Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 thực hiện tốt phép chia số thập phân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.68 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong các môn học ở Tiểu học môn Toán có vị trí rất quan trọng vì cácc kiến
thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống rất cần thiết
cho người lao động và để học sinh học các môn học khác ở bậc Tiểu học, đồng thời để
các em học tiếp môn Toán ở các bậc học trên. Môn Toán giúp học sinh nhận biết
những mối quan hệ về số lượng và hình dạng của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học
sinh có phương pháp nhận thức một số mặt ở thế giới xung quanh và biết cách hoạt
động có hiệu quả trong đời sống. Ngoài ra, môn Toán còn góp phần rất quan trọng
trong việc rèn luyện cho học sinh phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận,
phương pháp giải quyết vấn đề; nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ
độc lập, linh hoạt, sáng tạo, góp phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và
quan trọng của người lao động như: tính cần cù, cẩn thận, óc sáng tạo, tinh thần vượt
khó và phương pháp làm việc khoa học .
Cụ thể là: từ gần nửa học kì I, học sinh lớp 5 mới bắt đầu được làm quen với
khái niệm về số thập phân và học về các phép tính với số thập phân; sau đó vận dụng
các phép tính này vào tính giá trị biểu thức và giải toán xuyên suốt chương trình toán
của lớp 5. Mà khái niệm về số thập phân khá trừu tượng và các phép tính với số thập
phân là khó nhất với học sinh, trong đó đặc biệt là phép chia số thập phân.
Thực tế cho thấy rằng, khi học về nội dung này không ít học sinh gặp khó
khăn. Không chỉ với học sinh đại trà mà ngay cả học sinh có năng khiếu cũng mắc sai
lầm khi thực hiện các phép tính với số thập phân nói chung và phép chia số thập phân
nói riêng. Vì trong bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia của toán học kể cả với số tự
nhiên thì phép tính chia là khó nhất, dễ sai nhất đối với học sinh. Phép chia khó vì khi
thực hiện phép chia học sinh vừa phải nhẩm để tìm thương vừa phải kết hợp cả phép
trừ và phép nhân để tính. Như vậy, trong một bài toán học sinh phải kết hợp đồng thời
vừa nhẩm thương vừa cả trừ, nhân, chia một cách thành thạo thì mới có thể làm đúng được.
Hơn nữa, đối với phép chia với số thập phân thì càng khó hơn nữa vì nó có 4
trường hợp chia đó là : Chia một số thập phân cho một số tự nhiên; Chia một số tự
nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là một số thập phân; Chia một số tự
nhiên cho một số thập phân; Chia một số thập phân cho một số thập phân, chứ


không đơn giản như chia số tự nhiên đã được học ở các lớp dưới. Vì vậy, khi chia học
sinh thường lẫn lộn trường hợp này với trường hợp khác dẫn đến sai đáp số. Mặt
khác, nếu các em thực hiện các phép tính này không thành thạo thì khó tiếp thu
1


chương trình toán 5 theo quy định. Hơn nữa còn ảnh hưởng tới việc học lên các bậc
học trên cũng như việc vận dụng kiến thức và kĩ năng toán học vào trong thực tiễn
cuộc sống hằng ngày của các em.
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, mà nền tảng
có vững chắc thì hiệu quả đào tạo các bậc học trên mới đạt yêu cầu. Vì vậy muốn xây
dựng nền tảng vững chắc thì ngay ở bậc Tiểu học người giáo viên phải có ý thức bồi
dưỡng kiến thức cơ bản đạt chuẩn cho từng môn học quy định trong chương trình cho
học sinh. Trong đó, môn Toán là môn đòi hỏi kiến thức cơ bản phải đạt chuẩn rất cao,
nhất là đối với các phép tính về số thập phân vì khả năng ứng dụng các phép tính với
số thập phân là rất lớn mà số thập phân là một nội dung vừa mới và lại vừa khó đối với
học sinh tiểu học .
Hiện tại trong quá trình sinh hoạt chuyên môn của nhà trường chưa bàn sâu
vào vấn đề này, đồng nghiệp chưa có kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục.
Chính vì những lí do trên mà là một giáo viên trực tiếp giảng dạy giảng dạy, tôi
luôn băn khoăn, suy nghĩ để có thể góp phần vào việc từng bước đẩy lùi thực trạng nói
trên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, bắt đầu
từ năm học 2016 - 2017 tôi đã chọn và tập trung đi sâu nghiên cứu đề tài : “Một số
biện pháp giúp học sinh lớp 5 thực hiện tốt phép chia số thập phân” và đến năm
học 2017- 2018, tôi bắt đầu áp dụng những biện pháp mà mình đã nghiên cứu vào quá
trình giảng dạy của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng dạy học toán và nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của
học sinh khi thực hiện phép chia số thập phân. Từ đó tìm ra cách giải pháp giúp học
sinh có khả năng thực hiện phép chia nói chung và phép chia với số thập phân nói riêng.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các dạng phép tính chia số thập phân trong chương trình Toán ở khối lớp 5 nói
chung và lớp 5B tại trường tiểu học Trí Nang năm học 2017- 2018 nói riêng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp luyện tập thực hành
- Phương pháp kiểm tra đánh giá

2


2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 THỰC HIỆN TỐT
PHÉP CHIA SỐ THẬP PHÂN
2.1. Cơ sở lí luận
Môn Toán có một hệ thống kiến thức cơ bản rất cần thiết cho đời sống sinh hoạt
và lao động. Những kiến thức, kỹ năng Toán học là những công cụ cần thiết để học các
môn học khác và để ứng dụng trong thực tiễn. Toán học có khả năng to lớn trong giáo
dục học sinh về nhiều mặt như: phát triển tư duy lôgic, bồi dưỡng, phát triển những
năng lực trí tuệ (trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích – tổng hợp, chứng minh…);
ngoài ra, còn giúp học sinh suy nghĩ, làm việc khoa học và góp phần giáo dục những
phẩm chất, đức tính tốt đẹp của người lao động.
Giáo dục Toán học là một bộ phận của giáo dục Tiểu học. Do đó, môn Toán có
nhiệm vụ góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của bậc học, đó là : Trang
bị cho học sinh một hệ thống kiến thức và kỹ năng cơ bản, cần thiết cho việc học tiếp
lên lớp trên hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Vận dụng kiến thức vào các hoạt động thực tiễn trong đời sống, từng bước hình
thành, tác phong làm việc khoa học.
Ngoài ra, Toán 5 vừa kế thừa và phát huy các phương pháp dạy học Toán đã sử
dụng trong giai đoạn ở các lớp 1, 2, 3, 4 đồng thời tăng cường sử dụng các phương
pháp dạy học giúp học sinh tự nêu các nhận xét, các quy tắc, các công thức ở dạng

