được xác định rõ, trong đó
điều quan trọng cơ bản là các dấu hiệu đăng ký làm nhãn hiệu phải có khả năng
được đăng ký là nhãn hiệu.
Có thể thấy khái niệm NHHH trong Hiệp định TRIPs được quy định rất
khái quát và do đó mang tính quy chuẩn. Việc xác định một dấu hiệu bất kỳ có
thể đăng ký làm NHHH hay không sẽ căn cứ vào tính phân biệt của các dấu hiệu
đó. Điều này thể hiện rõ nhất trong các quy định tương ứng của TRIPs là bất kỳ
một dấu hiệu nào, cho dù là hình ảnh, màu sắc, âm thanh hay mùi có khả năng
phân biệt được hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hoá, dịch vụ
cùng loại của doanh nghiệp khác đều được coi là NHHH. Ðây cũng là cách tiếp
cận chung của các nước khi định nghĩa NHHH trong pháp luật của mình. Tuy
nhiên, các nước cũng có những quan điểm khác nhau liên quan đến những dấu
hiệu có thể phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các doanh nghiệp. Sự khác
biệt này đôi khi bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế hay mức độ đa dạng của nền
kinh tế. Vì thế, hiện nay bên cạnh những dấu hiệu truyền thống như tên gọi, hình
ảnh, còn tồn tại các dấu hiệu đặc biệt khác như hình ảnh ba chiều, màu sắc, âm
thanh, mùi, khẩu hiệu, đây là được gọi là nhãn hiệu đặc biệt.
Hiện nay trên thế giới, nhất là ở một số quốc gia phát triển đã công nhận
các dấu hiệu đặc biệt này được đăng ký là nhãn hiệu như nhãn hiệu 3D, nhãn
hiệu màu sắc, nhãn hiệu mùi, nhãn hiệu âm thanh, ngoài ra còn có nhãn hiệu kỹ
thuật tạo ảnh 3 chiều bằng ánh sáng, nhãn hiệu hình ảnh hoạt hình [14]. Tuy
rằng, số lượng các nhãn hiệu đặc biệt đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ còn
hạn chế và qua những thủ tục phức tạp, khó khăn hơn nhiều so với các dấu hiệu
thông thường, nhưng qua đó có thể thấy rằng pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu trên
thế giới đã mở rộng phạm vi bảo hộ đối với nhãn hiệu.
Ví dụ: Công ty Nokia, Phần Lan đã đăng ký nhãn hiệu cho nhạc hiệu của
mình – nhãn hiệu âm thanh số 001040955 ngày 30/10/2000 [31].
1.1.2. Khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Liên minh Châu Âu

Hai văn bản pháp luật quan trọng được ban hành liên quan một cách trực
tiếp đến pháp luật về nhãn hiệu ở Liên Minh Châu Âu (EC) đó là Văn bản
hướng dẫn năm 2008/95/EC về hài hòa pháp luật về nhãn hiệu của các quốc gia
thành viên [22] (thay thế cho văn bản 89/104/EEC ngày 21 tháng 12 năm 1988)
và Quy định của Hội đồng số 207/2009 ngày 26 tháng 2 năm 2009 về nhãn hiệu
cộng đồng [23] (thay thế cho quy định số 40/94 ngày 20 tháng 12 năm 1993).
Văn bản hướng dẫn 2008/95/EC được ban hành không phải nhằm mục đích
thống nhất tất cả các hệ thống pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa của các quốc gia.
Mục đích của nó chỉ là hướng đến cố gắng làm giảm đi sự khác biệt giữa các hệ
thống nhãn hiệu hàng hóa quốc gia là nguyên nhân gây ra những rào cản cho
thương mại và ảnh hưởng đến sự lưu thông tự do hàng hóa, dịch vụ cũng như
hạn chế sự phát triển của các thị trường đơn lẻ.
Quy định số 207/2009 của Hội đồng Châu Âu về nhãn hiệu cộng đồng
(CTMR) cũng đưa ra những nguyên tắc chung nhất về bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa cộng đồng, và những phương thức và trình tự cụ thể của quá trình đăng ký
và bảo hộ quốc tế đối với đối tượng này ở khu vực châu Âu sẽ được quy định
bởi pháp luật quốc gia.
Tại Điều 2 Văn bản hướng dẫn 2008/95/EC thì nhãn hiệu được định nghĩa
như sau: “Một nhãn hiệu có thể bao gồm bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng thể hiện
dưới dạng đồ họa, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ
ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa hoặc của bao gói của hàng hóa mà các
dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh
này với hàng hóa hoặc dịch vụ của một chủ thể kinh doanh khác”
1
.
Về cơ bản, các điều kiện bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của Liên Minh
Châu Âu có sự kế thừa và phù hợp với quy định của Hiệp định TRIPs, đó là thừa
nhận các dấu hiệu truyền thống như từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các
yếu tố hình họa, đồng thời cũng có sự mở rộng, phát triển thêm những dấu hiệu
mới có khả năng đáp ứng yêu cầu đăng ký nhãn hiệu như dấu hiệu âm thanh,

