Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy học chủ đề “vật chất và năng lượng” môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (840.81 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Mục lục
A.MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
V. Điểm mới của sáng kiến
B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
III.Các giải pháp và cách tổ chức thực hiện.
IV. Hiệu quả của sáng kiến.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
I. Kết luận.
II. Đề xuất.

Trang
1
2
2
3
4
4
4
5
5
5
7
16


18
18
18

1


A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
Ngay từ khi mới biết nhận thức, thế giới xung quanh là điều mà con người
luôn khát khao tìm hiểu. Ở cấp tiểu học, các kiến thức về tự nhiên, xã hội và con
người; sự vận động và phát triển và mối quan hệ giữa chúng được trình bày một
cách đơn giản, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh tiểu học trong môn
Khoa học.
Môn Khoa học trong nhà trường Tiểu học có vị trí vô cùng quan trọng.
Đây là môn học tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học như hóa học, sinh
học....Thông qua nội dung môn học, học sinh có thêm hiểu biết về các hiện
tượng có trong tự nhiên từ đó ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Ở lớp 4 môn Khoa học có ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vì đây là lớp học đầu
tiên ở bậc tiểu học các em được làm quen với môn học với phương pháp học
môn Khoa học. Nếu các em có phương pháp học đúng đắn thì sẽ là nền tảng để
học tốt môn học này ở lớp 5 và các cấp học cao hơn. Môn Khoa học ở lớp 4
nhằm giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về:
- Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng và sự lớn lên của cơ thể người.
Cách phòng tránh một số bệnh thông thường và bệnh truyền nhiễm hay sự trao
đổi chất, sinh sản của thực vật, động vật cũng như nắm được một số đặc điểm,
ứng dụng của một số vật liệu và dạng năng lượng thường thường gặp trong đời
sống, sản xuất.
- Bước đầu hình thành và phát triển kĩ năng ứng xử thích hợp trong các
tình huống có liên quan đến vấn đề sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng

đồng. Thông qua quan sát và làm thí nghiệm thực hành khoa học đơn, gần gũi
với đời sống và sản xuất đồng thời học sinh biết nêu những thắc mắc, biết tìm
thông tin để giải đáp
- Hình thành và phát triển những thái độ hành vi tự giác thực hiện quy tắc
vệ sinh an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Qua đó bồi dưỡng tình yêu
khoa học ham muốn vận dụng kiến thức vào đời sống, bồi đắp tình yêu thiên
nhiên, đất nước, con người từ đó giúp học sinh có ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo
vệ môi trường. Đó chính là ý nghĩa, là mục đích to lớn mà môn Khoa học lớp 4
mang lại cho học sinh và mong muốn các thầy cô giáo và các em học sinh làm
được điều đó.
Song hành cùng với vai trò của môn Khoa học lớp 4 thì nội dung của chủ
đề: Vật chất và năng lượng có tác dụng to lớn đóng vai trò là hạt nhân của môn
khoa học ở lớp 4. Những kiến thức của chủ đề này rất gần gũi với học sinh vì ở
lứa tuổi học sinh tiểu học, thế giới tự nhiên đối với các em chứa đựng bao điều
bí ẩn. Sự tác động của nó hàng ngày qua mắt các em làm cho các em lạ lẫm,
khiến các em tò mò, muốn khám phá để hiểu biết về chúng. Các em không bằng
lòng với việc quan sát mà còn thao tác trực tiếp để hiểu chúng hơn. Các em rất
thích thú khi phát hiện ra một điều gì đó mới lạ liên quan đến thực tế. Điều đó
thể hiện rõ trên vẻ mặt vui tươi khi tìm người thân để chia sẻ niềm vui của mình.
Chính sự tò mò, ham hiểu biết khoa học là động cơ thúc đẩy các em học tập một
cách tích cực. Sự hứng thú sẽ làm nảy sinh khát vọng, lòng ham mê hoạt động
và hoạt động sáng tạo. Không chỉ là mạch kiến thức quan trọng của môn Khoa
2


học lớp 4 mà thông qua chủ đề: Vật chất và năng lượng sẽ cung cấp cho học
sinh một số kiến thức cơ bản ban đầu về các hiện tượng có trong tự nhiên có ở
ngay bên cạnh các em mà hàng ngày các em nhìn thấy, sờ thấy và cảm nhận
thấy. Đó là một số vật liệu và các dạng năng lượng thường gặp trong đời sống
và sản xuất như: vì sao nước lại chảy từ trên cao xuống ? vì sao ta có thể nghe

thấy mọi âm thanh trong cuộc sống ? Vì sao ánh sáng lại cần thiết cho con người
và động thực vật. Tất cả những câu hỏi thắc mắc đó sẽ được giải quyết khi các
em học về chủ đề “Vật chất và năng lượng”. Qua việc khám phá tìm hiểu, trinh
phục kiến thức của chủ đề này sẽ giúp các em có cách ứng xử thích hợp với
thiên nhiên biết yêu quý, trân trọng và bảo vệ thiên nhiên. Đồng thời giúp các
hiểu biết và khát khao muốn khám phá về thế giới tự nhiên xung quanh mình để
thỏa chí tò mò các em phải quan sát và làm thí nghiệm, nêu câu hỏi thắc mắc
trong quá trình học tập, diễn đạt những hiểu biết bằng lời nói, hình vẽ, sơ đồ,
phân tích rồi so sánh những dấu hiệu chung và riêng của sự vật, hiện tượng đơn
giản trong tự nhiên. Qua đó đã giáo dục các em ham hiểu biết khoa học, có ý
thức vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống.
Môn Khoa học thú vị là vậy! Chủ đề Vật chất và năng lượng quan trọng và
thiết thực là thế nhưng thực tiễn dạy học môn Khoa học lớp 4 nói chung và dạy
học chủ đề về “Vật chất và năng lượng” nói riêng cho thấy, giáo viên còn chưa
nhận thức hết vai trò và tầm quan trọng của môn học này, chưa có sự đầu tư,
quan tâm đúng mức cho môn học vì vậy chưa bỏ nhiều thời gian, tâm huyết
nghiên cứu, tìm tòi ra những phương pháp dạy học phù hợp nhằm nâng cao chất
lương môn học nên còn gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng phương pháp
dạy học. Các phương pháp dạy học truyền thống vẫn chiếm ưu thế, học sinh học
tập còn thụ động. Các thí nghiệm trong bài còn mang tính chất minh họa. Giáo
viên còn tự mình trình bày, biểu diễn các thí nghiệm thực hành để minh họa cho
kiến thức của bài học mà ít tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động này để các
em chiếm lĩnh tri thức khoa học một cách chủ động, thoả mãn nhu cầu tìm tòi
hiểu biết, óc tò mò khoa học của học sinh. Vì vậy các giờ học còn mang tính áp
đặt, các em ít được bộc lộ tính chủ động, sáng tạo vì vậy mà hiệu quả dạy môn
Khoa học chưa cao. Việc tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi
dạy học các môn học ở tiểu học nói chung và môn Khoa học nói riêng là vấn đề
quan trọng nhằm hình thành cho học sinh phương pháp học tập độc lập, sáng
tạo, qua đó để nâng cao chất lượng dạy học. Xuất phát từ yêu cầu của việc đổi
mới phương pháp dạy học và qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 4, bản thân

