Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.67 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 1

Người thực hiện: Lê Thị Huyền
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Thành - Thọ Xuân
SKKN : Môn Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2018


MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài

3

II. Mục đích nghiên cứu

3

III. Đối tượng nghiên cứu

4


IV. Phương pháp nghiên cứu

4

PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận

5

2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

5

2.3 Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

6

1. Biện pháp 1: Đề cao sự gương mẫu của giáo viên trong quá trình
dạy học

7

2. Biện pháp 2: Hướng dẫn luyện đọc đúng

7

3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ câu phù hợp, đúng chỗ

8


4. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh đọc có ngữ điệu phù hợp

10

5. Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh về tốc độ và âm lượng đọc khi
đọc thành tiếng
6. Biện pháp 6: Sử dụng phương pháp dạy học theo kiểu phân hóa các
đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng đọc
cho học sinh
7. Biện pháp 7: Khích lệ niềm say mê đọc sách của học sinh
8. Biện pháp 8: Tổ chức trò chơi để luyện đọc và mở rộng vốn từ cho
học sinh
9. Biện pháp 9: Công tác phối hợp của nhà trường với gia đình và tạo
môi trường học tập tốt cho học sinh

2

12
13
14
14
15


4. Kết quả thu được

16

PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

17
18
19
PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bậc tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc
hình thành nhân cách ở học sinh. Mục tiêu giáo dục tiểu học là “Hình thành cho
học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung
học cơ sở” (Điều 23 luật Giáo dục).
Trong tổng số các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt chiếm thời gian và
thời lượng nhiều nhất trong tất cả các môn học. Nó đảm nhận nhiệm vụ hình
thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực ấy được thể hiện qua
4 kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Trong đó Tập đọc là một phân môn có vị trí đặc
biệt quan trọng của chương trình Tiếng Việt. Nó đảm nhiệm việc hình thành và
phát triển kỹ năng đọc cho học sinh - một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học
sinh ở những lớp đầu bậc Tiểu học.
Đọc là một chìa khoá giúp học sinh mở cửa, khám phá và tiếp thu kho
tàng kiến thức của loài người, tìm hiểu những kinh nghiệm của đời sống, những
thành tựu văn hoá, khoa học, những tư tưởng tình cảm của con người. Đây cũng
chính là hành trang giúp học sinh hoà nhập giao tiếp với cộng đồng, hình thành
một nhân cách toàn diện. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay thì biết
đọc lại càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng và xử lí các nguồn thông
tin tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Năng lực đọc được hình thành qua thực hành, nó được hình thành trong 2
hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm, trong đó đọc thành tiếng là hình

thức quan trọng hàng đầu, không thể thiếu trong quá trình luyện đọc.
Trong quá trình trực tiếp giảng dạy nhiều năm, được nhà trường phân
công dạy lớp 1, tôi thấy một số điều còn tồn tại và vướng mắc trong môn Tiếng
Việt nhất là phần tập đọc. Các em thường coi nhẹ phần tập đọc vì các em cho
rằng phần này dễ không phải suy nghĩ như môn Toán mà chỉ cần biết đọc, đọc
đúng là được. Các em cũng chưa để ý đến việc đọc của mình như thế nào. Một
số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương.
Khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt giọng để lấy hơi một cách tùy tiện.
Từ những hạn chế và vướng mắc trong quá trình giảng dạy, tôi suy nghĩ
và tìm ra phương pháp tối ưu nhất để giúp cho học sinh đọc đúng, rõ ràng, trôi

3


chảy và diễn cảm. Vì vậy, tôi mạnh dạn đề xuất “Một số biện pháp rèn đọc cho
học sinh lớp 1”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với học sinh lớp 1 các em bắt đầu chuyển từ giai đoạn học vần sang tập
đọc vì vậy đọc đúng của lớp 1 là củng cố hệ thống âm vần đã học (nhất là các
vần khó), đọc đúng và đọc trơn tiếng, đọc liền từ, đọc cụm từ và câu: tập ngắt
nghỉ (hơi) đúng chỗ trong câu. Hiểu các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt
đã đọc (độ dài câu khoảng mười tiếng). Bên cạnh đó ôn vần cũ hoặc vần mới
của học sinh còn được phát triển vốn từ, tập nói câu đơn giản.
Vì vậy đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là quá trình mật thiết với
nhau. Qua việc đọc học sinh chiếm lĩnh được những chi thức văn hóa của dân
tộc và cũng từ đó giáo dục tình cảm đạo đức cao đẹp cho học sinh đồng thời
phát huy tính sáng tạo khả năng tư duy cho các em giúp các em rất nhiều trong
học phân môn tập làm văn, phân môn luyện từ và câu ở các lớp tiếp theo.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1.