hình ảnh ba chiều, màu sắc. TRIPs chỉ rõ rằng chỉ riêng màu sắc không có sự kết
hợp với từ ngữ, hình ảnh (trong tiếng Anh là “colour per se”) “có thể đăng ký là
nhãn hiệu hàng hóa” (khoản 1 Điều 15b), mặc dù không nêu vấn đề bảo hộ đối
với nhãn hiệu đơn sắc. Tuy nhiên, EC công nhận rằng: “ thực chất một nhãn
hiệu màu sắc là nhãn hiệu bao gồm một màu hoặc nhiều màu, bất kể nó có hình
hoặc hình dạng nào đặc biệt”
2
và có thể tạo thành nhãn hiệu hàng hóa [13, tr
32]. Điều này cho thấy phạm với bảo hộ nhãn hiệu ở Cộng đồng Châu Âu được
mở rộng phù hợp với sự phát triển của khoa học, công nghệ cũng như nền kinh
tế tại Liên minh Châu Âu.
Tại EC, nhãn hiệu màu đơn sắc đầu tiên được đăng ký năm 1999 cho màu
hoa tử đinh hương - màu đỏ tía [13, tr 32]. Nhãn hiệu mùi không được đề cập
trong luật nhãn hiệu hàng hóa của EC và cả trong hướng dẫn của Cơ quan hài
hòa hóa thị trường nội địa OHIM (The Office for Harmonization in the Internal
Market - đây là cơ quan có thẩm quyền đăng ký nhãn hiệu và kiểu dáng công
nghiệp có giá trị thi hành và bảo hộ trên toàn lãnh thổ EU, dưới sự quản lý của
1
Nguyên gốc tiếng Anh: Signs of which a trade mark may consist: “A trade mark may consist
of any signs capable of being represented graphically, particularly words, including personal
names, designs, letters, numerals, the shape of goods or of their packaging, provided that such
signs are capable of distinguishing the goods or services of one undertaking from those of other
undertakings”.
2
Nguyên gốc tiếng Anh: “a colour mark per se is a mark composed of one colour or several
colours, regardless of any specific shape or configuration”.
Uỷ ban Châu Âu). Thực tế cũng chỉ ra rằng rất khó để đăng ký dấu hiệu mùi như
là nhãn hiệu hàng hóa. Năm 1999, lần đầu tiên Liên minh Châu Âu cho phép
đăng ký nhãn hiệu mùi cỏ tươi mới cắt cho bóng tennis [3, tr 69].
1.1.3. Khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Hoa Kỳ

Việc thực thi pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu ở Hoa Kỳ hiện nay chủ yếu
dựa trên những quy định của Đạo luật nhãn hiệu hàng hóa năm 1946 mà nó
được biết đến với tên gọi Đạo luật Lanham và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần
trong quá trình áp dụng [24].
Đạo luật Lanham quy định khái niệm nhãn hiệu tại phần 15 U.S.C. § 1127
như sau: “ Nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay hình vẽ, hoặc sự
kết hợp giữa chúng mà – (1) được sử dụng bởi một người, hoặc (2) được một
người có ý định trung thực là sử dụng nó trong thương mại và xin đăng ký theo
luật này – để xác định và phân biệt hàng hóa của người đó, bao gồm các hàng
hóa cụ thể với những hàng hóa cùng loại được sản xuất hoặc được bán bởi
những người khác và để chỉ rõ nguồn gốc của hàng hóa thậm chí khi mà không
xác định được nguồn gốc đó”
3
.
Như vậy, cả dấu hiệu được dùng hoặc có ý định dùng trong hoạt động
thương mại nhằm xác định mối quan hệ giữa hàng hóa, dịch vụ với người có
quyền sử dụng dấu hiệu đó đều được đăng ký làm nhãn hiệu. Theo khái niệm
này, pháp luật Hoa kỳ cũng chỉ coi những yếu tố phổ biến như từ, tên gọi, biểu
tượng, hình vẽ và sự kết hợp giữa chúng mới có khả năng đăng ký làm nhãn
hiệu. Tuy nhiên, Hoa Kỳ là một trong những quốc gia phát triển trên thế giới
trên nhiều lĩnh vực trong đó có bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu, vì thế, trong quá trình thực thi, để theo kịp với trình độ phát triển của đất
nước, luật Lanham đã được sửa đổi nhiều lần [11, tr 5].
3
Nguyên gốc tiếng Anh: 15 U.S.C. § 1127 : “The term “trademark” includes any word, name,
symbol, or device, or any combination thereof - (1) used by a person, or (2) which a person has
a bona fide intention to use in commerce and applies to register on the principal register
established by this Act, to identify and distinguish his or her goods, including a unique product,
from those manufactured or sold by others and to indicate the source of the goods, even if that
source is unknown”.

Theo mục 15 U.S.C. §1052 Luật nhãn hiệu hàng hóa 1946 thì: “không có
nhãn hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa của người nộp đơn với hàng hóa
của những người khác lại bị từ chối đăng ký vào sổ đăng ký…”
4
. Vận dụng quy
định của điều luật này, những yếu tố mới như âm thanh, mùi đã được đăng ký
làm nhãn hiệu tại Hoa Kỳ. Quy định có tính mở trên đây là hoàn toàn phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế của Hoa Kỳ và đòi hỏi thực tế.
Tóm lại, qua tìm hiểu khái niệm nhãn hiệu trong Hiệp định TRIPs cũng
như pháp luật của Cộng đồng Châu Âu và Hoa kỳ có thể thấy rằng: Luật pháp
quốc tế và các nước đều xác định rõ nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa hoặc dịch vụ của một
chủ thể kinh doanh khác. Đây là dấu hiệu quan trọng để nhãn hiệu thực hiện
chức năng của mình, tránh sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng khi nhãn hiệu được
đưa ra thị trường.
Việc phân tích và so sánh khái niệm nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của
các Điều ước quốc tế và các nước trên thế giới là rất cần thiết và quan trọng đối
với sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu, giúp các nhà làm
luật trong việc phân tích và xây dựng, đổi mới chính sách, pháp luật về bảo hộ
nhãn hiệu nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung.
1.1.4. Khái niệm nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam
Tại Việt Nam, khái niệm nhãn hiệu mới xuất hiện từ khoảng hơn 20 năm
trở lại đây, với việc mở cửa nền kinh tế, tăng tốc cạnh tranh và nhất là với sự
xâm nhập của các hàng hóa nước ngoài. Trong bối cảnh đó, nhãn hiệu đang dần
chiếm một chỗ đứng vững chắc và ngày càng được khách hàng cân nhắc đến khi
lựa chọn sản phẩm.
a. Sơ lược về các quy định pháp luật về khái niệm nhãn hiệu trước Luật Sở hữu Trí tuệ 2005
4
Nguyên gốc tiếng Anh: 15 U.S.C. §1052: “No trademark by which the goods of the applicant
may be distinguished from the goods of others shall be refused registration on the principal