tôi luôn băn khoăn, trăn trở, trăn trở trong từng tiết dạy, từng bài học, từng chủ
đề của môn học, từng bài thi môn Khoa học của học sinh .Vì vậy tôi cố gắng tìm
tòi, nghiên cứu và mạnh dạn xin trình bày Sáng kiến: Một số biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả khi dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa
học lớp 4. với mong muốn sẽ phát huy tính tích cực chủ động học tập của học
sinh, giúp các em yêu thích môn học và học tập tiến bộ hơn, tạo cơ sở vững chắc
cho các em tiếp tục học tốt môn học này ở những lớp học, bậc học cao hơn.
II. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra một số biện pháp để nâng cao hiệu quả khi dạy chủ đề “Vật chất
và năng lượng” môn Khoa học lớp 4.
3


III. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh khối 4- Trường Tiểu học Định Thành.
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp thu thập thông tin.
2. Phương pháp lí thuyết.
3. Phương pháp điều tra, phỏng vấn.
4. Phương pháp trao đổi kinh nghiệm.
5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
7. Phương pháp khảo sát, thống kê, xử lí số liệu.
V. Điểm mới của sáng kiến:
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi tập chung vào việc tìm ra: Một số
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng”
môn Khoa học lớp 4” với nội dung cơ bản như sau:
1. Có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp đảm bảo tính
cá thể hóa học tập của học sinh về chủ đề vật chất và năng lượng nhằm nâng cao
hiệu quả tiếp thu bài học của học sinh.

2. Giáo viên giúp học sinh hình thành khả năng tự học và học có sáng tạo.
3. Tổ chức đánh giá kết quả học tập của học sinh về chủ đề “Vật chất và
năng lượng” theo đúng quy dịnh của thông tư 22.
4. Giáo viên cần trau dồi vốn kiến thức phong phú và đa dạng có liên
quan đến môn học.

4


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
Chúng ta đang sống trong thời đại nền văn minh công nghiệp, cách mạng
khoa học công nghệ phát triển như vũ bão đòi hỏi người lao động phải có năng
lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Sự phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục
học đi đôi với hành, lí thuyết gắn liền với thực tiễn của đời sống và sản xuất.
Học là để lao động để áp dụng vào cuộc sống. Với sản phẩm đặc biệt là con
người, giáo dục là động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước. Để hoàn
thành sứ mệnh to lớn của mình, giáo dục phải đổi mới một cách toàn diện từ
mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức.
Trong chương trình môn khoa học lớp 4 thì chủ đề “Vật chất và năng
lượng” là mạch kiến thức quan trọng, then chốt. Kiến thức của chủ đề này vô
cùng gần gũi, thiết thực với học sinh nó góp phần cung cấp cho học sinh hiểu
biết những đặc điểm, tính chất, hiện tượng của nước, âm thanh, ánh sáng... trong
đời sống hàng ngày. Bước đầu hình thành cho học sinh kĩ năng quan sát và có
khả năng làm thí nghiệm một cách đơn giản từ đó học sinh hiểu vận dụng và so
sánh rút ra được dấu hiệu đơn giản trong thế giới tự nhiên và rèn cho học sinh có
ý thức quan tâm, ham hiểu biết tìm hiểu học tập môn Khoa học đồng thời cũng
phải hình thành niềm tin khoa học cho các em để giup các em vận dụng kiến
thức học được vào thực tiễn. Tất cả điều đó sẽ góp phần hình thành con người

Việt Nam yêu lao động và luôn sáng tạo trong lao động sản xuất.
Xuất phát từ cơ sở đó cho ta thấy được tầm quan trọng trong việc dạy và
học chủ đề “Vật chất và năng lượng” của môn Khoa học ở lớp 4 trong nhà
trường Tiếu học.
II. Thực trạng của vấn đề.
1.Những thuận lợi cho việc dạy và học môn Khoa học.
- Trường có lợi thế học 2 buổi/ ngày, đa số phu huynh quan tâm, ủng hộ và
tạo mọi điều kiện cho việc học tập của học sinh nên chất lượng giáo dục ngày
càng được nâng cao.
- Các em chăm ngoan, luôn có ý thức vươn lên trong học tập.
- Đội ngũ giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Giáo viên yêu nghề, nhiệt
tình với chuyên môn.
- Trong những năm gần đây, nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo
sát sao của các cấp quản lí, đầu tư về cơ sở vật chất trang thiết bị cho việc dạy
học như sách vở, đồ dùng dạy học... Vì vậy mà chất lượng giáo dục được nâng
lên đáng kể.
2. Những khó khăn khi dạy và học môn Khoa học.
Qua thực tế giảng dạy môn Khoa học lớp 4 đã nhiều năm và trao đổi với
đồng nghiệp, tôi thấy hầu hết giáo viên đều nhận thấy môn Khoa học là môn học
quan trọng, thiết thực, cung cấp cho học sinh những kiến thức hết sức cơ bản về
con người và sức khỏe, vật chất và năng lượng, thực vật và động vật. Những
kiến thức này rất thường gặp trong thực tế cuộc sống hàng ngày. Hầu hết giáo
viên đều cho rằng việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy học môn
5


Khoa học lớp 4 đặc biệt là dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” là cần thiết.
Tuy nhiên trong thực tiễn dạy học lại tồn tại những mâu thuẫn sau:
2.1. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của giáo viên chưa đảm
bảo tính cá thể hóa hoạt động học tập của học sinh khi dạy về chủ đề “Vật chất