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp làm mẫu;
- Phương pháp luyện đọc theo mẫu;
- Phương pháp luyện tập củng cố;
- Phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để học sinh tự tìm và phát hiện từ khó,
cách ngắt nhịp câu dài);
- Phương pháp đóng vai (đối với văn kể chuyện) ;

4


PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Tập đọc là một phân môn thực hành quan trọng, nó hình thành năng lực
đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu
cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc
có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc
hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành trong hai hình thức
đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn
nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến
những kỹ năng khác.
Dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành thói quen làm việc với
văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thông qua việc dạy đọc phải giúp
học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi cho các em trong cả
cuộc đời, đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc
sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó
viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở của viết đúng. Tuy nhiên do
yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi mỗi khác nhau dẫn đến nhiều khó khăn,
tồn tại mà mỗi giáo viên và học sinh cần phải nỗ lực để khắc phục tồn tại trên.

Người giáo viên muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng phải
thông qua năng lực đọc đúng của các em. Vì vậy mỗi thầy, cô giáo cần phải
nhiệt tình trong công tác giảng dạy: Rèn cho học sinh phát âm, đọc đúng ngay từ
đầu, dần dần các em ham thích trong mỗi giờ học tập đọc cũng như các môn học
khác.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
a. Về giáo viên.
Qua việc dự giờ, tìm hiểu quá trình dạy Tập đọc của anh chị em đồng nghiệp,
và các trường bạn tôi nhận thấy nguyên nhân quan trọng nhất làm cho chất
lượng dạy Tập đọc chưa tốt và cũng chính là những hạn chế của giáo viên, đó là
một số giáo viên của chúng ta vẫn còn thiếu hụt các kỹ năng đọc, vì vậy không
làm chủ được các kỹ năng dạy Tập đọc, nhiều giáo viên đọc không đúng chính
âm hoặc đọc chưa hay, chưa diễn cảm, chưa thể hiện được giọng đọc của nhân

5


vật, hiểu không đúng những điều đã được đọc từ cấp độ câu, đoạn và cả nội
dung, mục đích thông báo của toàn văn bản. Một số ít giáo viên kỹ năng dạy học
tập đọc còn hạn chế, chưa linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp, thủ
pháp dạy tập đọc ở tiểu học, chưa biết chữa các lỗi phát âm cho học sinh, chưa
có biện pháp tốt nhất để luyện cho học sinh đọc to, đọc đúng tốc độ và đọc diễn
cảm. Tất cả những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến các giờ dạy Tập
đọc.
b. Về học sinh.
Năm học 2017-2018, tôi được phân công dạy lớp 1A. Sau khi học nhiệm
vụ năm học, tôi càng hiểu rõ hơn về nâng cao chất lượng đọc cho học sinh đặc
biệt là học sinh lớp 1. Bản thân tôi thấy rằng việc nâng cao chất lượng đọc cho
học sinh khối 1 giữ vai trò vô cùng quan trọng. Được sự chỉ đạo, hướng dẫn
giúp đỡ của Ban giám hiệu, chuyên môn nhà trường, tôi đã tiến hành nghiên

cứu, tìm hiểu và trực tiếp giúp học sinh thực hành luyện đọc thành tiếng, đọc lưu
loát, trôi chảy và đọc hay.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát để phân loại đối tượng học
sinh. Tôi đã cho kiểm tra tất cả học sinh lớp tôi phụ trách đọc lại bảng chữ cái
mà các em đã được học ở trường Mầm non.
Sau khi kiểm tra tôi thấy nhiều em đọc sai âm, nhầm lẫn giữa các âm, đọc
ấp úng, ê a; còn có những học sinh chỉ thuộc 5 đến 7 âm trong bảng chữ cái, khi
cô hỏi một số câu hỏi đơn giản thì các em trả lời còn mắc nhiều lỗi dùng từ địa
phương. Đây là thực tại mà giáo viên chúng tôi phải thông cảm, bởi địa phương
tôi dạy là một xã thuần nông, kinh tế nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, nhiều
người phải đi làm xa để con cái ở nhà với ông bà chăm sóc nên con trẻ rất thiệt
thòi, rồi cũng có phụ huynh còn khoán trắng cho nhà trường. Bên cạnh còn do
đặc điểm ngôn ngữ vùng miền dẫn tới nhiều em phát âm hay bị sai. Sự quan tâm
của phụ huynh đến việc học của con em họ còn hạn chế, về nhà các em không
được nhắc nhở thường xuyên, việc rèn kĩ năng đọc ở nhà hầu như không có, đặc
điểm tâm sinh lí của trẻ thì mau nhớ chóng quên. Do đó chất lượng đọc của học
sinh không đạt yêu cầu như giáo viên mong muốn. Sau khi khảo sát, kết quả
như sau:
Tổng số
HS
24