register on account of its …”.
Sự hình thành của pháp luật sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng
hóa ở nước ta được đánh dấu bằng việc Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ)
ban hành Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa, ban hành kèm theo Nghị định
197/HĐBT ngày 14 tháng 12 năm 1982 của Hội đồng Bộ trưởng, đã được sửa
đổi bổ sung tại Nghị định 84/HĐBT ngày 20 tháng 03 năm 1990 về việc sửa đổi
bổ sung Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật - hợp lý hoá sản xuất và sáng chế,
Điều lệ về nhãn hiệu hàng hoá, Điều lệ về giải pháp hữu ích, Điều lệ về kiểu
dáng công nghiệp, Điều lệ về mua bán li-xăng. Đây là văn bản quy phạm pháp
đầu tiên ở nước ta quy định chi tiết về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Theo đó, tại
Khoản 1 Điều 3 Nghị định 197/HĐBT quy định: “Nhãn hiệu hàng hoá được bảo
hộ pháp lý là những dấu hiệu được chấp nhận có thể là từ ngữ, hình ảnh, hình vẽ,
hình nổi... hoặc là sự kết hợp các yếu tố trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều
màu sắc kết hợp”. Do đó, điều kiện để một dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu
hàng hóa theo khái niệm này đó là “dấu hiệu được chấp nhận…”. Quy định này
chưa thể hiện được chức năng quan trọng nhất của nhãn hiệu đó là chức năng
phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các tổ chức, cá nhân khác nhau, đồng
thời thuật ngữ “dấu hiệu được chấp nhận” trong khái niệm này không rõ ràng,
gây khó hiểu cho các chủ sở hữu nhãn hiệu khi lựa chọn các dấu hiệu để đăng ký
nhãn hiệu.
Đến ngày 28 tháng 1 năm 1989, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp
lệnh bảo hộ sở hữu công nghiệp. Tại khoản 4 Điều 4 của Pháp lệnh, khái niệm
nhãn hiệu hàng hóa được quy định như sau: “Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp
các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”. Khái niệm đã khắc
phục được hạn chế của khái niệm trong Nghị định 197/HĐBT khi quy định về
dấu hiệu phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của nhãn hiệu, đây là quy định
tiến bộ và còn được áp dụng ở các văn bản pháp luật sau này. Tuy nhiên, các
dấu hiệu được quy định dùng làm nhãn hiệu hàng hóa còn rất hạn chế : “có thể

là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc
nhiều màu sắc”.
Pháp lệnh này cùng các văn bản khác đã đặt nền tảng cho một hệ thống văn
bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung
và nhãn hiệu hàng hóa nói chung. Tuy nhiên, hệ thống các quy định nằm rải rác,
tản mạn trong rất nhiều văn bản nhưng chủ yếu là các văn bản dưới luật, hiệu
lực thi hành không cao, từ đó gây khó khăn cho cơ quan nhà nước cũng như cho
người thi hành.
Đến năm 1995, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được quy định trong văn bản
quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất đó là Bộ luật dân sự năm 1995.
Điều 785 BLDS 1995 đã quy định: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp
các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”. Khái niệm này
tương tự như khái niệm quy định tại Pháp lệnh bảo hộ sở hữu công nghiệp. Tuy
nhiên, có thể thấy rằng khái niệm NHHH quy định trong BLDS 1995 là khá phù
hợp với quy định trong Hiệp định TRIPs khi đưa ra hai nội dung:
- Nội dung thứ nhất: quy định nhãn hiệu hàng hoá là dấu hiệu. Dấu hiệu
dùng làm nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ có thể là từ ngữ, chữ cái, chữ số hoặc là
sự kết hợp bất kì của hai hay nhiều yếu tố đó với nhau. Dấu hiệu dùng làm nhãn
hiệu có thể là tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình họa của hàng hoá hoặc bao bì.
Tức là dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu có thể gắn liền với sản phẩm, dịch vụ bằng
cách dán, in lên hàng hoá, trên bao bì hay là chính hình dạng của hàng hoá, hoặc
dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu có thể không cần gắn liền với hàng hoá, dịch vụ,
đó là trường hợp doanh nghiệp quảng cáo sản phẩm bằng băng rôn, truyền hình.
Tuy nhiên, các dấu hiệu được quy định dùng làm nhãn hiệu hàng hoá trong
BLDS 1995 là rất hạn chế (từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó) so
với các quy định phong phú và mở rộng của TRIPs (bất kì một dấu hiệu nào kể
cả chữ cái, chữ số cũng được coi là dấu hiệu được bảo hộ). Điều này có nghĩa là
các doanh nghiệp có ít sự lựa chọn hơn khi xây dựng nhãn hiệu hàng hoá, họ