và năng lượng”.
- Trước hết là do nhận thức của giáo viên về vai trò của môn khoa học chưa
sâu sắc, vì vậy giáo viên còn ngại vận dụng những phương pháp hình thức tiến
bộ vào dạy học nên không phát huy hết năng lực học tập của từng cá thể trong
lớp dẫn đến việc dạy học mang tính hời hợt kém hiệu quả.
- Năng lực và khả năng tổ chức dạy học và vận dụng của giáo viên còn
nhiều hạn chế, thiếu tính linh hoạt, sáng tạo trong quá trình dạy học dẫn đến
chưa khơi dậy được tính ham học và học có sáng tạo của học sinh.
- Học sinh chưa có nhiều điều kiện va chạm, tiếp xúc với thế giới bên ngoài
vì vậy còn rụt rè thiếu mạnh dạn tự tin trong giao tiếp. cho nên các em chưa có
khả năng nêu được ý kiến của bản thân, chưa bày tỏ được hiểu biết của mình về
thế giới tự nhiên hoặc hiểu nhưng không biết diễn đạt.
2.2. Giáo viên chưa giúp học sinh hình thành khả năng tự học và học có
sáng tạo.
- Giáo viên chưa có sự đầu tư nhiều về thời gian để hướng dẫn cho học sinh
có khả năng tự học, tự tìm tòi khám phá kiến thức dẫn đến học sinh lười tư duy,
ỷ lại vào thầy cô cho nên học sinh tiếp thu kiến thức môn khoa học hời hợt
không mang tính chất đồng bộ, học sinh nắm kiến thức thuộc như con vẹt
nhưng không biết vận dụng.
- Giáo viên chưa có khả năng vận dụng sáng tạo hình thức dạy học vì vậy
không khơi gợi được chí tò mò, không phát huy được hình thức tự học của học
sinh dẫn đến học sinh còn thụ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Các em
còn rụt rè, e ngại chưa mạnh dạn đưa ra những băn khoăn thắc mắc về các sự
vật, hiện tượng dẫn đến tiết học nhàm chán, buồn tẻ. Chính vì vậy chưa khơi dậy
được lòng ham hiểu biết, tìm hiểu khoa học của học sinh dẫn đến giờ học nhàm
chán, hiệu quả giáo dục vì thế chưa được nâng cấp nhiều.
2.3. Tổ chức đánh giá kết quả học tập của học sinh về chủ đề Vật chất và
năng lượng chưa đúng theo tinh thần, quy dịnh của thông tư 22.
Mặc dù giáo viên đã được tiếp thu, học tập chuyên đề về đánh giá học sinh
theo Thông tư 22. Thấy được những điểm mới trong cách đánh giá học sinh.

Nhưng đa số giáo viên của trường tôi đều ngại vận dụng hoặc có vận dụng
nhưng mang tính chất đối phó, vận dụng một cách máy móc thiếu tính linh hoạt
và sáng tạo để phù hợp với đặc điểm học sinh của trường mình. Vì thế mà giáo
viên đánh giá học sinh còn chưa cụ thể, chung chung cho qua; học sinh chưa có
khả năng đánh giá lẫn nhau; phụ huynh chưa được tham gia vào quá trình đánh
giá đúng như tinh thần của Thông tư 22 đã quy định.
Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tôi đã linh hoạt sử dụng một số biện
pháp nên đã từng bước tháo gỡ được những khó khăn trên.

6


Năm học 2015 – 2016, sau khi các em học xong chủ đề: Vật chất và năng
lượng. Tôi tiến hành điều tra chất lượng học tập, hứng thú học tập môn Khoa
học cụ thể như sau:
Năm học
2015 - 2016

Sĩ số
27

9 -10
SL
4

%
14,8

7-8
SL %

9 33,3

5–6
SL
14

%
51,
9

Dưới 5
SL
0

%
0

Học sinh
yêu thích
môn học

SL
13

%
48,1

Nhìn vào bảng thống kê kết quả nêu trên, tôi thấy:
Tỉ lệ học sinh đạt điểm khá, giỏi môn Khoa học quá thấp, tỉ lệ học sinh đạt
điểm trung bình còn nhiều. Vẫn còn quá ít học sinh yêu thích học môn Khoa

học, say mê tìm tòi, khám phá tự nhiên, tiếp cận thế giới xung quanh mình.
III. Giải pháp và cách tổ chức thực hiện:
Từ những cơ sở đã trình bày ở trên, để góp phần nâng cao chất lượng môn
Khoa học nói chung và chủ đề Vật chất và năng lượng nói riêng cho học sinh
lớp 4. Sau đây tôi mạnh dạn trình bày đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả khi dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4.
1. Các giải pháp chính
1. Có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp đảm bảo tính
cá thể hóa học tập của học sinh về chủ đề “Vật chất và năng lượng” nhằm nâng
cao hiệu quả tiếp thu bài học của học sinh.
2. Giáo viên giúp học sinh hình thành khả năng tự học và học có sáng tạo.
3. Tổ chức đánh giá kết quả học tập của học sinh về chủ đề “Vật chất và
năng lượng” theo đúng quy dịnh của thông tư 22.
4. Giáo viên cần trau dồi vốn kiến thức phong phú và đa dạng có liên
quan đến môn học.
2. Các biện pháp thực hiện.
2.1. Giáo viên cần có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù
hợp đảm bảo tính cá thể hóa học tập của học sinh về chủ đề “Vật chất và
năng lượng"nhằm nâng cao hiệu quả tiếp thu bài học của học sinh.
Trước hết để có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp đảm
bảo tính cá thể hóa học tập của học sinh thì người giáo viên phải hiểu được vai
trò, tác dụng của việc dạy học“cá thể hóa” đó là dạy học phải phát huy hết năng
lực sở trường của từng cá thể học sinh nhằm tạo cho học sinh luôn chủ động
tích cực tìm tòi, khám phá và tự chiếm lĩnh kiến thức. Cho nên để dạy học đảm
bảo tính cá thể hóa người thầy cần quan tâm đến từng cá nhân không nên khuôn
mẫu đưa ra một giáo án chuẩn mà tùy vào tình hình, tùy vào đối tượng học sinh
của trường mình để từ đó đưa ra được những biện pháp phù hợp. Đối với học
sinh trường trường tôi đang công tác, tôi đưa ra những biện pháp sau:
a. Biện pháp thứ nhất: Phân hóa từng đối tượng học sinh từ đó đưa ra
hệ thống câu hỏi phù hợp để khai thác nội dung kiến thức bài học.

7


- Mục đích của việc phân hóa đối tượng học sinh đó là giúp giáo viên nắm
chắc năng lực tiếp thu của từng em. Ngay từ đầu năm học sau khi dạy xong chủ
đề đầu tiên của môn Khoa học lớp 4, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học
tập của từng em, phỏng vấn từng cá nhân để đánh giá mức độ yêu thích môn
học của các em từ đó có sự điều chỉnh về phương pháp và hình thức dạy học
phù hợp ở chủ đề Vật chất và năng lượng.
- Dựa vào năng lực, trình độ nhận thức của từng em cũng như đặc điểm
tâm sinh lí của học sinh trong mỗi tiết dạy tôi đã đưa ra phương pháp dạy học
phù hợp đó chính là sắp xếp hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp phù hợp với nhận thức của từng em. Chính vì vậy đã phát triển khả
năng của học sinh giỏi và khích lệ được học sinh còn chậm và nhút nhát và
khơi gợi được niềm đam mê học môn học này của học sinh khi đã đam mê
học thì chắc chắn các em sẽ học tập tiến bộ.
- Để làm được điều này đòi hỏi giáo viên phải có năng lực khai thác, chắt
lọc tìm tòi, nghiên cứu kĩ nội dung từng bài học dựa vào mục tiêu của từng tiết
học để đưa ra hệ thông câu hỏi dạy học theo hướng “ Cá thể hóa hoạt động
học tập của học sinh” là rất quan trọng, nó giúp cho chúng ta vận dụng các
bước dạy học vào từng bài dạy dễ dàng và hiệu quả. Hệ thống câu hỏi sẽ được
sắp xếp theo các bước
* Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề:
- Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do
giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Chính vì vậy
mà tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu đối với học sinh. Tình
huống càng rõ thì việc đưa ra câu hỏi nêu vấn đề càng dễ dàng.
- Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Câu hỏi phải phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh, phải gây được mâu thuẫn nhận thức và kích
thích trí tò mò, thích khám phá, lĩnh hội kiến thức của học sinh. Giáo viên phải

dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng để nêu vấn đề.
Ví dụ: Bài 20: Nước có những tính chất gì? (SGK – trang41)
Giáo viên hỏi học sinh:
+ Trong sinh hoạt hàng ngày, gia đình các con sử dụng nước vào những
việc gì? (nấu cơm, uống, tắm giặt, tưới cây,...)
+ Các thấy nước có cần thiết cho cuộc sống của mỗi chúng ta không?
Vậy theo em, nước có những tính chất gì? Các em hãy ghi lại hiểu biết
ban đầu của mình vào vở ghi chép khoa học.
*Bước 2: Làm bộc lộ (hình thành) biểu tượng ban đầu.
- Làm bộc lộ quan niệm ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của
phương pháp dạy học “Cá thể hóa hoạt động học tập của học sinh”. Bước này
khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về vấn
đề vừa được đưa ra trước khi được tìm hiểu về bản chất sự vật, hiện tượng. Đó
là những quan niệm được hình thành trong vốn sống của học sinh, là các ý tưởng
giải thích sự vật, hiện tượng theo suy nghĩ của các em. Trong bước này, tôi
khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự
vật hiện tượng mới bằng nhiều cách khác nhau như bằng cách nói, viết hay vẽ.
Tôi luôn tôn trọng những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của các em, lắng nghe8và


tôn trọng những quan niệm của các em dù đó là quan niệm sai hoặc chưa thực sự
chính xác để giúp các em mạnh dạn và tự tin hơn khi bộc lộ những quan điểm
của mình. Tuyệt đối không biểu lộ thái độ không đồng tình với những biểu
tượng (quan niệm) chưa đúng của học sinh. Vì vậy, học sinh trong lớp tôi không
còn e ngại, các em dần mạnh dạn, tự tin khi trình bày những suy nghĩ của mình,
không khí lớp học thực sự sôi nổi.
- Sau đó giáo viên khéo léo gợi ý cho học sinh so sánh các điểm giống
nhau và khác nhau (không nhất trí giữa các ý kiến) của biểu tượng ban đầu. Từ
những sự khác nhau cơ bản đó giúp học sinh đề xuất câu hỏi thắc mắc của bước
tiếp theo.

*Bước 3: Đề xuất câu hỏi và giải pháp tìm tòi nghiên cứu
* Đề xuất câu hỏi:
- Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của học sinh,
giáo viên giúp học sinh đề xuất các câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy
sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học.
- Ở bước này, giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu
tiêu biểu của học sinh theo mục tiêu bài học đồng thời linh hoạt điều khiển thảo
luận của học sinh đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy
học. Khi học sinh đưa ra các câu hỏi thắc mắc, giáo viên cần tôn trọng tất cả các
ý kiến của các em dù câu hỏi đó không liên quan đến kiến thức trọng tâm của
bài để khích lệ các em mạnh dạn hơn, sau đó đi giải quyết một số câu hỏi đề
xuất phù hợp với nội dung bài học.
Ví dụ: Bài 17: Làm thế nào để biết có không khí? (SGK- trang 62)
* Học sinh có thể nêu một số câu hỏi, chẳng hạn:
1. Có phải không khí có ở trong túi ni lông không?
2. Trong lớp học có không khí phải không?
3. Có phải không khí có ở trong chai, lọ không?
4. Không khí có ở xung quanh ta phải không?
…………………………………………………
Từ những câu hỏi học sinh đưa ra, giáo viên có thể khái quát thành hai câu
hỏi sau:
1. Xung quanh mọi vật có không khí phải không?
2. Chỗ rỗng bên trong các vật có không khí phải không?
* Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu.
Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên định hướng cho học sinh lựa chọn
phương án thực nghiệm tìm tòi, nghiên cứu để tìm câu trả lời. Có nhiều phương
án đưa ra nhưng với chủ đề “Vật chất và năng lượng” để tiến hành phương án
án thực nghiệm, học sinh thường phải sử dụng phương pháp thí nghiệm trên vật
thật. Những thí nghiệm này cũng khá đơn giản, dụng cụ thí nghiệm là những vật
chất, năng lượng gần gũi với các em nên việc tiến hành thí nghiệm trở nên dễ

dàng hơn.
Ví dụ: Bài : Âm thanh(SGK- trang 82)
- Giáo viên nêu câu hỏi định hướng cho học sinh lựa chọn phương án
thực nghiệm:
+ Muốn biết âm thanh phát ra từ đâu ta làm thế nào?
9


- Học sinh có thể đưa ra các phương án:
+ Tiến hành làm thí nghiệm
+ Hỏi ý kiến của người lớn
+ Tìm tài liệu, tìm hiểu trên mạng Internet,...
- Giáo viên chấp nhận tất cả các phương án trên và gợi ý cho học sinh
chọn phương án phù hợp nhất trong phạm vi giờ học trên lớp (làm thí nghiệm)
*Bước 4: Tiến hành thực hiện phương án (giải pháp) tìm tòi – nghiên cứu.
- Sau khi thống nhất được phương án thực nghiệm. Giáo viên tổ chức cho
học sinh tiến hành thực nghiệm theo nhóm. Các nhóm phải thảo luận, suy nghĩ
và thống nhất xem cần làm những thí nghiệm nào? Những thí nghiệm đó cần
những dụng cụ gì? Rồi cử đại diện về góc học tập lấy dụng cụ thí nghiệm của
nhóm mình và trở về nhóm tiến hành thí nghiệm.
- Trong quá trình học sinh thực nghiệm, giáo viên cần lưu ý học sinh phải
đảm bảo an toàn khi học sinh sử dụng các dụng cụ sắc nhọn như dao, kéo… Ưu
tiên thực hiện thực nghiệm trực tiếp trên vật thật.
* Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức.
- Sau khi tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, những thắc mắc của
các em lần lượt được giải quyết, kiến thức của bài được hình thành. Sau đó, đại
diện các nhóm trình bày kết quả thực hành của nhóm mình.
- Tuy nhiên những kiến thức mà các em đưa ra vẫn chưa có hệ thống hoặc
chưa chuẩn xác, giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học
sinh ghi nhớ. Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho học sinh

nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban đầu). Như vậy
những phán đoán ban đầu sai lệch, sau quá trình nghiên cứu – tìm tòi, chính học
sinh tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do giáo viên nhận xét một
cách áp đặt mà chính học sinh tự phát hiện những sai lệch và tự sửa chữa, thay
đổi. Những thay đổi này sẽ giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
- Để làm được điều này đòi hỏi giáo viên phải có năng lực khai thác, chắt
lọc tìm tòi, nghiên cứu kĩ nội dung từng bài học dựa vào mục tiêu của từng tiết
học để đưa ra hệ thông câu hỏi dạy học theo hướng “ Cá thể hóa hoạt động học
tập của học sinh” là rất quan trọng, nó giúp cho chúng ta vận dụng các bước dạy
học vào từng bài dạy dễ dàng và hiệu quả
b. Biện pháp 2: Sử dụng phối hợp các phương pháp hình thức dạy học
một cách linh động, sáng tạo và phù hợp với từng đối tượng học sinh và
điều kiện thực tế của nhà trường.
- Trong mỗi tiết dạy, mỗi chủ đề của môn Khoa học lớp 4, mỗi giáo viên
cần sử dụng thành thạo các phương pháp dạy học để làm cho tiết khoa học thực
sự là tiết học bổ ích.Thông qua tiết học đó học sinh được khám phá, chiếm lĩnh
kiến thức. Học sinh được bày tỏ ý kiến, chia sẻ hiểu biết của mình về các dạng
vật chất và năng lương với bạn, với thầy cô từ đó cách em hiểu đúng và vận
dụng tốt kiến thức học được vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày.
- Để làm được điều này thì từ khâu thiết kế bài học đến hình thức tổ chức
phải có sự thống nhất.Giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung từng bài, dựa vào
chuẩn kiến thức, kĩ năng không sa đà quá mức vì muốn dạy học cá thể hóa đối
với học sinh khá giỏi nhưng cần lưu ý tránh dạy dưới chuẩn đối với học sinh yếu
10


và quan trọng giáo viên hiểu được mục tiêu của chủ đề “Vật chất và năng
lượng” từ đó có sự phối hợp giữa các phương pháp truyền thống với các phương
pháp dạy học hiện đại để giúp các em tiếp thu được kiến thức của chủ đề này và
khi các em có kiến thức, có kĩ năng và thái độ học tập tích cực sẽ góp phần nâng

cao hiệu quả khi học chủ đề Vật chất và năng lượng. Khi các em học tốt chủ đề
này thì là tiền đề để các em tiếp thu những chủ đề tiếp theo của môn Khoa học
lớp 4.
c. pháp 3: Tổ chức có hiệu quả hoạt động theo nhóm.
- Dạy học theo nhóm là hình thức dạy học đặt học sinh vào môi trường làm
việc tích cực. Thông qua hoạt động nhóm các em được rèn kĩ năng cần thiết như
kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác…Tạo điều kiện cho các em có cơ hội giao lưu,
hợp tác, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau để cùng giải quyết vấn đề mà môn học đặt
ra. Nhưng làm thế nào để hoạt động nhóm thực sự có hiệu quả thì không phải
giáo viên nào cũng làm được. Để điều khiển tốt hoạt động thảo luận nhóm của
học sinh trong lớp học, ngoài việc tổ chức dạy học thoải mái, không gò bó, tạo
một không khí làm việc tốt cho học sinh, giáo viên cần làm một số việc sau:
+ Khi học sinh thảo luận, cần tạo ra không khí lớp học sôi nổi, tất nhiên là
có tính tổ chức và mang tính tích cực.
+ Trong quá trình thảo luận giáo viên không nên áp đặt học sinh. Học sinh
có thể sẽ đặt ra các câu hỏi khó, vượt ra ngoài phạm vi kiến thức của chương
trình hoặc những câu hỏi mà bằng những thí nghiệm thực hiện không thể tìm ra
câu trả lời hay chứng minh được. Khi đó cách giải quyết là giáo viên ghi lại
những câu hỏi trên bảng, có thể xếp theo một tiêu chí cụ thể nào đó và phân
thành hai nhóm: nhóm câu hỏi có thể trả lời qua việc thực hiện thí nghiệm, tìm
tòi- nghiên cứu của học sinh và nhóm câu hỏi không thể tìm thấy câu trả lời qua
các thí nghiệm, học sinh sẽ tìm thấy câu trả lời từ giáo viên, …
* Khi giáo viên gặp câu hỏi thắc mắc của học sinh mà vượt khỏi tầm hiểu
biết của mình, không thể trả lời ngay được thì giáo viên nên xử lý theo hướng:
“Câu hỏi này rất hay nhưng hiện tại cô cũng chưa tìm được câu trả lời. Chúng ta
sẽ cố gắng cùng nhau tìm hiểu”. Sau đó, giáo viên phải tiếp tục tìm hiểu và giải
đáp cho học sinh vào một dịp gần nhất.

Các em hoạt động nhóm tích cực, sôi nổi
11



2.2. Giáo viên giúp học sinh hình thành khả năng tự học và học có
sáng tạo.
a. Biện pháp thứ nhất: Rèn kĩ năng tự học cho học sinh.
Kĩ năng tự học có ý nghĩa quan trọng góp phần đào tạo ra những học sinh
có năng lực thực hành, năng động và hoạt bát đó chính là mục tiêu mà giáo dục
hướng tới. Để làm được điều đó trong tiết dạy khoa học thì:
- Giáo viên không nên cho học sinh biết trước kiến thức của bài học một
cách tiêu cực mà phải để các em tự khám phá ra chúng. Không để các em sử
dụng tài liệu hướng dẫn để trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra vì như vậy sẽ
làm cho học sinh ỷ lại không chịu suy nghĩ, tìm tòi trong học tập. Sách giáo
khoa có thể chỉ được sử dụng làm tài liệu quy chiếu với các kết quả nghiên cứu
của học sinh ở cuối tiết học.
- Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên cần khéo léo quan sát học
sinh xem các em đang nghĩ gì về vấn đề mà mình đặt ra để nắm được tình hình.
Nếu có điều gì không khớp với dự định ban đầu thì cần có sự điều chỉnh cho phù
hợp.
- Các biểu tượng học sinh đưa ra có thể đúng, có thể sai nhưng giáo viên
không đánh giá và cũng không đưa ra câu trả lời. Giáo viên chỉ gợi ý hay đặt
thêm những câu hỏi dẫn dắt học sinh đi tìm câu trả lời cho câu hỏi của chính các
em chứ không làm thay. Trong trường hợp thí nghiệm cần có những điều kiện,
giáo viên cần giúp học sinh xác định được những điều kiện đó. Điều này bước
đầu các em có thể gặp nhiều khó khăn nhưng nếu giáo viên kiên trì thực hiện
nhiều lần các em sẽ thành thao tác quen thuộc với việc đặt điều kiện cho các thí
nghiệm để đảm bảo độ chính xác cao.
- Giáo viên cũng cần tạo lập môi trường thân thiện, hỗ trợ trong giờ học,
trong đó học sinh được tương tác với thế giới vật chất, hợp tác tranh luận với
bạn dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, học sinh được khuyến khích đưa
ra các câu hỏi, ý kiến của riêng mình. Giáo viên cần đưa ra các ý kiến hỗ trợ

thích hợp giúp học sinh tích cực, nỗ lực xây dựng được kiến thức mới. Trong
trường hợp học sinh bế tắc, giáo viên có thể đưa ra các vấn đề đơn giản và thích
hợp giúp các em từng bước xây dựng được kiến thức mới.
b. Biện pháp thứ 2: Sử dụng hiệu quả các phương tiện trực quan, đồ
dùng dạy học kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin giúp học sinh học tập
có sáng tạo hơn.
- Học tập khoa học là quá trình học sinh tiếp thu kiến thức thông qua quá
trình quan sát, làm thí nghiệm để từ đó học sinh tìm tòi ra kiến thức từ đó vận
dụng vào thực tiễn. Chủ đề Vật chất và năng lượng xoay quanh kiến thức có sẵn
trong tự nhiên như các hiện tượng gió, bão, sự tồn tại của nước….Vì vậy nếu
như giáo viên trong quá trình dạy học biết khai thác có hiệu quả các phương tiện
trực quan kết hợp việc sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy chắc chắn sẽ
nâng cao được chất lượng dạy học
- Học sinh Tiểu học rất thích những điều mới lạ đặc biệt với học sinh lớp 4 ,
lớp học đầu tiên được học môn Khoa học.Tranh ảnh, đồ dùng đẹp mắt sẽ khích
thích, tạo hứng thú cho các em chủ động tích cực tham gia vào quá trình học tập
12