khái quát hơn so với các lớp dưới. Đây là cơ hội tiếp tục phát triển năng lực trừu tượng
hóa, khái quát hóa trong học môn Toán ở đầu giai đoạn các lớp 4, 5; tiếp tục phát triển
khả năng diễn đạt và tập suy luận của học sinh theo mục tiêu môn Toán ở lớp 5.
Vận dụng đổi mới phương pháp để hình thành cho học sinh kỹ năng tính toán
năng động, phát huy tính sáng tạo trong học tập. Học sinh sẽ khắc sâu được kiến thức
lâu bền, có hệ thống chặt chẽ để tiếp tục học lên lớp trên và sâu xa hơn nữa là tạo
nguồn nhân lực cho tương lai vì đây sẽ là những con người có óc sáng tạo và làm việc
khoa học, năng động.
Đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học là các em vẫn còn ham chơi hơn là thích
học. Các em chỉ thích học những môn Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, … Vì các môn
này học sinh ít phải tư duy mà có thể vừa học vừa chơi. Còn đối với môn Toán nói
chung và các phép tính về số thập phân nói riêng thường chỉ là những bài toán, những
con số rất trừu tượng đòi hỏi phải tư duy nhiều thì các em mới làm được. Vì vậy, nếu
giáo viên không có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp thì dẫn đến làm
3


cho các em dễ chán nản, không chịu khó suy nghĩ tìm ra cách làm. Mà theo nguyên lý
giáo dục là “Học đi đôi với hành”, có thực hành nhiều thì các kiến thức các em lĩnh
hội được trên ghế nhà trường các em mới dễ dàng vận dụng vào thực tiễn cuộc sống,
giải quyết tốt các vấn đề thường gặp.
Những tình huống đó cần phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và trình độ
nhận thức của học sinh. Biết dẫn dắt các em tự tìm ra cái mới để mỗi ngày các em mỗi
trưởng thành hơn. Mà mức độ cần đạt với dạy chia số thập phân ở lớp 5 là: Biết thực
hiện phép chia, thương là số tự nhiên hoặc số thập phân không quá ba chữ số ở phần
thập phân trong các trường hợp: Chia số thập phân cho số tự nhiên; chia số tự nhiên
cho số tự nhiên mà thương tìm được là số thập phân; chia số tự nhiên cho số thập
phân; chia số thập phân cho số thập phân; chia nhẩm một số thập phân cho 10; 100;
1000; … hoặc cho 0,1; 0,01; 0,001; …
2.2. Thực trạng

2.2.1.Thuận lợi
- Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập;
- Nhà trường có đồ dùng cần thiết cho giáo viên để phục vụ cho nghiên cứu và
giảng dạy;
- Phòng học đạt chuẩn theo quy định. Có hệ thống điện sáng phụ vụ cho quá
trình học tập;
- Ngoài ra, hàng tuần các tổ sinh hoạt chuyên môn để tìm ra và thống nhất các
phương pháp dạy học thích hợp, đồng thời tổ chức các buổi thao giảng, dự giờ thăm
lớp thường xuyên. Đây là cơ hội cho các giáo viên trong tổ nói riêng và trong trường
nói chung trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao chất lượng giáo dục.
2.2.2. Khó khăn
- Lớp 5B do tôi chủ nhiệm 100% học sinh là con em dân tộc thiểu số sống ở
vùng nông thôn đời sống còn khó khăn. Mặt bằng dân trí nói chung thấp các em phải
tự học không có sự giúp đỡ từ phía phụ huynh, việc học tập đa phần phó mặc cho thầy
cô trên lớp;
- Qua thời gian trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy nhiều học sinh thực hiện chưa
thành thạo 4 phép tính với số tự nhiên. Thậm chí, một số em chưa thuộc bảng nhân,
bảng chia. Cụ thể đối với phép chia như sau:
+ Kỹ năng thực hiện phép chia các số tự nhiên của học sinh còn chậm và yếu;
+ Phần lớn các em chưa có kỹ năng ước lượng thương trong phép chia;
+ Khi chia, một số em còn để số dư lớn hơn hoặc bằng số chia;
4


+ Khi hạ một chữ số tiếp theo ở số bị chia để thực hiện phép chia mà vẫn chưa
chia được các em không viết 0 vào thương mà cứ thế chia tiếp.
- Tư duy của học sinh Tiểu học đang trong quá trình hình thành và phát triển,
còn ở trong giai đoạn tư duy cụ thể nên việc nhận thức các kiến thức toán học trừu
tượng là vấn đề khó.
- Các phép tính liên quan đến số thập phân là nội dung hoàn toàn mới đối với

học sinh..
- Nội dung này còn khá trừu tượng nên khi làm bài các em cần phải tư duy
nhiều mới làm được.
- Nhiều học sinh thường hay chán nản hoặc làm qua loa cho xong chuyện. Đặc
biệt, khi thực hiện các phép chia với số thập phân và giải các bài toán liên quan đến
chia số thập phân, học sinh còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế và thường mắc phải
những sai lầm khác nhau. Cụ thể là:
+ Khi lấy chữ số đầu tiên ở phần thập phân của số bị chia vào thực hiện phép
chia nhưng không viết dấu phẩy vào bên phải thương (Trong trường hợp chia một số
thập phân cho một số tự nhiên);
+ Khi viết thêm 0 vào bên phải số dư để tiếp tục thực hiện phép chia nhưng quên
không viết dấu phẩy vào thương (Trong trường hợp chia một số tự nhiên cho một số
tự nhiên mà thương tìm được là một số thập phân);
+ Chưa viết thêm 0 vào bên phải số bị chia mà đã bỏ dấu phẩy ở số chia và thực
hiện phép chia (Trong trường hợp chia một số tự nhiên cho một số thập phân);
+ Chuyển dấu phẩy ở số bị chia sai (Trong trường hợp chia một số thập phân cho
một số thập phân);
+ Nhầm lẫn giữa các trường hợp chia các số thập phân;
- Chia nhẩm một số thập phân cho 10 , 100, 1000, ... hoặc cho 0,1; 0,01; 0,001; . .
. thường nhầm với nhân nhẩm một số thập phân với 10, 100, 1000, ... hoặc với 0,1;
0,01; 0,001; . . .
+ Dịch chuyển dấu phẩy sai trong chia nhẩm (dịch thiếu hoặc thừa chữ số);
+ Khi dịch dấu phẩy sang trái (hoặc phải) mà số các chữ số ở phần nguyên (hoặc
phần thập phân) còn thiếu nhưng không viết thêm 0 vào bên trái (hoặc bên phải) số bị chia.
2.2.3. Kết quả khảo sát môn toán cuối kì 1: về phép chia số thập phân năm học
2016- 2017 của lớp 5B:
Tổng số
học sinh
19


Hoàn thành tốt
SL
2

Tỉ lệ
10,53%

Hoàn thành
SL
9

Tỉ lệ
47,37%

Chưa hoàn thành
SL
8

Tỉ lệ
42,1%
5


2.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên
Qua điều tra, khảo sát, tôi thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Song ở đây tôi chỉ đưa ra một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Việc nhận thức vị trí, vai trò của môn học đối với các em còn chưa đúng và
chưa sâu sắc, từ đó các em chưa trú trọng vào môn học nên học còn mang tính chất
đối phó, bắt buộc.
- Kỹ năng thực hiện phép cộng, trừ, nhân, chia các số tự nhiên còn chậm và yếu.