không thể chọn các dấu hiệu nằm ngoài các dấu hiệu đã được liệt kê tại Điều
785 BLDS 1995. Trong tình hình lúc bấy giờ của Việt Nam thì 3 loại dấu hiệu
này có lẽ là khá phù hợp. Tuy nhiên trong tương lai với sự phát triển của nền
kinh tế, khi mà các dấu hiệu ngày càng phong phú, các nhà sản xuất ngày càng
mong muốn tìm kiếm các nhãn hiệu mới lạ, độc đáo, hấp dẫn cho các sản phẩm
của mình để thu hút công chúng thì Việt Nam sẽ chưa thể bắt nhịp với thế giới.
- Nội dung thứ hai: quy định về chức năng và mục đích của nhãn hiệu hàng
hoá là để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh
doanh khác nhau.
Trong khi đó, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (HĐTM) là một
hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam ký kết với nước ngoài lần
đầu tiên có ghi nhận và quy định quyền sở hữu trí tuệ trong một chương riêng
(Chương II) với 18 điều, trong đó có Điều 6 đề cập cụ thể riêng về nhãn hiệu
hàng. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 1 Điều 6: "Nhãn hiệu hàng hóa được cấu
thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dầu hiệu có khả năng phân
biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác,
bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc
hình dạng của hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa
bao gồm nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận”.
Như vậy, HĐTM Việt Nam - Hoa Kỳ đưa ra khái niệm NHHH có tính xác
định các loại dấu hiệu, nhưng đã được mở rộng hơn so với quy định của BLDS
1995. Ngoài ra, Hiệp định còn phân loại nhãn hiệu thành nhãn hiệu hàng hoá,
nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, trong khi theo quy
định tại Điều 785 BLDS 1995 khi đề cập đến nhãn hiệu hàng hóa, không chỉ rõ
có bao gồm nhãn hiệu dịch vụ hay không và vấn đề này chỉ được quy định tại
Điều 2.7 Nghị định 63/CP ban hành ngày 24/10/1996. Khái niệm nhãn hiệu
hàng hóa này đã thể hiện được tinh thần của Hiệp định TRIPs.
b. Khái niệm nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế, sự ra đời Bộ luật dân sự 2005 và đặc biệt Luật Sở hữu trí tuệ

được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2006 đánh dấu
bước phát triển của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Cùng với đó, nhãn hiệu
được nhìn nhận một cách đầy đủ và chi tiết hơn. Cùng với Luật Sở hữu trí tuệ
2005, còn có các văn bản pháp luật điều chỉnh về nhãn hiệu nói riêng và sở hữu
công nghiệp nói chung đó là: Nghị định của Chính phủ số 103/2006/NĐ-CP
ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp và Thông tư của Bộ khoa học và
Công nghệ số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14/02/2007 hướng dẫn thi hành Nghị
định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp.
Khái niệm nhãn hiệu theo Luật SHTT Việt Nam 2005 được quy định cụ thể
tại Khoản 16 Điều 4 phần giải thích từ ngữ như sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Ðây
là một quy định đã mang tính khái quát hơn rất nhiều so với quy định của BLDS
1995 khi sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu” thay cho “nhãn hiệu hàng hoá” và
không hề giới hạn các dấu hiệu có thể được đăng kí làm nhãn hiệu. Như vậy,
quy định này cho phép các doanh nghiệp có thể hiểu được một cách mở rộng là
“bất kỳ dấu hiệu nào” chỉ cần có khả năng phân biệt sản phẩm của mình với sản
phẩm của doanh nghiệp khác là có thể được đăng kí làm nhãn hiệu. Từ đó, các
doanh nghiệp sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc tạo ra một dấu ấn cho sản
phẩm của mình. Việc sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu” để thay cho thuật ngữ
“nhãn hiệu hàng hóa” trong hệ thống pháp luật hiện hành đã tránh được tình
trạng dễ gây sự hiểu lầm là thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa” chỉ được sử dụng
cho hàng hóa mà không bao gồm nhãn hiệu sử dụng trong dịch vụ của người áp
dụng (trong Nghị định số 63/CP đã phải có giải thích “nhãn hiệu hàng hóa được
hiểu là bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ”). Đồng thời, việc sử dụng thuật ngữ
“nhãn hiệu” còn phù hợp với các thuật ngữ được sử dụng cho các loại nhãn hiệu
khác như “nhãn hiệu tập thể”, “nhãn hiệu liên kết”, “nhãn hiệu nổi tiếng” [4, tr
319, 320].
Tuy nhiên, khái niệm này không quy định rõ các dấu hiệu cấu thành nhãn

hiệu, theo đó không hạn chế các loại dấu hiệu có thể sử dụng được làm nhãn
hiệu. Điều này sẽ gây không ít khó khăn cho các nhà sản xuất, kinh doanh khi có
nhu cầu đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Do không có quy
định cụ thể nên các chủ thể có thể tùy nghi đăng ký những dấu hiệu bất kỳ theo
ý chí của họ, điều này tạo nên áp lực và khó khăn cho cơ quan đăng ký khi phải
xem xét, tra cứu, đánh giá những dấu hiệu đó có khả năng đăng ký làm nhãn
hiệu hay không? [10, tr 12]. Do đó việc quy định điều kiện để một nhãn hiệu
được bảo hộ là vô cùng cần thiết và quan trọng. Điều 72 Luật SHTT đã quy định
cụ thể vấn đề này. Theo đó: “Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện
sau đây:
1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh,
kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều màu sắc;
2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác”.
Như vậy, Điều 72 Luật SHTT đã làm rõ về các dấu hiệu có thể được bảo hộ
là nhãn hiệu. Đây là hành lang pháp lý để các nhà sản xuất, kinh doanh tạo lập
một nhãn hiệu phù hợp. Theo đó, không phải bất kỳ các dấu hiệu nào cũng có
thể được sử dụng và được bảo hộ là nhãn hiệu mà pháp luật đặt ra những yêu
cầu cụ thể đối với chúng. Đầu tiên, đó là những dấu hiệu có thể nhìn thấy được,
tức pháp luật Việt Nam chỉ bảo hộ những nhãn hiệu có thể nhận biết bằng thị
giác. Điều kiện thứ hai bắt buộc để một dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu đó là
khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các chủ thể kinh doanh khác
nhau.
Trong Luật SHTT 2005, các dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu đã được quy
định chi tiết, rõ ràng và đầy đủ hơn so với quy định tại BLDS 1995. Tuy nhiên,
cũng giống như BLDS 1995 và Hiệp định Thương Mại Việt Nam - Hoa Kỳ, các
dấu hiệu mới mà thế giới đã thừa nhận và bảo hộ là nhãn hiệu như nhãn hiệu âm
thanh, mùi, bản thân màu sắc hoặc sự kết hợp của các màu sắc với nhau chưa
được quy định trong pháp luật SHTT Việt Nam.