- Không những thế việc sử dung CNTT vào dạy chỉ đề “Vật chất và năng
lượng” sẽ giúp giáo viên bớt đi gánh nặng trong việc chuẩn bị đồ dùng dạy học.
Đồng thời khắc phục được khó khăn trong việc có những nội dung bài học giáo
viên không thể dùng lời, hay đồ dùng mà mô tả được hiện tượng mà chỉ có tranh
ảnh , tư liệu của CNTT mới làm được.
*Ví dụ : Khi dạy bài 38: Gió nhẹ, gió mạnh.Phòng chống bão.(trang 76)
Để giúp học sinh thấy được tác hại của bão và cách phòng tránh bão. Giáo
viên đưa ra những hình ảnh minh họa những thiệt hại về người và của do bão
gây ra. Từ hình ảnh đó HS ghi nhớ, khắc sâu kiến thức dễ dàng hơn.
- Để CNTT phát huy hết tác dụng và hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải có khả
năng sử dụng thành thạo, hợp lí lựa chọn những hình ảnh minh họa phù hợp

khoa học và đảm bảo tính thẩm mĩ của tranh ảnh, tư liệu tránh sự lạm dụng quá
mức sẽ không đem lại tác dụng như mong muốn.
c. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh sử dụng vở ghi chép khoa học một
cách hiệu quả
* Học khoa học rất cần phải có vở ghi chép khoa học bởi vì:
- Vở ghi chép khoa học là một cuốn vở cá nhân của mỗi học sinh, ghi lại
suy nghĩ, ý tưởng, những gì học sinh hiểu trước một vấn đề đặt ra và những gì
các em thực hiện trong quá trình học.
- Thông qua việc ghi chép cá nhân, học sinh có thể lưu giữ những việc đã
làm (quan niệm ban đầu, thí nghiệm,…) và từ đó giúp các em so sánh quan điểm
của các nhân mình với các bạn khác trong nhóm, hình thành cho học sinh khả
năng phân tích, bình luận.
- Hơn nữa, chính học sinh tự ghi chép khoa học bằng chính ngôn ngữ của
các em sẽ tốt hơn là việc ghi chép lại những câu chữ được trau chuốt và quá
hoàn hảo do giáo viên cung cấp, đối lập với những gì học sinh hiểu.
* Giáo viên cần làm gì để hướng dẫn học sinh sử dụng vở ghi chép có hiệu
quả?
- Theo tôi, trước hết giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị riêng một cuốn
vở ghi chép khoa học nên yêu cầu vở kẻ ô li phù hợp với học sinh tiểu học và
giúp các em dễ dàng hơn trong việc ghi chép, vẽ hình, kẻ vẽ sơ đồ,...
- Cấu trúc nội dung vở ghi chép khoa học của học sinh gồm hai phần :
phần ghi chép cá nhân để học sinh ghi lại những điều mình nghĩ, hiểu (những
điều dự đoán, quan sát được, kết luận,…) và phần ghi chép chung của cả nhóm
(kết quả thảo luận nhóm, kết luận về giả thuyết chung cả lớp,…) có thể ghi kết
quả do cả lớp xây dựng.
- Ban đầu, việc vở ghi chép khoa học của học sinh sẽ rất khó khăn, học sinh
sẽ chưa thể tự ghi chép một cách tự giác nên rất cần có sự hướng dẫn cụ thể của
giáo viên. Học sinh viết các quan niệm ban đầu, các suy nghĩ, câu hỏi cá nhân
đặt ra trước vấn đề, thảo luận và làm thí nghiệm. Giáo viên khuyến khích học
sinh viết theo suy nghĩ của mình, không gò bó hay yêu cầu theo khuôn mẫu nào

(có thể bằng hình vẽ, kí hiệu, biểu tượng, sơ đồ, bằng lời,…) miễn là các em có
thể hiểu được những kí hiệu mình ghi chú.
- Vở ghi chép khoa học chỉ thực sự hữu ích đối với học sinh khi các em sử
dụng thuần thục trong việc ghi chép hoạt động của mình. Học sinh không thể13
có


ngay kĩ năng này. Vì vậy giáo viên phải rèn luyện cho học sinh tiếp cận và học
cách sử dụng dần dần với vở ghi chép khoa học sẽ hình thành cho các em thói
quen và kĩ năng làm việc với vở ghi chép khoa học này.
- Sau đó, giáo viên quan sát trong quá trình học sinh ghi chép ở lớp hoặc thu
vở thí nghiệm 1 lần/tháng (vào cuối tháng) hay cuối kỳ học để xem sự tiến bộ
của học sinh. Việc đánh giá bằng nhận xét vào vở thí nghiệm của học sinh sẽ
giúp học sinh có ý thức hơn trong làm việc tại lớp với vở thí nghiệm, đưa lại
hiệu quả cao trong học tập.
*Lưu ý: Khuyến khích học sinh sử dụng vở ghi chép để ghi lại những kiến
thức về thế giới tự nhiên mà các em quan sát được, nhắc nhở học sinh lưu giữ
cẩn thận để sử dụng trong nhiều năm.