- Việc lĩnh hội, nắm bắt kiến thức của các em ở các nội dung trước còn chưa đầy
đủ, chưa vững chắc, chẳng hạn như: Kỹ năng chia nhẩm, kỹ năng ước lượng thương
trong phép chia còn chậm, yếu do chưa thuộc bảng nhân, chia và còn thiếu kinh
nghiệm, ...
- Việc thực hành - luyện tập và rèn luyện kỹ năng chưa thường xuyên mà đặc
điểm nhận thức của học sinh tiểu học là các em nhanh nhớ nhưng cũng chóng quên
nếu không được thực hành - luyện tập thường xuyên.
Bên cạnh những nguyên nhân trên, còn một số nguyên nhân khác cũng có ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng của các em như: đôi khi giáo viên vận dụng phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học còn chưa linh hoạt, chưa phù hợp; có lúc giáo viên
còn chưa quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh sát từng đối
tượng học sinh. Mặt khác, các em chưa được quan tâm đúng mức của phụ huynh học sinh.
Vì vậy, tôi nhận thấy, muốn khắc phục tình trạng nêu trên để đạt được những yêu
cầu về mục tiêu dạy học môn Toán lớp 5 nói chung và dạy phép chia số thập phân nói
riêng, chúng ta cần phải có một số biện pháp rèn kĩ năng thực hiện phép chia các số
thập phân cho học sinh một cách phù hợp.
Sau đây là một số giải pháp cụ thể giúp học sinh lớp 5 thực hiện tốt phép chia các
số thập phân mà tôi đã và đang thực hiện.
2.3. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 thực hiện tốt phép chia số thập phân
2.3.1. Biện pháp thứ nhất: Thiết lập, tổ chức và xây dựng nề nếp lớp học
Ngay từ đầu năm học, tôi tiến hành tìm hiểu đặc điểm tình hình của lớp qua giáo
viên chủ nhiệm năm trước và thông qua quá trình giảng dạy trên lớp, tôi đã lựa chọn ra
được đội ngũ cán sự lớp thực sự có năng lực: Những em có học lực khá hoặc giỏi; vừa
có năng lực quản lí, tổ chức, hướng dẫn các bạn trong lớp. Đồng thời, căn cứ vào kết
quả khảo sát đầu năm học,tôi chia lớp thành 3 tổ. Các tổ này về số lượng và xếp loại
học lực tương đương nhau. Ngoài ra, tôi còn xếp những em học khá, giỏi ngồi cạnh
6


những em tiếp thu bài chậm để các em kèm cặp, giúp đỡ nhau trong quá trình học tập

ở lớp cũng như ở nhà.
Mặt khác, tôi nhận thấy nề nếp lớp học là rất quan trọng. Nó góp phần quyết định
đến chất lượng học tập của lớp nói chung và của mỗi học sinh nói riêng, nhất là chất
lượng học toán của các em. Vì nếu như các em đi học không chuyên cần thì các em sẽ
bị hổng kiến thức ngay bài các em nghỉ. Do vậy, trong lớp tôi thường xuyên động viên
học sinh đi học chuyên cần, chỉ nghỉ học khi ốm đau hoặc khi có lí do thật cần
thiết.Trường hợp nếu phải nghỉ học, tôi hoặc nhờ học sinh khác tranh thủ thời gian phụ
đạo thêm cho các em những bài học mà các em nghỉ học. Mặt khác, trong giờ học, nếu
các em không tập trung chú ý nghe giảng hoặc không tích cực học tập thì kết quả học
tập sẽ không tốt. Vì vậy ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng nề nếp lớp ngồi học
nghiêm túc, chú ý lắng nghe giáo viên giảng bài, hăng say phát biểu ý kiến để xây dựng
bài. Mà muốn làm được việc này tôi luôn tuyên dương, nhắc nhở kịp thời khi thấy các
em nghiêm túc hoặc chưa nghiêm túc trong quá trình học tập.
2.3.2. Biện pháp thứ hai: Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của môn Toán nói
chung và về chia số thập phân nói riêng
- Tuy nhiên, mỗi môn học đều có vị trí và vai trò nhất định nhưng tôi thấy môn
Toán ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng nó có vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng vì ứng dụng của nó vào thực tiễn cuộc sống là rất lớn. Vì vậy, ngay từ đầu năm
học tôi nêu rõ tầm quan trọng của môn Toán để từ đó có những hướng dẫn và định
hướng đúng cho học sinh. Riêng đối với phép chia các số thập phân, khi học đến phần
này tôi nêu rõ: phép chia các số thập phân có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng vì thực
hiện tốt phép tính này xem như các phép tính về số thập phân cũng như với số tự nhiên
các em đã nắm vững. Hơn nữa, nó còn xuyên suốt cả quá trình học môn toán ở lớp 5
của các em. Ngoài ra, ứng dụng của phép chia số thập phân trong thực tiễn là rất lớn,
nếu các em không học tốt phần này thì việc học chương trình toán 5 của các em sẽ
không đạt được yêu cầu và các em sẽ không vận dụng được kiến thức vào bài học vào
thực tiễn.
- Khi lựa chọn những nội dung dạy học, ngoài việc tổ chức, hướng dẫn để học
sinh tiếp thu được những nội dung , kiến thức trong sách giáo khoa, giáo viên cần gắn
nội dung bài học với thực tiễn bằng cách: đưa ra những nội dung thật gần gũi với đời

sống hằng ngày của các em từ đó các em nhận thấy được vai trò của môn học nói
chung và môn Toán nói riêng.
Việc nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của môn toán không những với học sinh
mà còn với cả phụ huynh. phân tích để phụ huynh thấy được tầm quan trọng của môn
7