1.2. Các loại nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam
Việc phân loại nhãn hiệu có ý nghĩa quan trọng đối với lý luận và thực tiễn
bảo hộ nhãn hiệu. Dựa vào tính chất, chức năng của nhãn hiệu, pháp luật thế
giới và pháp luật Việt Nam đều quy định về các loại nhãn hiệu sau: nhãn hiệu
hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu
liên kết và nhãn hiệu nổi tiếng.
1.2.1. Nhãn hiệu hàng hóa (trademarks)
Nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của những người
sản xuất khác nhau [2, tr 94]. Thông thường, nhãn hiệu hàng hóa chỉ dùng cho
hàng hóa là sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên hoặc sản phẩm do con người sản
xuất, chế tạo ra. Điều này không có nghĩa là nhãn hiệu hàng hóa phải thông tin
cho người tiêu dùng về người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc thậm chí
người bán sản phẩm. Nhãn hiệu dùng cho hàng hóa có thể được gắn trực tiếp
trên hàng hóa hay trên bao bì của sản phẩm hàng hóa đó. Ví dụ: nhãn hiệu Trung
Nguyên cho sản phẩm cà phê, hay Toyota cho ô tô.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, người tiêu dùng đang đứng trước sự
bùng nổ các loại nhãn hiệu hàng hóa khác nhau. Do vậy, để người tiêu dùng
chọn đúng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp mình thì việc xây dựng, đăng
ký và bảo hộ đối với nhãn hiệu hàng hóa cho doanh nghiệp mình có ý nghĩa vô
cùng quan trọng.
1.2.2. Nhãn hiệu dịch vụ (Service marks)
Nhãn hiệu dịch vụ là dấu hiệu để phân biệt dịch vụ do các chủ thể kinh
doanh khác nhau cung cấp [2, tr 94]. Sản phẩm gắn nhãn hiệu dịch vụ là những
sản phẩm vô hình do một người hay một tổ chức doanh nghiệp đứng ra thực
hiện nhằm phục vụ nhu cầu của mọi người trong xã hội. Nhãn hiệu dịch vụ
thường được gắn trên các bảng hiệu dịch vụ để người có nhu cầu hưởng thụ dịch
vụ đó có thể nhận thấy dễ dàng. Tuy nhiên, nhãn hiệu dịch vụ ở đây phải là
những hoạt động thực tế của những dịch vụ mang tính độc lập. Trong điều kiện
đời sống kinh tế vật chất ngày càng được nâng cao như hiện nay thì các loại hình

dịch vụ ngày càng trở nên phong phú (ví dụ: các dịch vụ pháp lý; bảo hiểm; bán
buôn, bán lẻ; thông tin liên lạc, vận chuyển…), tăng cả về số lượng, chất lượng
và mức độ cạnh tranh giữa các loại dịch vụ cũng trở nên gay gắt.
Ví dụ: cũng là dịch vụ vận chuyển hàng không nhưng thông qua nhãn hiệu
người sử dụng dịch vụ biết và phân biệt được dịch vụ của Vietnam Airlines và
Jetstar Pacific Airlines.

1.2.3. Nhãn hiệu tập thể (Collective marks)
Khoản 17 Điều 4 Luật SHTT 2005 có quy định: “Nhãn hiệu tập thể là nhãn
hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ
sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là
thành viên của tổ chức đó”.
Nhãn hiệu tập thể được áp dụng đối với hàng hóa và dịch vụ. Nhãn hiệu tập
thể là nhãn hiệu của một tập thể các nhà sản xuất (thường là một hiệp hội, hợp
tác xã, tổng công ty…), trong đó, tổ chức tập thể xây dựng quy chế chung về
việc sử dụng nhãn hiệu tập thể (như các chỉ tiêu chung về chất lượng, nguồn
gốc, phương pháp sản xuất…) và các thành viên có quyền sử dụng nhãn hiệu
nếu hàng hóa, dịch vụ của họ đáp ứng được các tiêu chuẩn đó. Quyền sở hữu
nhãn hiệu tập thể tùy từng trường hợp có thể là cá nhân hoặc pháp nhân đại diện
hợp pháp cho tập thể đó. Chủ nhãn hiệu tập thể có nghĩa vụ kiểm soát sự tuân
theo quy chế sử dụng nhãn hiệu của các cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng nhãn
hiệu tập thể. Trong một nhãn hiệu tập thể thì nhiều người cùng có thể cùng sử
dụng một loại nhãn hiệu. Nhưng khi tập thể sử dụng nhãn hiệu này mà với tư
cách nhân danh tập thể thì lúc này nhãn hiệu sẽ được xem là một nhãn hiệu bình
thường mà không được xem là nhãn hiệu tập thể, vì nhãn hiệu chỉ do một chủ
thể duy nhất, nhân danh bản thân sử dụng. Nhãn hiệu tập thể có tác dụng thông
báo cho người sử dụng về những khía cạnh đặc trưng của sản phẩm mà nhãn
hiệu tập thể được sử dụng. Trong trường hợp như vậy, việc tạo ra một nhãn hiệu
tập thể không chỉ hỗ trợ tiếp thị sản phẩm ở thị trường trong nước và có thể trên
thị trường quốc tế mà còn cung cấp cơ sở cho việc hợp tác giữa những nhà sản

