Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Tại sao lại có hiện tượng xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.59 KB, 4 trang )

I. MỞ ĐẦU
Mỗi quốc gia đều tự xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng nhằm
khẳng định chủ quyền cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân nước mình.. Tuy
nhiên, giữa các hệ thống pháp luật này luôn có sự khác nhau, thậm trí là trái ngược
nhau do nhiều nguyên nhân. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, ít hay nhiều
các quốc gia sẽ xích lại gần nhau để cùng hợp tác và phát triển . Ở đó, xung đột
pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều HTPL đồng thời đều có thể áp dụng đề điều
chỉnh một QHPL nào đó. Trong phạm vi bài viết này, em xin làm rõ vấn đề: “Tại
sao lại có hiện tượng xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế ?”.
II. NỘI DUNG
1, Khái niệm xung đột pháp luật trong TPQT
Hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng có thể được áp
dụng để điều chỉnh các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài
được gọi là hiện tượng xung đột pháp luật.
2. Nguyên nhân làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật:


Quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại và tố
tụng dân sự có yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng quy phạm thực
chất thống nhất.
Việc xây dựng và hình thành các quy phạm thực chất thống nhất của các
quốc gia khác nhau là rất cần thiết, nó làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu sự khác
biệt trong luật pháp của các quốc gia và có tính chất đơn giản hóa và hữu hiệu hóa
trong điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế. Trong những trường hợp nhất định
nếu cứ áp dụng luật trong nước để điều chỉnh thì rất khó giải quyết và thậm chí có
trường hợp không thể giải quyết nổi, trong khí đó các điều ước quốc tế mà trong đó
có các quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như
các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế sẽ chiếu theo đó để xem xét và giải
quyết thực chất vấn đề trên cơ sở áp dụng ngay các quy phạm đó. Nó cũng loại trừ
việc phải chọn luật và áp dụng luật nước ngoài nữa, mà áp dụng ngay các quy
phạm điều ước đó.




Có thể nói, quy phạm thực chất đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế
những xung đột pháp luật giữa các nước, nó là căn cứ pháp lý chung để các quốc
gia làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, khi
các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, thương mại và tố tụng dân sự có
yếu tố nước ngoài không được điều chỉnh bằng quy phạm thực chất sẽ dẫn đến
những xung đột pháp luật giữa các quốc gia.
Có sự khác nhau về nội dung trong pháp luật của các nước; hoặc có sự
khác nhau trong việc giải thích và áp dụng những quy định giống nhau về mặt
hình thức.
Sự phát triển về mặt kinh tế, chính trị, xã hội tạo ra những khác biệt trong
quy định của pháp luật các nước, hay nói cách khác chính những sự khác biệt này
các quốc gia sẽ phải xây dựng cho mình hệ thống pháp luật phù hợp với những
quan hệ đó nhằm điều chỉnh xã hội. Ví dụ: tuổi kết hôn, theo luật pháp Việt Nam là
nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên thì mới có quyền kết hôn. Trong khi
tại Pháp độ tuổi này là 18 không phân biệt nam hay nữ. Như vậy nếu một công dân
nam Việt Nam 19 tuổi muốn kết hôn cùng 1 công dân nữ Pháp 18 tuổi, họ có thể
đăng ký kết hôn tại Pháp, nhưng khi có tranh chấp phát sinh trong quan hệ hôn
nhân diễn ra tại Việt Nam thì mối quan hệ hôn nhân này có thể không được toà án
Việt Nam công nhận. Trong ví dụ trên, mặc dù cùng điều chỉnh nhóm quan hệ trong
lĩnh vực hôn nhân nhưng giữa pháp luật Việt nam và Pháp về tuổi kết hôn, nhưng
nội dung trong quy định lại có sự khác nhau trong việc xác định độ tuổi có quyền
kết hôn. Có thể nói, mặc dù cùng điều chỉnh chung một vấn đề nhưng nội dung
trong pháp luật của các nước có quy định khác nhau, chính điều này đã tạo nên
xung đột pháp luật giữa các nước.
Một trong những nguyên nhân khác gây nên xung đột pháp luật giữa các
quốc gia đó là sự khác nhau trong việc giải thích và áp dụng những quy định
giống nhau về mặt hình thức. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa, sự giao lưu
giữa các quốc gia trong khu vực cũng như hội nhập quốc tế giữa các quốc gia trên

thế giới ngày càng phát triển, các nước có sự hợp tác về nhiều lĩnh vực khác nhau
điều này giúp các nước giao lưu, học hỏi và tiếp thu những kinh nghiệm, những
tiến bộ về tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực pháp luật. Do vậy, mặc dù có sự
khác nhau về những yếu tố nội dung nhưng do tiếp thu những tiến bộ của kĩ thuật


lập pháp giữa các nước vẫn có những quy định giống nhau về mặt hình thức. Tuy
nhiên, trong việc giải thích và áp dụng luật các nước lại có những quan điểm, cách
thức khác nhau trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh. Chính những yếu tố này
đã tạo nên xung đột pháp luật giữa các nước trong việc giải quyết các vấn đề trong
Tư pháp quốc tế.
. Do sự khác biệt giữa các nước về kinh tế, chính trị, xã hội: theo quan
điểm của triết học Mác – Leenin, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Do đó, đối với mỗi quốc
gia sự phát triển kinh tế là khác nhau chính vì vậy dẫn đến các yếu tố về hệ thống
pháp luật, chính trị là khác nhau; các nước đều có những quan điểm về chính trị,
pháp quyền, đạo đức, tôn giáo... là khác nhau do đó cũng có sự khác biệt trong sự
vận động của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế phát triển kéo theo cả một hệ thống pháp
luật được xây dựng hoàn thiện, phát triền và ngược lại nếu nền kinh tế lạc hậu, kém
phát triển thì hệ thống pháp luật cũng có những yếu kém, hạn chế nhất định. sự
dung hòa trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ tư pháp quốc tế
có thể được giải quyết nếu các nước có sự phát triển tương đương về mặt kinh tế,
xã hội. Chính những sự khác biệt về kinh tế, chính trị, xã hội đã tạo ra một rào cản
trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết chung một vấn đề phát sinh giữa các
nước.
III. KẾT LUẬN
Sự hợp tác quốc tế về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện thực tất yếu khách
quan trong mọi thời đại, nhất là trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay. Tìm
hiêủ về nguyên nhân xảy ra xung đột góp phần lựa phương pháp giải quyết phù

hợp. Việt Nam, một quốc gia đang trên đà phát triển cũng không nằm ngoài xu
hướng đó. Xét về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn, TPQT ở các quốc gia khác nhau
còn có nhiều sự khác biệt, điều này tạo ra những rào cản, hạn chế sự giao lưu, hợp
tác giữa các quốc gia. Do đó, TPQT Việt Nam cần không ngừng củng cố và hoàn


thiện hơn nữa, nhất là với việc xây dựng ra một phương pháp giải quyết XĐPL
khách quan, hợp lý.



×