Toán lớp 5 nói chung và về chia số thập phân nói riêng. Từ đó yêu cầu phụ huynh học
sinh phải mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập cho các em.
2.3.3. Biện pháp thứ ba: Tạo hứng thú và lòng ham muốn học tập cho học sinh
Để thực hiện được việc này một cách có hiệu quả, trong quá trình dạy học, tôi
luôn tạo ra một không khí tự nhiên, thoải mái cho lớp học. Phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh, tạo điều kiện để tất cả các em
có thể tự tìm được cách giải quyết. Khi hướng dẫn học sinh tìm tòi kiến thức mới, tôi
luôn tạo ra những tình huống có vấn đề dẫn học sinh đến những thắc mắc để rồi các
em tìm cách giải quyết. Đồng thời, tôi thường xuyên tổ chức các trò chơi học tập
trong các tiết học nói chung và tiết học toán nói riêng để gây hứng thú và lòng ham
muốn học tập cho các em.
Ví dụ: Khi dạy bài : “Chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm
được là một số thập phân”, sau khi học sinh làm được bài tập 1 và bài tập 2 theo yêu
cầu của bài, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: “Ai nhanh, ai đúng” như sau:
Tôi đưa ra bài toán: Mẹ có 13 cái bánh, mẹ chia đều số bánh này cho hai chị em. Hỏi
mỗi người được bao nhiêu cái bánh?
Sau đó tôi cho học sinh thi tính nhanh rồi điền kết quả vào bảng con để giáo viên
kiểm tra – Trong thời gian 1 phút, em nào tìm ra kết quả nhanh và đúng thì tôi thưởng
một bông hoa điểm mười .
2.3.4. Biện pháp thứ tư: Ôn tập, củng cố và rèn kĩ năng thực hành cộng, trừ, nhân,
chia số tự nhiên
Trong chương trình toán lớp 5, đầu năm học không có nội dung ôn tập, củng cố
các phép tính về số tự nhiên cho học sinh mà đặc điểm của học sinh tiểu học là các em

nhanh nhớ nhưng cũng chóng quên nếu không được ôn tập, củng cố thường xuyên. Từ
đó, tôi nhận thấy rằng đây là một khó khăn lớn cho học sinh khi học về các phép tính
với số thập phân nói chung và phép chia số thập phân nói riêng. Vì nếu các phép tính về
số tự nhiên các em không thành thạo thì không thể học được các phép tính về số thập
phân, nhất là phép chia. Xác định được vấn đề này, ngay từ đầu năm học, tôi đã lồng
ghép việc rèn kĩ năng thực hành các phép tính về số tự nhiên vào các buổi sinh hoạt
ngoại khoá hoặc sinh hoạt 15 phút đầu giờ. Nếu thấy em nào thực hiện còn yếu hoặc
chậm thì tôi tranh thủ kèm thêm trong các tiết học toán trên lớp. Đồng thời phân công
học sinh khá, giỏi trong lớp thường xuyên kèm cặp, giúp đỡ và giao thêm bài tập về nhà
rồi lên lớp giáo viên tranh thủ kiểm tra và chữa bài cho các em. Nội dung ôn tập, củng
cố tôi đưa theo trình tự từ dễ đến khó để nâng cao dần kĩ năng tính cho học sinh.
8


2.3.5. Biện pháp thứ năm: Rèn kĩ năng ước lượng thương cho học sinh
Trong khi hướng dẫn cách chia tôi luôn kết hợp hướng dẫn học sinh cách ước
lượng thương. Vì tôi nhận thấy, nêu trong quá trình thực hiện phép chia, kể cả chia số
tự nhiên hay số thập phân mà các em không có kĩ năng ước lượng thương thì tốc độ
làm bài của các em sẽ chậm, các em sẽ không hoàn thành bài theo đúng yêu cầu của
tiết học. Chính vì vậy mà ngay từ đầu năm học, khi hướng dẫn học sinh thực hiện
phép chia với số tự nhiên, tôi đã hướng dẫn các em cách ước lượng thương như sau:
a. Ước lượng bằng cách làm tròn giảm:
Cách này áp dụng cho trường hợp số chia có tận cùng là 1; 2; 3 ; hoặc 4 bằng
cách bớt 1; 2; 3 hoặc 4 đơn vị của số chia để số chia trở thành số tròn chục. Trong thực
tế là ta che bớt chữ số tận cùng của số chia đó đi đồng thời cũng che bớt chữ số tận
cùng của số bị chia để ước lượng thương.
Ví dụ: Muốn ước lượng thương của 72 : 24 ta làm tròn 72 thành 70 và 24 thành
20 rồi nhẩm 70 : 20 được 3 sau thử lại: lấy 24  3 = 72. Vậy 72 : 24 = 3.
Hoặc có thể ước lượng thương của 568 : 72 như sau : Số chia ta che chữ số 2 ; số bị
chia che chữ số 8 rồi nhẩm 56 : 7 = 8 ; sau đó thử lại : 72  8 = 576, ta thấy 576 > 568.

Vậy ước lượng thương bằng 8 là hơi thừa nên ta giảm xuống thương còn 7; thử lại :
72  7 = 504 ; rồi lấy 568 – 504 = 64 ; 64 < 72 nên 568 : 72 = 7 dư 64.
b. Ước lượng bằng cách làm tròn tăng:
Nếu số chia có tận cùng là 7; 8; 9 thì làm tròn tăng ( tức là thêm 3; 2; hoặc 1 đơn vị
vào số chia và số bị chia để số chia và số bị chia là những số tròn chục ) .
Ví dụ: Muốn ước lượng thương của 369 : 48 ta ước lượng như sau: 48 ta làm
tròn thành 50; 369 làm tròn thành 370. Ta thấy 370 và 50 đều là số tròn chục nên ta
lấy 37 : 5 được 7 rồi thử thương là 7 ta thấy 7  48 = 336.
So sánh 336 với 369 ta thấy 336 < 369; lấy 369 – 336 = 33; 33 < 48 . Vậy 369
chia 48 được 7 dư 33.
c. Ước lượng bằng cách làm tròn cả tăng lẫn giảm:
Nếu số chia có chữ số tận cùng là 5 hoặc 6 thì ta có thể cho học sinh làm tròn cả
tăng lẫn giảm rồi thử lại các số trong khoảng thương ước lượng này.
Ví dụ : Muốn ước lượng thương của 245 : 46 ta làm như sau:
Làm tròn giảm 46 thành 40 và làm tròn tăng 46 thành 50. Đồng thời làm tròn
giảm 245 thành 240. Vì các số sau khi làm tròn tăng hoặc giảm đều là những số tròn
chục nên ta nhẩm 24 : 4 được 6 và 24 : 5 được 4 . Vì 4 < 5 < 6 nên ta thử thương với 5
rồi lấy 46  5 = 230 , lấy 245 – 230 = 15 ; ta thấy 15 < 45.
Vậy : 245 : 46 = 5 (dư 15).
9


Cách làm này được tôi vận dụng thường xuyên khi thấy các em thực hiện chia
còn sai hoặc chậm. Làm như vậy sẽ hình thành cho học sinh kĩ năng chia không những
với số tự nhiên mà cả với số thập phân.
2.3.6. Biện pháp thứ sáu: Dạy cho học sinh nắm vững bốn dạng chia số thập phân
- Trong phép chia đối với số thập phân có 4 dạng chia:
+ Chia một số thập phân cho một số tự nhiên.
+ Chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là một số thập phân.
+ Chia một số tự nhiên cho một số thập phân.