xuất trong nước. Việc tạo nhãn hiệu tập thể, trên thực tế phải đi kèm với sự phát
triển các tiêu chuẩn nhất định cùng với một chiến lược chung. Khi đó, nhãn hiệu
tập thể mới có thể trở thành một công cụ hữu hiệu cho phát triển trong nước.
Ví dụ: Nhãn hiệu Gạo Bao Thai Định Hoá và hình là nhãn hiệu tập thể của
tỉnh Thái Nguyên số bằng: 4-0090842-000, ngày cấp bằng: 26/10/2007. Đây là
nhãn hiệu tập thể thứ hai của tỉnh Thái Nguyên được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký nhãn hiệu tập thể sau Chè Thái Nguyên (Số bằng: 4-0084266-000, ngày cấp
bằng : 26/12/2006) [26].

1.2.4. Nhãn hiệu chứng nhận (Certification marks)
Khoản 18 Điều 4 Luật SHTT 2005 quy định: “Nhãn hiệu chứng nhận là
nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên
hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất
xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hoá, cách thức cung cấp dịch
vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hoá,
dịch vụ mang nhãn hiệu”.
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu do các tổ chức có chức năng kiểm soát,
chứng nhận chất lượng, đặc tính…của hàng hóa, dịch vụ đăng ký, sau đó tổ chức
này có quyền cấp phép sử dụng cho bất kỳ chủ thể sản xuất, kinh doanh nào nếu
hàng hóa, dịch vụ của họ đáp ứng các tiêu chuẩn do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng
nhân đặt ra. Chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận có nghĩa vụ tuân thủ các quy
định của quy chế sử dụng nhãn hiệu trong quá trình chứng nhận hàng hóa, dịch
vụ đủ tiêu chuẩn mang nhãn hiệu và có nghĩa vụ kiểm soát sự tuân thủ quy chế
sử dụng nhãn hiệu của các cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng nhãn hiệu chứng
nhận tương ứng. Sự khác biệt chủ yếu giữa nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu
tập thể là nhãn hiệu tập thể chỉ có thể do các thành viên của tổ chức tập thể sử
dụng, trong khi nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử dụng bởi bất kỳ ai có sản
phẩm, dịch vụ đáp ứng được các tiêu chuẩn định sẵn. Nhãn hiệu chứng nhận hầu
như không được đề cập đến trong các điều ước quốc tế, kể cả Hiệp định TRIPs.
Ví dụ: Nhãn hiệu BaVi Cows Milk Sữa bò Ba Vì và hình (số bằng: 4-

0118140-000, ngày cấp bằng: 20/01/2009) hay nhãn hiệu Rau Đà Lạt Vegetable
và hình (số bằng: 4-0135739-000, ngày cấp bằng: 23/10/2009) là những nhãn
hiệu chứng nhận [25].
1.2.5. Nhãn hiệu liên kết
Theo Khoản 19 Điều 4 Luật SHTT 2005 quy định thì: “Nhãn hiệu liên kết
là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho
sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau”.
Việc đăng ký nhãn hiệu liên kết mang lại nhiều lợi ích cho chủ nhãn hiệu.
Đó là chủ nhãn hiệu sẽ không cần phải xây dựng uy tín cho từng mặt hàng, từng
nhãn hiệu riêng biệt, do đó tiết kiệm được các chi phí quảng cáo, khuếch trương
được nhanh chóng uy tín thương mại của mình. Việc sử dụng nhãn hiệu liên kết
tạo uy tín cho những sản phẩm dịch vụ mới của doanh nghiệp bởi nhãn hiệu đã
từng được biết đến và chiếm được sự tín nhiệm của người tiêu dùng. Nhãn hiệu
liên kết cũng hạn chế tối đa việc các chủ sở hữu sản xuất kinh doanh khác lợi
dụng uy tín của nhãn hiệu mà đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tương tự gây nhầm
lẫn cho người tiêu dùng và thiệt hại cho chủ nhãn hiệu.
Trên thị trường ta có thể bắt gặp rất nhiều nhãn hiệu liên kết như: Nhãn
hiệu Sony của công ty điện tử Sony được dùng cho tất cả các mặt hàng của hàng
như tivi, tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ. Hay công ty Toyota với các nhãn hiệu liên
kết: Toyota Camry, Toyota Vios, Toyota Innova…
1.2.6. Nhãn hiệu nổi tiếng
Nhãn hiệu nổi tiếng không chỉ thực hiện tốt chức năng phân biệt của nhãn
hiệu mà còn là cam kết về chất lượng và những phẩm chất khác của sản phẩm,
của nhà sản xuất sản phẩm đối với người tiêu dùng. Nó chiếm lĩnh cả một thị
trường rộng lớn, vượt ra khỏi phạm vi của một quốc gia sản xuất ra loại hàng
hóa, sản phẩm đó. Nhãn hiệu nổi tiếng là một trong những thành quả đầu tư và
là một tài sản có giá trị rất lớn của các doanh nghiệp sở hữu nó, đôi khi nhãn
hiệu nổi tiếng còn tạo ra thương hiệu cho mỗi quốc gia, mỗi vùng miền. Cũng
chính vì vậy mà tình trạng nhãn hiệu nổi tiếng bị sao chép, quyền của chủ nhãn
hiệu nổi tiếng bị xâm phạm diễn ra khắp nơi trên toàn thế giới. Sau đây là một

số ví dụ về nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới: [27]
68,734 triệu USD 31,980 triệu USD
56,647 triệu USD 21,671 triệu USD