Giáo viên hướng dẫn học sinh cách ghi vở môn Khoa học
2.3. Tổ chức đánh giá kết quả học tập của học sinh về chủ đề “Vật
chất và năng lượng” theo đúng quy dịnh của thông tư 22.
Đánh giá là khâu cuối cùng của bất kỳ một quá trình dạy học nào nhằm
xác định tính đúng đắn của việc thực hiện quá trình cũng như kết quả của quá
trình ấy. Trong quá trình dạy học, bản thân tôi luôn trau dồi, không ngừng tìm
hiểu Thông tư 22 của Bộ giáo dục và đào tạo và vận dụng tổ chức đánh giá học
sinh theo đúng tinh thần đổi mới của Thông tư 22 cụ thể như sau:
a. Tổ chức cho học sinh tự đánh giá lần nhau: Quá trình này sẽ giúp học
sinh nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân và của bạn mình từ đó
tìm ra cách khắc phục những điểm yếu, phát huy và học tập ở bạn những điều

mình chưa làm được để các em có thêm sức mạnh nội tâm, có lòng tự trọng, tự
tin rèn luyên tinh thần phê bình bởi vì chỉ khi các em nhận ra diểm thiếu xót của
bản thân và tự mình sửa chữa, khắc phục mới giúp các em tiến bộ và trưởng
thành. Đây cũng là mục tiêu mà nền giáo dục Việt Nam cần và phải làm được.
+ Học sinh đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm: Sự tích cực,
năng động, tinh thần trách nhiệm, tính nghiêm túc trong học tập.
+ Học sinh đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức, kĩ năng, thái
độ hay sự tiến bộ trong cả quá trình học tập. Trong quá trình đánh giá, giáo viên
14


cần tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá về chính bản thân mình, thấy được sự
tiến bộ của mình.
b. Tổ chức cho phụ huynh tham gia vào quá trình đánh giá học sinh.
Bản thân tôi trong quá trình tham gia công tác giảng dạy môn Khoa học
nói chung và dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng đã tham mưu
cùng với Ban Giám hiệu cách làm, cách khuyến khích để phụ huynh tham gia
vào quá trình đánh giá học sinh cụ thể như sau:
- Thông qua Sổ liên lạc điện tử giáo viên nắm được sự phản hồi, đánh giá
của phụ huynh về tình hình học tập của con em họ, ý thức vận dụng kiến thức
khi học về chủ đề Vật chất và năng lượng
* Ví dụ. Khi dạy bài 47: Ánh sáng cần cho sự sống(trang 94)
+ Sau khi nghiên cứu nội dung bài học.Tôi giao nhiệm vụ cho học sinh
về nhà làm thí nghiệm trồng cây rau vào chậu có đầy đủ điều kiện nước, đất,
không khí chỉ thiếu ánh sáng thì cây có sống và phát triển bình thường không?
Học sinh sẽ trả lời câu hỏi này bằng kết quả của thí nghiệm có sự tham gia giúp
đỡ, đánh giá của phụ huynh (Lưu ý thí nghiệm được tiến hành trước khi dạy )
+ Sau đó qua Sổ liên lạc điện tử tôi kiểm chứng kết quả đánh giá của phụ
huynh.
- Khuyến khích, mời phụ huynh có điều kiện, có trình độ hiểu biết đến

tham quan lớp học, tiết học môn Khoa học để phụ huynh thấy được quá trình
học tập của các em họ , đánh giá về mức độ nhận thức, tiếp thu kiến thức. Qua
đó tuyên truyền tới các bậc phụ huynh khác để cùng tham gia vào quá trình đánh
giá học sinh.
- Tôi còn mạnh dan động viên khuyết khích phụ huynh tham gia quá trình
đánh giá học sinh qua những lá thư gửi cho cô giáo được tôi phổ biến ở cuộc
họp phụ huynh đầu năm mục đích lôi cuốn phụ huynh tham gia vào quá trình
đánh giá để phụ huynh quan tâm hơn tới con em mình hơn, tạo mọi điều kiện
cho học sinh có điều kiện học tập tôt nhất để các em phát huy hết khả năng
không chỉ học ở lớp ở trường mà học kiến thức của chủ đề ngay trong việc làm
thường ngày của các em.
Nếu giáo viên duy trì tốt việc làm trên không những khuyến khích được
phụ huynh tham gia vào quá trình học tập của học sinh mà còn làm cho phụ
huynh thêm gần gũi, tăng thêm niềm tin, sự ủng hộ giúp đỡ của phụ huynh với
giáo viên thực hiện được mục tiêu xã hội hóa giáo dục
c . Giáo viên đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Thực hiện đúng quy định của Thông tư 22, giáo viên đánh giá kết quả học
tập của học sinh
- Đánh giá thường xuyên: Bản thân tôi luôn nghiêm túc trong việc đánh giá
thường xuyên sau mối bài học của chủ đề tôi đều kiểm tra nhận xét bằng lời để
học sinh thấy được những điểm tiến bộ, những điều học sinh cần khắc phục, sửa
sai cụ thể:
+ Đánh giá thường xuyên bằng lời nhận xét qua vở ghi môn Khoa học.
+ Đánh gia kết quả học tập vận dụng kiến thức qua vở bài tập Khoa học.
+ Đánh giá ý thức học tập vận dụng kiến thức dựa trên việc làm cụ thể hay
dựa vào đánh giá của phụ huynh
15


- Đánh giá định kì: Sau khi học xong chủ đề “Vật chất và năng lượng”.Tôi

đề xuất với tổ chuyên môn ra đề kiểm tra để kiểm nghiệm tính khả thi của Sáng
kiến và tổ chức đánh giá học sinh theo đúng Thông tư 22. Cuối cùng dựa vào kết
quả bài thi định kì ở học kì I và điểm cuối năm. Đây là mức độ đánh giá cao
nhất vì kết quả bài thi chính là thước đo chất lượng học tập của học sinh.
2 4. Giáo viên cần trau dồi vốn kiến thức phong phú và đa dạng có
liên quan đến môn học.
- Để dạy tốt môn học này, người giáo viên phải có kiến thức Khoa học tự
nhiên vững vàng, sâu rộng và khả năng linh hoạt để xử lí các tình huống bất ngờ
xảy ra trong tiết học. Hai điều này không phải giáo viên tiểu học nào cũng có
được. Vì vậy, trau dồi, bồi dưỡng vốn kiến thức là việc làm quan trọng, thường
xuyên góp phần nâng cao hiệu quả tiết dạy.
- Có nhiều hình thức tăng cường vốn kiến thức như tham quan, dự giờ, trao
đổi với đồng nghiệp qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu tài liệu, tìm
hiểu qua Internet,…
IV. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn.
1.Về tinh thần, thái độ học tập của học sinh.
- Sau một thời gian dài kiên trì áp dụng những biện pháp trên vào dạy học
chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học lớp 4, tôi nhận thấy các em yêu
thích và có hứng thú học môn học này, tự tin hơn khi bày tỏ quan điểm ban đầu
của mình, không cảm thấy ngại ngùng hay e rè mỗi khi có vấn đề gì còn băn
khoăn, thắc mắc; đặc biệt là các em rất tích cực khi tham gia thực nghiệm, tiến
hành thí nghiệm rất bài bản, chuyên nghiệp và tràn đầy tự tin tìm ra kiến thức
của bài để giải quyết những băn khoăn, thắc mắc của mình về các vấn đề liên
quan đến bài học. Chính vì vậy mà các em không chỉ nắm vững kiến thức của
bài mà còn ghi nhớ, vận dụng rất tốt vào thực tiễn cuộc sống xung quanh các
em.
- Phụ huynh tin yêu hết lòng ủng hộ cơ sở vật chất kĩ thuật cho việc dạy học.
- Lớp học sôi nổi, thân thiện, học sinh tiến hành thí nghiệm rất linh hoạt, tự
giác.Vì vậy tiết học vô cùng nhẹ nhàng mang lại hiệu quả cao.