+Chia một số thập phân cho một số thập phân.
- Khi dạy mỗi dạng chia này , tôi thường tiến hành theo các bước:
+ Bước 1:Hướng dẫn học sinh tìm hiểu một bài toán đơn dưới dạng tóm tắt để
học sinh tự rút ra được phép tính phù hợp với bài toán .
+ Bước 2: Bằng những câu hỏi gợi mở và dẫn dắt để học sinh thấy được sự cần
thiết phải chuyển phép chia với số thập phân thành phép chia với số tự nhiên.
+ Bước 3: Xây dựng kĩ thuật chia về cách đặt tính và tính.
+ Bước 4: Từ cách đặt tính rồi tính, học sinh rút ra quy tắc chia .
+ Bước 5: Tổ chức cho học sinh Thực hành - Luyện tập để vận dụng, củng cố
quy tắc vừa hình thành.
Ví dụ: Dạy bài: “Chia một số thập phân cho một số thập phân”, tôi tiến hành
như sau:
- Học sinh đọc ví dụ 1 ( SGK toán 5 trang 71)
- Giáo viên tóm tắt đề bài toán lên bảng:
Tóm tắt: 6,2 dm sắt : 23,56 kg
1 dm sắt : ….kg?
- GV hỏi : Muốn biết 1 dm sắt cân nặng bao nhiêu ki-lô-gam ta làm như thế nào?
Học sinh : Lấy 23,56 kg : 6,2
- Giáo viên ghi bảng : 23,56 : 6,2 = ? (kg)
- Giáo viên nêu vấn đề bằng cách : Hỏi : Làm thế nào để đưa phép chia về dạng
chia các em đã được học là chia một số thập phân cho một số tự nhiên?
Học sinh nêu: Nhân cả số bị chia và số chia với 10.
Học sinh thực hiện nhân nhẩm và nêu:
23,56 : 6,2 = (23,56  10) : ( 6,2  10)
23,56 : 6,2 =
235,6 : 62
GV hỏi : Các em hãy quan sát và nhận xét phép tính 23,56 : 6,2 và phép tính 235,6: 62.
10



- Học sinh nêu: Dấu phẩy ở số bị chia dời sang phải một chữ số còn dấu phẩy ở
số chia thì bỏ đi.
Giáo viên đặt phép chia và gợi ý cho học sinh nhận xét : phần thập phân của số
chia (6,2 ) có một chữ số nên chuyển dấu phẩy ở số bị chia ( 23,56) sang bên phải một
chữ số được 235,6 và bỏ dấu phẩy ở số chia (6,2) được 62.
- Hỏi : Các em nhìn phép tính 235,6 : 62 và cho biết đây là dạng nào của phép
chia số thập phân các em đã học? ( Dạng chia một số thập phân cho một số tự nhiên).
- Học sinh thực hiện phép chia : 1 em lên bảng thực hiện chia - Học sinh dưới
lớp làm vào bảng con - Nhận xét:
23,5,6
6,2
496
3,8 (kg)
00
- Từ việc thực hiện phép tính , học sinh nêu: 23,56 : 6,2 = 3,8(kg)
Ví dụ 2 : Giáo viên ghi bảng: 82,55 : 1,27 = ?
- Học sinh quan sát và nêu nhận xét : phần thập phân của số chia (1,27) có hai
chữ số ở phần thập phân nên em chuyển dấu phẩy ở số bị chia (82,55) sang phải hai
chữ số được 8255 và bỏ dấu phẩy ở số chia (1,27) được 127.
- GV hỏi : Như vậy ta được phép chia nào và nó có dạng nào? ( phép chia 8255 :
127 đây là dạng chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên)
- GV gọi 1 HS lên bảng thực hiện tính - Học sinh dưới lớp thực hiện vào bảng con:
82,55
1, 27
635
65
0
- GV hỏi: Vậy muốn chia một số thập phân cho một số thập phân ta làm như thế nào?
- Học sinh tự nêu: Muốn chia một số thập phân cho một số thập phân ta làm như
sau:

+ Đếm xem có bao nhiêu chữ số ở phần thập phân của số chia thì chuyển dấu
phẩy ở số bị chia sang phải bấy nhiêu chữ số.
+ Bỏ dấu phẩy ở số chia rồi thực hiên phép chia như chia số tự nhiên.
Tóm lại: Tuy phép chia số thập phân có bốn dạng nhưng khi dạy chúng ta cần
giúp học sinh đưa về hai dạng cơ bản là :
1) Chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là số thập phân.
2) Chia một số thập phân cho một số tự nhiên.
Do đó khi dạy, quan trọng là giáo viên cần hướng dẫn học sinh đưa về dạng nào. Vì

11


nếu học sinh nắm vững hai dạng cơ bản này thì khi chia các em sẽ không bị lẫn lộn.
Đồng thời, học sinh nhận thấy rằng khi đưa về hai dạng này thì số chia bao giờ cũng là
một số tự nhiên còn số bị chia có thể là số thập phân hoặc số tự nhiên.
Trong quá trình dạy để tránh học sinh lẫn lộn , trước tiên tôi cho học sinh xác
định bài toán thuộc trường hợp nào, và nhắc lại quy tắc đã học của trường hợp đó.
Ví dụ : 57,5 : 9 = ?
+ Học sinh xác định đây là trường hợp chia một số thập phân cho một số tự nhiên.
+ Học sinh nêu cách chia và thực hiện chia .
Hoặc: 172,4 : 1,42 = ?
+ Học sinh xác định đây là trường hợp chia số thập phân cho số thập phân .
+ Đưa về trường hợp chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên .
+ Thực hiện phép tính .
Hay: 90 : 4,25 = ?
Học sinh xác định: để thực hiện phép tính trên phải áp dụng quy tắc: Chia một
số tự nhiên cho một số thập phân .
Học sinh thực hiện thao tác đầu là đếm xem có bao nhiêu chữ số ở phần thập
phân của số chia thì viết thêm vào bên phải số bị chia bấy nhiêu chữ số 0 và bỏ dấu
phẩy ở số chia .