Khoản 20 Điều 4 Luật SHTT 2005 quy định: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn
hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Quy
định nhãn hiệu nổi tiếng được xác định thông qua thủ tục công nhận của cơ quan
nhà nước thẩm quyền, chứ không phải thông qua việc nộp đơn đăng ký nhãn
hiệu như các loại nhãn hiệu thông thường khác. Tại Việt Nam, Cà phê Trung
Nguyên là một ví dụ về sự thành công mang lại của một nhãn hiệu nổi tiếng đã
được xây dựng trên thị trường trong và ngoài nước. Chỉ trong vòng mấy năm, từ
một xưởng sản xuất nhỏ ở Buôn Ma Thuột, với một chiến lược xây dựng và phát
triển, Trung Nguyên đã có mặt ở khắp mọi miền đất nước, chiếm thị phần lớn và
trở thành một nhãn hiệu cà phê nổi tiếng được nhiều người tiêu dùng trong và
ngoài nước biết đến.
Tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại Điều 75 Luật
SHTT 2005. Đây là sự tiến bộ hơn so với pháp luật Việt Nam trước Luật SHTT
2005, pháp luật trước đây không quy định cụ thể về nhãn hiệu nổi tiếng. Nghị
định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công
nghiệp có đề cập gián tiếp đến nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng chỉ dừng lại ở việc
thừa nhận bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Nghị định 06/CP sửa đổi bổ sung Nghị
định 63/CP có đưa ra một khái niệm về nhãn hiệu nổi tiếng tại khoản 2 Điều 1,
theo đó: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hóa được sử dụng liên tục cho sản
phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi”.
Tuy nhiên, tiêu chí bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nêu trong khái niệm không rõ
ràng, khó xác định.
Qua xem xét các tiêu chí nêu tại Điều 75 Luật SHTT 2005, chúng ta cũng
có thể dễ dàng nhận thấy có rất nhiều các quy định mang tính chất định lượng, ví
dụ như số lượng các quốc gia bảo hộ nhãn hiệu, số lượng quốc gia công nhận
nhãn hiệu là nổi tiếng, số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu

thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông
qua quảng cáo... Bên cạnh đó, có sự mâu thuẫn giữa quy định trong khoản 6
Điều 75 về số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu và quy định tại điểm 20 Điều 4,
Luật SHTT. Định nghĩa tại Điều 4 chỉ yêu cầu nhãn hiệu nổi tiếng chỉ cần được
người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam, trong khi tiêu chí
công nhận lại nêu số lượng quốc gia. Có thể nhận xét chung rằng các quy định
pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam còn thiếu và chưa đáp ứng được
tình hình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
1.3. Phân biệt nhãn hiệu với một số đối tượng sở hữu công nghiệp khác
1.3.1. Phân biệt nhãn hiệu với tên thương mại (Trade names)
Trong thực tế, nhiều người tiêu dùng vẫn nhầm lẫn giữa tên thương mại và
nhãn hiệu. Tên thương mại và nhãn hiệu đều là chỉ dẫn thương mại và là hai đối
tượng khác nhau theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
Tại khoản 21 Điều 4 Luật SHTT 2005 quy định: “Tên thương mại là tên gọi
của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh
doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu
vực kinh doanh”.
Có thể nói, tên thương mại cũng bao gồm các dấu hiệu như một nhãn hiệu.
Tuy nhiên, nếu như dấu hiệu của nhãn hiệu bao gồm các yếu tố khác nhau với
chức năng là để phân biệt hàng hóa, dịch vụ thì tên thương mại chỉ bao gồm từ
ngữ, để cá thể hóa chủ thể kinh doanh, phân biệt cơ sở kinh doanh và hoạt động
kinh doanh, do đó tên thương mại của chủ thể này phải đảm bảo điều kiện không
gây nhầm lẫn với tên thương mại của chủ thể khác đã đăng ký kinh doanh trên
cùng địa bàn và trong một lĩnh vực.
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa tên thương mại và nhãn hiệu có thể thấy qua
tiêu chí quy định về khả năng phân biệt của tên thương mại và nhãn hiệu. Tên
thương mại và nhãn hiệu muốn được bảo hộ thì phải có khả năng phân biệt.
Theo điều 74, khoản 2 (k) Luật SHTT thì nhãn hiệu bị coi là không có khả năng
phân biệt nếu có “dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được
sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho

người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ”. Ngược lại, theo khoản 3 Điều
78 Luật SHTT thì tên thương mại chỉ được coi là có khả năng phân biệt nếu
“không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác”.
Một nhãn hiệu không bắt buộc phải đọc, phải phát âm được, còn tên thương
mại yếu tố này là bắt buộc. Đối với tên thương mại, yếu tố màu sắc cũng không
được đặt ra. Hơn nữa về cấu tạo, tên thương mại bao giờ cũng gồm phần mô tả
(chỉ loại hình tổ chức hoặc hình thức tồn tại của chủ thể kinh doanh hoặc xuất
xứ địa lý) và thành phần phân biệt (chỉ tên riêng của chủ thể kinh doanh), còn
nhãn hiệu không có phần mô tả mà chỉ có tính phân biệt [7, tr 58]. Ví dụ: Công
ty cổ phần chế biến dịch vụ thủy sản Cát Hải. Địa chỉ: Thị trấn Cát Hải, Huyện
Cát Hải, thành phố Hải Phòng, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa: “CAT HAI”.
Vì vậy, tên thương mại và nhãn hiệu là hai khái niệm khác nhau nhưng
thành phần phân biệt của tên thương mại có thể được sử dụng làm nhãn hiệu,
nếu nó bảo đảm các yêu cầu của nhãn hiệu. Một doanh nghiệp có thể sản xuất
nhiều loại hàng hóa hoặc kinh doanh nhiều loại dịch vụ khác nhau; do đó doanh
nghiệp đó có thể có một hoặc nhiều nhãn hiệu. Tuy nhiên, một doanh nghiệp
chỉ có một tên thương mại. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam thường lấy tên
thương mại để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Ví dụ:
Công ty trách nhiệm hữu hạn hóa mỹ phẩm Mỹ Hảo sử dụng thành phần phân
biệt trong tên thương mại là “Mỹ Hảo” để đăng ký nhãn hiệu cho các sản phẩm
của mình như: nước rửa chén Mỹ Hảo, nước giặt đậm đặc Mỹ Hảo.
1.3.2. Phân biệt nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý (Geographical Indications)
Nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đều là đối tượng SHCN được bảo hộ và đều
được dùng để chỉ dẫn nguồn gốc sản phẩm. Khoản 22 Điều 4 Luật SHTT 2005
quy định: “Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu
vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”.
Như vậy, chỉ dẫn địa lý là để thông tin về nguồn gốc, xuất xứ địa lý của sản
phẩm, do đó nó cũng có khả năng phân biệt nên việc phân biệt nhãn hiệu và chỉ
dẫn địa lý là cần thiết. Nhãn hiệu giúp người tiêu dùng xác định doanh nghiệp
nào cung cấp hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu hàng hoá trên thị trường. Trong

khi đó, chỉ dẫn địa lý giúp người tiêu dùng xác định một khu vực địa lí cụ thể
mà trên đó một hoặc một số doanh nghiệp đóng trụ sở và các doanh nghiệp này
sản xuất hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý đó và các sản phẩm của họ có chất lượng
đặc thù.
Chỉ dẫn địa lý có thể là các dấu hiệu từ ngữ, tuy nhiên khác với nhãn hiệu
có thể là những từ ngữ bất kỳ, kể cả các từ không có nghĩa, dấu hiệu từ ngữ chỉ
có thể sử dụng làm chỉ dẫn địa lý nếu nó chỉ dẫn đến một khu vực địa lý nhất
định, ví dụ: nước mắm Phú Quốc, gạo tám xoan Hải Hậu. Chỉ dẫn địa lý cũng có
thể là các dấu hiệu hình ảnh hoặc biểu tượng mô tả một khu vực địa lý. Chúng
gián tiếp thông tin về nguồn gốc của sản phẩm, có khả năng làm người tiêu dùng
liên tưởng đến một khu vực địa lý nhất định, mà khu vực đó lại có mối liên hệ
với những đặc điểm riêng biệt của hàng hóa. Tuy nhiên, những hình ảnh hoặc
biểu tượng này phải thực sự nổi tiếng và được biết đến rộng rãi thì mới bảo đảm
được chức năng chỉ dẫn về nguồn gốc sản phẩm [2, tr 109, 110].
Một nhãn hiệu có thể hàm chứa chỉ dẫn địa lý hoặc một chỉ dẫn địa lý được
bảo hộ như một loại nhãn hiệu. Khoản 3 Điều 80 Luật SHTT quy định :“không
bảo hộ những chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang được
bảo hộ nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện sẽ gây nhầm lẫn về
nguồn gốc sản phẩm”.
Đối với nhãn hiệu, người chủ sở hữu nhãn hiệu được độc quyền sử dụng,
có quyền định đoạt đối với nhãn hiệu và nghiêm cấm người khác sử dụng hoặc
cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu mà mình đã đăng ký bảo hộ. Còn chỉ
dẫn địa lý là đối tượng không được độc quyền sử dụng, vì vậy người sử dụng chỉ
dẫn địa lý không được quyền chiếm hữu, định đoạt mà chỉ có quyền sử dụng..
1.3.3. Phân biệt nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp (Industrical Designs)
Là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp, định nghĩa kiểu dáng công
nghiệp được quy định tại Khoản 13 Điều 4 Luật SHTT 2005: “Kiểu dáng công
nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối,
đường nét, màu sắc hoặc kết hợp các yếu tố này”.
Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện: có

tính mới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp (Điều 63 Luật
SHTT). Như vậy, kiểu dáng công nghiệp là những hoạt động sáng tạo nhằm tạo
ra một hình dáng trang trí bên ngoài cho những hàng hóa được sản xuất hàng
loạt, đảm bảo được điều kiện là hàng hóa đó phải hấp dẫn người tiêu dùng về thị
giác và phải thể hiện một cách có hiệu quả chức năng kỹ thuật đã định trước.
Trong khi đó, nhãn hiệu là các dấu hiệu nhìn thấy được và có khả năng phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Kiểu dáng công nghiệp
thuộc nhóm các đối tượng sở hữu công nghiệp phải đáp ứng điều kiện nhất định
về tính sáng tạo, còn nhãn hiệu thuộc nhóm các đối tượng sở hữu công nghiệp
có tính thương mại. Tuy nhiên, cũng giống nhãn hiệu, hình khối, đường nét, màu
sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó cũng dùng để thể hiện hình dáng bên ngoài
của kiểu dáng công nghiệp. Những kiểu dáng chỉ là sự kết hợp đơn thuần các
đặc điểm tạo dáng đã biết hoặc các hình học đơn giản (hình vuông, hình tròn,
elip…) hoặc sao chép hình dáng các sản phẩm, công trình đã nổi tiếng hoặc
được biết đến rộng rãi ở Việt Nam và thế giới thì không được bảo hộ.

×