16


Tiết khoa học sôi nổi, tràn đầy không khí học tập.

Học sinh hào hứng tiến hành thí nghiệm.
2.Về chất lượng môn học
Trong các năm học từ 2016 - 2017 và 2017 – 2018 sau khi dạy xong chủ đề
Vật chất và năng lượng tôi đều tiến hành khảo sát để kiệm nghiệm tính hiệu quả
của sáng kiến kết quả thu được như sau:

Năm học
2016 - 2017
2017 - 2018


số
30
35

Điểm
9 -10
SL
15
18

%
50
51,
4


Điểm
7-8
SL
13
15

%
43,3
42,9

Điểm
5–6
SL
2
2

%
6,7
5,7

Dưới 5
SL
0
0

%
0
0


Học sinh
yêu thích
môn học

SL
26
31

%
87,0
88,6

Nhìn vào bảng so sánh kết quả trong hai năm học áp dụng sáng kiến, tôi
thấy:
- Số lượng học sinh yêu thích học môn Khoa học, say mê tìm tòi, khám phá
tự nhiên, tiếp cận thế giới xung quanh mình tăng lên đáng kể. Bước đầu các em
biết vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống điều này sẽ là bước đệm tốt để
các em học tốt các chủ đề tiếp theo của môn Khoa học lớp 4 và các lớp học, cấp
học cao hơn.
- Học sinh tích cực, tự giác trong học tập, biết cách tự học, tự tìm tòi,
nghiên cứu, chủ động chiếm lĩnh kiến thức vì vậy chất lượng bài thi cuối năm
của các em sẽ đạt được hiệu quả như mong muốn.
- Bên cạnh đó, nhờ thường xuyên được học tập theo phương pháp mới,
được chủ động trao đổi ý kiến cùng bạn bè, cùng cô giáo nên nhiều em học sinh
đã trở nên mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập. Các em có khả năng sử dụng
ngôn ngữ nói và viết tốt hơn. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập các
môn học khác trong nhà trường.
17



Kết quả trên cũng đã chứng minh được, những biện pháp của tôi áp dụng
vào Sáng kiến đã đem lại hiệu quả thiết thực, đã thực hiện đúng tinh thần đổi
mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. Kết luận.
Thông qua việc thực hiện, giải quyết vấn đề đã được nêu trên để đạt hiệu
quả cao khi dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa học 4 để nâng
cao hiệu quả dạy học giáo viên cần lưu ý những vấn đề sau:
- Để thực hiện tiết dạy có hiệu quả giáo viên cần phải nhiệt tình, kiên trì
không ngại khó, ham học hỏi, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và
đặc biệt phải có lòng tin và sự say mê đối với nghề. Nghiên cứu nội dung
chương trình, lựa chọn cách dạy phù hợp với từng chủ đề, từng bài học.Việc làm
này đòi hỏi giáo viên phải mất rất nhiều thời gian từ khâu tìm hiểu, nghiên cứu
cách thức tổ chức các hoạt động dạy học rồi thiết kế sao cho phù hợp với đặc
điểm đối tượng học sinh, phù hợp với các điều kiện của lớp học.
- Khi dạy môn Khoa học đòi hỏi nhiều trang thiết bị dạy học như: thiết bị
thí nghiệm, tranh ảnh, mô hình, sa bàn, sách vở tài liệu, báo chí,… Nếu tổ chức
không khéo, không chu đáo sẽ tốn nhiều thời gian, không thực hiện đúng kế
hoạch dạy học thậm chí xảy ra tai nạn hoặc dẫn đến kết quả sai, ảnh hưởng đến
niềm tin của học sinh về chân lý của vấn đề.
- Quan tâm đúng mức đến việc hướng dẫn học sinh cách ghi, sử dụng vở
ghi chép khoa học một cách phù hợp, hiệu quả đảm bảo mỗi học sinh có quyển
vở thực hành riêng do chính các em ghi chép theo ngôn từ và cách thức của
riêng mình.
- Tổ chức và thực hiện nghiêm túc các nội dung và yêu cầu trong đánh giá
học sinh khi học sinh tham gia các hoạt động học tập trong môn Khoa học.
- Tích cực chuẩn bị các giờ dạy minh họa để tổ, khối chuyên môn góp ý,
thường xuyên dự giờ để học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, nghiên cứu tài
liệu để trau dồi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân.
II. Đề xuất.

* Đề xuất với tổ chuyên môn, nhà trường:
- Nhà trường và các tổ chuyên môn thường xuyên tổ chức các buổi sinh
hoạt chuyên môn có nội dung liên quan đến việc tìm ra những biện pháp hay,
hiệu quả vận dụng vào dạy môn Khoa học (lớp 4, 5) và môn Tự nhiên và Xã hội
(lớp 1, 2, 3) như dự giờ, rút kinh nghiệm tiết dạy; cùng nhau trao đổi, tháo gỡ
những khó khăn khi dạy môn học này.
- Nhà trường cần quán triệt tinh thần trách nhiệm của giáo viên khi vận
dụng phương pháp mới vào các tiết dạy để thực hiện tốt mục tiêu đổi mới giáo
dục. Quán triệt cách đánh giá của giáo viên theo đúng thông tư 22.
* Đối với giáo viên:
- Cần trau dồi kiến thức, nhiệt tình và tâm huyết với nghề hơn nữa. Không
ngừng học tập tìm tòi nghiên cứu đổi mới các phương pháp, hình thức dạy học
18


cũng như tích cực ứng dụng CNTT vào dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy
và học.
- Nghiêm chỉnh học tập tiếp thu các thông tư về đánh giá học sinh để đánh
giá học sinh nghiêm túc và đúng theo quy định của ngành.
* Đối với phụ huynh học sinh: Cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc học
tập của con em mình.Tạo mọi điều kiện ủng hộ, giúp đỡ về cơ sở vật chất
để để các em có điều kiện học tập tốt hơn như việc ủng hộ các em làm thí
nghiệm, hay những vật dụng , dồ dùng liên quan đến thí nghiệm.
* Đề xuất với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, sinh hoạt chuyên môn liên
trường để cùng nhau trao đổi kinh nghiệm vận dụng những phương pháp mới
vào dạy học các môn học nói chung và môn Khoa học nói riêng.
- Bổ sung thêm một số thiết bị, đồ dùng thí nghiệm, các mô hình liên quan
đến các bài học.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân mà tôi đã vận dụng nhằm

nâng cao hiệu quả khi dạy học về chủ đề “Vật chất và năng lượng” môn Khoa
học lớp 4. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng sáng kiến này chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu xót. Tôi rất mong được sự góp ý, xây dựng tận tình của
hội đồng giám khảo để sáng kiến của tôi ngày càng hoàn thiện có thể áp dụng
trong những năm học tiếp theo.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Xác nhận của Hiệu trưởng

Yên Định ngày 18 tháng 5 năm 2018
Tôi cam kết đây là SKKN của bản thân.
Tôi không copy tài liệu của ai
Người viết

Lê Thị Toan

19


20



×