Ta có :
9000 4,25

Vậy bài toán đã đưa về trường hợp chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên
Hoặc: 9 ,152 : 4,65 = ?
Học sinh thực hiện thao tác đếm có hai chữ số ở phần thập phân của số chia thì
chuyển dấu phẩy ở số bị chia sang bên phải hai chữ số và bỏ dấu phẩy ở số chia .
Ta có:
98,15,2 4,65
Vậy bài toán đã đưa về trường hợp : Chia một số thập phân cho một số tự nhiên .
2.3.7. Biện pháp thứ bảy: Nắm được những sai lầm học sinh có thể mắc phải khi
thực hiện từng dạng chia số thập phân và cách tìm số dư của phép chia.
a. Đối với những sai lầm học sinh có thể mắc phải khi thực hiện từng dạng chia
số thập phân:
- Chia một số thập phân cho một số tự nhiên: Ở dạng chia này khi thực hành
chia học sinh thường mắc sai lầm là: Khi lấy đến chữ số đầu tiên ở phần thập phân của
12


số bị chia các em quên không đánh dấu phẩy vào thương nên để thương tìm được là số
tự nhiên. Hoặc khi hạ một chữ số tiếp theo của số bị chia nhưng được số không chia
hết cho số chia, các em quên không thêm không vào thương rồi mới hạ đến
chữ số tiếp theo để chia tiếp.
- Chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là một số
thập phân: khi thực hành chia, ngoài mắc những sai lầm như trường hợp thứ nhất,
học sinh còn có thể mắc sai lầm là: Khi chia còn dư như chia số tự nhiên mà các em đã
được học trước đây, để chia tiếp lẽ ra các em phải thêm tiếp 0 vào số dư đồng thời
đánh dấu phẩy vào thương rồi chia tiếp nhưng các em lại quên không đánh dấu phẩy
vào thương.
- Chia một số tự nhiên cho một số thập phân: khi thực hành chia ngoài mắc

những sai lầm như các trường hợp trên, học sinh còn có thể mắc sai lầm là: các em quên
không đếm xem ở phần thập phân của số chia có bao nhiêu chữ số để thêm vào bên phải
số bị chia bấy nhiêu chữ số 0, xoá dấu phẩy của số chia rồi chia như chia số tự nhiên mà
các em để cả dấu phẩy ở số chia để chia hoặc xoá dấu phẩy ở số chia nhưng không thêm
0 vào bên phải số bị chia hoặc thêm 0 nhưng chưa đúng.
- Chia một số thập phân cho một số thập phân: khi thực hành chia ngoài mắc
những sai lầm như các trường hợp trên, học sinh còn có thể mắc sai lầm là: các em xoá
dấu phẩy ở số chia nhưng chuyển dấu phẩy ở số bị chia sai. Đặc biệt là với trường hợp
mà số chữ số ở phần thập phân của số bị chia ít hơn số chữ số ở phần thập phân của số
chia, các em quên không thêm 0 vào bên phải của số bị chia.
Ví dụ : 32,5 : 1,25
Các em hay chuyển thành phép chia là : 32,5 : 1 ,25 hoặc 32,05 : 1 ,25
- Đối với Chia nhẩm một số thập phân cho 10, 100, 1000, . . . hoặc cho 0,1;
0,01; 0,001; . . . :
Ở các trường hợp chia nhẩm này các em hay nhầm lẫn với nhau nên dẫn đến
nhẩm sai quy tắc.
* Ví dụ 1:
57,63 : 100
- Tính đúng: 57,63 : 100 = 0,5763
- Tính sai:
57,63 : 100 = 5763 ;
57,63 : 100 = 5,763
57,63 : 100 = 0,05763 hoặc
57,63 : 100 = 57630
* Ví dụ 2:
57,63 : 0,001
- Tính đúng: 57,63 : 0,001 = 57630
- Tính sai: 57,63 : 0,001 = 0,05763 ;
57,63 : 0,001 = 0,5763
57,63 : 0,001 = 5763

13


Từ việc nắm được những sai lầm học sinh có thể mắc phải trong quá trình thực hành
tính thì khi dạy đến dạng chia nào giáo viên phải khắc sâu về dạng đó. Đồng thời đưa
ra những sai lầm mà các em có thể mắc phải để các em rút được kinh nghiệm cho
mình. Bằng cách: Tôi hay đưa ra các bài tập ở dạng trắc nghiệm để học sinh tìm ra
phép tính đúng hoặc sai và giải thích lí do sai ở từng trường hợp. Làm như vậy các em
sẽ nhớ lâu hơn và ít nhầm lẫn giữa các dạng chia với nhau.
b. Đối với cách tìm số dư trong phép chia số thập phân:
Đối với học sinh lớp 5, các em mới bắt đầu được học về số thập phân nên với
phép chia số thập phân mới chỉ yêu cầu các em lấy thương đến 2 hoặc 3 chữ số ở phần
thập phân còn lại để ở số dư. Riêng khi giải toán về tỉ số phần trăm, đối với trường
hợp chia không hết thì mới yêu cầu các em lấy thương gần đúng thì phần thập phân
không quá 4 chữ số. Vậy, làm thế nào để giúp các em tìm được số dư chính xác? Đây
là câu hỏi đặt ra làm tôi phải suy nghĩ rất nhiều. Vì thực tế tôi thấy khi tìm số dư của
phép chia rất nhiều em lúng túng, kể cả những em có học lực tốt. Qua nghiên cứu và
thực hiện, ngoài việc hướng dẫn các em khi hạ các chữ số của số bị chia xuống để chia
phải thẳng cột để xác định số dư cho dễ và chữ số của số dư thuộc hàng nào thì giá trị
của số dư là bấy nhiêu, tôi còn có một số cách giúp học sinh tìm số dư trong phép chia
số thập phân như sau :
Cách 1: Lấy dấu phẩy của số bị chia làm “mốc” rồi dùng thước gióng thẳng
xuống để xác định số dư :
V í d ụ : Tìm số dư của phép chia, nếu chỉ lấy thương đến 2 chữ số ở phần thập phân
a) 33,14 : 58

b) 0,502 : 0,33

33, 14 58
0 , 50,2 0 , 33

33 1 0,57
17 2
1,52
4 14
0 70
08
04
Vậy : 33,14 : 58 = 0,57 dư 0,08
Vậy: 0,502 : 0,33 = 1,52 dư 0,0004
* Lưu ý: Để học sinh xác định đúng số dư bằng cách này, tôi yêu cầu học sinh, khi
chia, hạ đến chữ số nào của số bị chia xuống để chia thì phải hạ thẳng cột, không được
hạ lệch sang hàng khác và trường hợp chuyển dấu phẩy của số bị chia sang phải trong
trường hợp chia cho số thập phân thì muốn xác định số dư phải căn cứ vào dấu phẩy
lúc ban đầu chứ không căn cứ vào dấu phẩy lúc sau.
Cách 2: Ngoài ra, sau khi các em thực hiện phép chia xong theo yêu cầu của bài
tôi còn hướng dẫn các em tìm số dư bằng cách: Đếm xem phần thập phân của thương
14


và số chia có bao nhiêu chữ số thì dùng dấu phẩy tách ở phần dư ra bấy nhiêu chữ số
thập phân kể từ phải sang trái (nếu không đủ số chữ số phải thêm 0 vào bên trái phần
dư rồi viết 0 ở phần nguyên và đánh dấu phẩy).
Ví dụ: Tìm số dư của các phép chia sau, nếu chỉ lấy thương đến 2 chữ số ở phần
thập phân
a) 12,4 : 13
12,4 13
12 4 0,95
07 0
05
Vậy: 12,4 : 13 = 0,95 dư 0,05


- Ta thấy phần thập phân của số chia và thương
ở phép chia này có tất cả 2 chữ số nên số dư cũng
có 2 chữ số ở phần thập phân. Vậy số dư là 0,05
Thử lại : 0,95  13 + 0,05 = 12,4

b) 2 : 0,3
20
0,3
20

6,66

- Ta thấy phần thập phân của số chia và thương ở
phép chia này có tất cả 3 chữ số nên số dư

cũng
20
có 3 chữ số ở phần thập phân .Vậy số dư là 0,002
2
Vậy: 2 : 0,3 = 6,66 dư 0,002
Thử lại : 6,66  0,3 + 0,002 = 2
Từ cách làm này tôi đã cho học sinh nêu thành ghi nhớ rồi học thuộc:
Muốn tìm số dư trong phép chia có thương là số thập phân ta làm như sau:
- Đếm xem phần thập phân của số chia và thương có tất cả bao nhiêu chữ số.
- Dùng dấu phẩy tách ở phần dư ra bấy nhiêu chữ số kể từ phải sang trái.
* Lưu ý: Cách làm này chỉ áp dụng cho trường hợp khi chia phải lấy tất cả các
chữ số của số bị chia để đem chia và phần thập phân của thương chỉ lấy số chữ số nhất định.
2.3.8. Biện pháp thứ tám: Kiểm tra kiến thức thường xuyên và rèn kĩ năng Thực
hành - Luyện tập

Xuất phát từ đặc điểm của học sinh tiểu học là các em nhanh nhớ, nhanh hiểu
nhưng cũng nhanh quên nếu như giáo viên không thường xuyên kiểm tra hoặc cho các
em Thực hành - Luyện tập. Vì vậy, sau khi hình thành quy tắc của từng dạng chia tôi
luôn tổ chức cho học sinh học thuộc quy tắc chia ngay tại lớp, bằng cách lặp đi lặp lại
nhiều lần, tổ chức cho học sinh giỏi đọc trước ( có thể nhìn vào cách làm không nhìn
vào ghi nhớ ) tiếp tục cho học sinh ở mức độ hoàn thành và chưa hoàn thành. Sau đó,
đầu tiết học của các buổi tiếp theo tôi tranh thủ kiểm tra quy tắc đã học đồng thời giao
bài tập cho học sinh vận dụng quy tắc vừa học để làm. Đối với những học sinh chưa
15


thuộc quy tắc hoặc chưa biết vận dụng quy tắc vào làm bài tập, tôi thường yêu cầu các
tổ trưởng tranh thủ kiểm tra hoặc kèm thêm trong những giờ ra chơi.
* Lưu ý: Việc chữa bài tập về nhà này, tôi yêu cầu lớp phó học tập phải phân
công lần lượt các bạn trong lớp để em nào cũng được tham gia làm chứ không riêng gì
những học sinh hoàn thành tốt mới chữa bài. Có như vậy thì những học sinh yếu mới
chịu cố gắng. Còn nếu các em làm sai thì giáo viên cũng nắm bắt được. Từ đó kịp thời
uốn nắn, sửa chữa cho các em. Ngoài ra, trong các tiết sinh hoạt tập thể vào cuối tuần,
sau phần đánh giá những ưu điểm, hạn chế về các hoạt động của lớp trong tuần qua và
phổ biến kế hoạch của tuần tới, tôi thường tranh thủ tổ chức cho các em chơi trò chơi
để củng cố một số kiến thức đã học đặc biệt là phần chia số thập phân như trò chơi :
Đố vui toán học hoặc hái hoa dân chủ, …
Ví dụ: Trò chơi : Hái hoa dân chủ
- Mục tiêu của trò chơi: Củng cố lại quy tắc, cách thực hiện tính các trường hợp
chia số thập phân .
- Chuẩn bị : Giáo viên chuẩn bị yêu cầu bài tập hoặc câu hỏi sau đó dán câu hỏi
vào các bông hoa đã cắt sẵn (Các câu hỏi có nội dung liên quan đến về chia số thập
phân ):
+ Thực hiện phép chia 17,4 : 1,45 = ?
+ Tìm X : 9,5  x = 399

+ Nêu cách chia một số thập phân cho một số thập phân .
+ Nêu cách chia một số thập phân cho một số tự nhiên.
+ Nêu cách chia nhẩm một số thập phân cho 10 ; 100; 1000; ….
+ Nêu nhanh kết quả của phép chia 4 : 5 hoặc 3 : 4 ; …
- Cách tiến hành: Gọi lần lượt một số học sinh lên hái hoa và thực hiện yêu
cầu ghi trên hoa. Nếu em nào thực hiện đúng sẽ được tặng ngay bông hoa hái được
và thưởng điểm 10.
- Giáo viên tổng kết cuộc chơi, tuyên dương những em đã hái được hoa, đồng
thời nhắc nhở những em chưa thực hiên được về nhà tích cực ôn tập thêm để hôm
sau tham gia chơi tiếp.
Qua các trò chơi như vậy, tôi thấy đã gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Nhờ vậy mà những kiến thức các em đã học được củng cố lại nhất là bốn trường hợp
chia số thập phân đồng thời các em được luyện tập nhiều nên kĩ năng tính được nâng
lên rõ rệt.
Ví dụ: Trò chơi : Đố vui toán học

16


- Mục tiêu của trò chơi: Củng cố cách nhẩm về chia một số thập phân cho 10;
100 ; 1000; … , cách nhẩm về chia một số thập phân cho 0,1 ; 0,01; 0,001; …, cách
nhẩm thương của một số phép chia đơn giản.
- Cách tiến hành: Giáo viên nêu cách chơi và luật chơi.
Chia học sinh thành 2 đội chơi A và B, giáo viên phát hệ thống câu hỏi đã chuẩn
bị sẵn theo nội dung đã nêu trên cho 2 đội .
Các đội tham gia chơi theo hình thức đố bạn : Chẳng hạn : Đội A nêu câu hỏi
cho 1 bạn bất kì của đội B ( Hệ thống câu hỏi này do giáo viên cung cấp cho các đội
trước khi chơi, các đội phải thảo luận, thống nhất đáp án trước khi đố bạn), nếu bạn
của đội B trả lời được thì dành được quyền đố lại bạn của đội A. Đội nào 3 câu hỏi
liên tiếp không trả lời được hoặc trả lời sai thì sẽ bị thua cuộc, hoặc đội nào trả lời

được số câu hỏi nhiều hơn thì thắng cuộc.
2.3.9. Biện pháp thứ chín: Giúp học sinh kiểm tra kết quả phép chia bằng cách
thử lại
Thử lại là cách tốt nhất để kiểm tra kết quả tính của mình. Vì vậy ngay từ đầu
năm học, phần củng cố các phép tính với số tự nhiên đặc biệt là phép chia tôi luôn
nhắc nhở các em sau khi thực hiện chia xong thì các em phải thử lại kết quả bằng
cách: Lấy thương nhân với số chia rồi cộng với số dư (nếu có), nếu kết quả bằng số bị
chia thì kết quả phép chia đã tìm được là đúng, nếu thấy sai thì phải kiểm tra lại bài
xem mình sai ở đâu để sửa chữa.
2.4. Hiệu quả
Qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng đề tài vào quá trình dạy học, tôi thấy
học sinh lớp 5B năm học 2017 - 2018 do tôi giảng dạy môn Toán nói chung và nhất là
khả năng làm tính với phép chia số thập phân nói riêng đã được nâng cao lên rõ rệt.
Bước đầu cải thiện được phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của bản thân, học
sinh thật sự là chủ thể trong quá trình dạy học; các em đã có động cơ thích thú khi học
toán, nhiều em đã tự mình tìm tòi học hỏi có thái độ học tập chăm chỉ không chán nản
hay sợ học toán như trước.
2.4.1. Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán gần cuối kì 1 của lớp (5B) do
tôi trực tiếp giảng dạy năm học 2017 - 2018:
Tổng số
học sinh
18

Hoàn thành tốt
SL
3

Tỉ lệ
16,6%


Hoàn thành
SL
13

Tỉ lệ
72,2%

Chưa hoàn thành
SL
2

Tỉ lệ
11,1%
17


So sánh kết quả trên, bản thân nhận thấy thời gian nghiên cứu và áp dụng đề tài
vào thực tế giảng dạy chưa nhiều nhưng kết quả môn toán lớp tôi dạy nói chung và kĩ
năng chia số thập phân của các em nói riêng bước đầu đã được nâng lên rõ rệt. So với
cùng kì: Tỉ lệ học sinh Hoàn thành tốt tăng 6%; tỉ lệ học sinh Hoàn thành tăng 25%; tỉ
lệ học sinh Chưa hoàn thành giảm 31%.
Do vậy, tôi có thể khẳng định rằng nếu tiếp tục áp dụng đề tài này vào quá trình
dạy học một cách thường xuyên, liên tục thì sau khi học xong lớp 5, tất cả học sinh lớp
tôi sẽ đạt được mục tiêu, yêu cầu về kiến thức và kỹ năng của môn Toán 5 đã đề ra.
2.4.2. Tác dụng của SKKN đến chất lượng giảng dạy và giáo dục của bản thân
- Sự tiến bộ của học sinh trong học tập môn Toán của lớp tôi đã có sự lan tỏa
mạnh mẽ trong việc thi đua dạy tốt – học tốt của nhà trường; Bản thân tôi càng vững
tin hơn trong quá trình giáo dục;
- Phong trào áp dụng các sáng kiến của đồng nghiệp được nhân rộng trong quá
trình dạy học;

- Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ, khối chúng tôi ngày càng
được trau dồi các kinh nghiệm, áp dụng các sáng kiến vào quá trình dạy học, từng
bước nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường, đáp ứng với mong muốn của học
sinh, phụ huynh và của ngành giáo dục.

18


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Để đạt được kết quả như trên, trong quá trình giảng dạy, tôi rút ra được một số
kinh nghiệm như sau:
- Trong quá trình dạy học giáo viên cần nắm vững đối tượng học sinh, phân loại
và có biện pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng;
- Thường xuyên kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh sau từng đơn vị kiến
thức mới; có hệ thống bài tập luyện tập phù hợp với đối tượng học sinh;
- Sử dụng đồng bộ các biện pháp dạy học, linh hoạt trong quá trình dạy học;
- Rèn cho học sinh thói quen học tập nghiêm túc, cẩn thận, khoa học ngay từ đầu
năm học, tránh để học sinh học vẹt, học đối phó, ….
- Tăng cường sử dụng các đồ dùng dạy học liên quan đến tiết dạy để nâng cao
hiệu quả tiết dạy của mình và đạt được mục tiêu đề ra;
- Liên hệ kịp thời với phụ huynh học sinh để kết hợp trong giáo dục.
3.2. Kiến nghị
- Để tiếp tục góp phần nâng cao hiệu quả dạy học các môn học ở bậc tiểu học
nói chung và môn Toán lớp 5 nói riêng, tôi rất mong được sự quan tâm và quan tâm
hơn nữa từ các cấp chính quyền trên địa bàn xã về cơ sở vật chất cũng như về tinh
thần để khích lệ các em học tốt hơn.
- Thư viện nhà trường hàng năm bổ sung thêm các loại sách tham khảo bổ trợ
môn toán để học sinh có tài liệu tham khảo nâng cao vốn hiểu biết về toán học.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân rút ra từ thực tế quá trình dạy

học. Tuy bước đầu đã có hiệu quả đáng kể nhưng rất mong được sự đóng góp ý kiến
của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Trí Nang, ngày 12 tháng 3 năm 2018

………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
……………………………………………..

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi tự viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Lam

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK và SGV môn Toán lớp 5.
2. Phương pháp dạy học các môn học lớp 5 (tập 1)
3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học - Lớp 5.

4. Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học các môn học cấp Tiểu học.

20



×