Số học sinh đọc đúng,
lưu loát và hay
SL
3 em

TL
12 %


Số học sinh đọc
đúng (Mức độ bình
thường)
SL
TL
10 em
42 %

Số học sinh đọc
không đúng
SL
11 em

TL
46 %

Với thực trạng đã làm tôi băn khoăn, trăn trở, thôi thúc tôi cố gắng tự học,
tự tìm tòi, nghiên cứu tìm ra phương pháp dạy và hình thức dạy để rèn kĩ năng
6


đọc bằng nhiều cách, giúp cho học sinh đọc tốt hơn, hay hơn và tự tin hơn khi
đọc bài trước mọi người và đấy cũng chính là giúp cho các em có khả năng nói
và giao tiếp tốt hơn.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1
Mục đích đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác các ký hiệu văn tự
thành ký hiệu âm thanh. Vì vậy chất lượng đọc thành tiếng được đo bằng 4 kĩ
năng: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát), đọc có ý thức (thông hiểu nội dung văn
bản) và đọc diễn cảm. Kĩ năng đọc rất phức tạp đòi hỏi phải có quá trình luyện
tập lâu dài. Vì vậy tôi đã lựa chọn các biện pháp sau:

1. Biện pháp 1: Đề cao sự gương mẫu của giáo viên trong quá trình dạy học
và giúp học sinh có tâm thế khi đọc.
- Là giáo viên Tiểu học cần phải mẫu mực ở mọi lúc mọi nơi và ở trong
bất kỳ lĩnh vực nào. Chính vì vậy tôi luôn gương mẫu về mọi mặt: Cách nói
năng, cách sống, cách ăn mặc, cách viết và trình bày bảng và đặc biệt là khi đọc
bài trước học sinh vì tôi nghĩ giáo viên có đọc hay thì mới thu hút được sự chú ý
của học sinh. Do đó để giúp cho mình có giọng đọc hay, chuẩn, chính xác, diễn
cảm thể hiện đúng nội dung, ý nghĩa của bài học cho học sinh nghe tôi thường
xuyên xem và nghe các chương trình truyền hình trên ti vi. Đặc biệt tôi thường
xem chương trình thời sự để học cách đọc cách nói của phát thanh viên vì họ là
những người có giọng đọc rất hay và chuẩn.
Bên cạnh đó, tôi thường xuyên đọc sách báo, truyện, thơ để luyện cách đọc
của mình bởi tôi luôn coi trọng việc đọc mẫu của giáo viên trong dạy Tập đọc, đó
chính là hình ảnh trực quan cho học sinh.
Trước khi lên lớp, tôi đọc lại tất cả các bài học ở sách giáo khoa, vở bài
tập mà mình sẽ dạy, đặc biệt là các bài dạy môn Học vần để hình thành cách
đọc, giọng đọc tốt nhất cho mình.
Tóm lại: Nhờ những cách luyện tập như vậy mà tôi cảm thấy rất tự tin về
giọng đọc của mình và tôi cũng đã khắc phục được nhiều nhược điểm, những
mặt còn hạn chế.
- Ngoài việc giáo viên đọc hay trong dạy học thì giáo viên phải giúp cho
học sinh có tâm thế và tư thế ngồi đọc. Khi ngồi học sinh phải ngồi ngay ngắn,
khoảng cách từ mắt đến sách 25-30 cm, cổ và đầu thẳng, thở chậm, thở sâu để
lấy hơi. Khi đứng lên đọc, phải bình tĩnh, tự tin, đứng dậy không được hấp tấp
đọc ngay mà phải để có thời gian tạo tâm thế. Thỉnh thoảng, tôi gọi học sinh lên
bảng đọc để đối diện với tất cả các bạn, tạo cho học sinh sự tự tin đồng thời tôi
sửa luôn tư thế đọc cho học sinh, vừa đàng hoàng, thoải mái, sách mở rộng và
cầm bằng hai tay có như thế mới giúp cho quá trình đọc thành tiếng được tốt
hơn.
2. Biện pháp 2: Hướng dẫn luyện đọc đúng.

2.1- Đọc đúng phụ âm.
7


Do tình hình đặc điểm của ngôn ngữ địa phương, tôi thấy học sinh lớp tôi
hay đọc sai phụ âm r, s, tr. Khi luyện đọc cho học sinh, trước khi lên lớp tôi
thường đọc kĩ bài đọc để dự tính lỗi học sinh hay mắc và đề ra phương án sửa
lỗi. Đối với các âm khó, tiếng khó, từ khó đọc, tôi giúp học sinh phân tích cấu
tạo tiếng, tìm ra lỗi phát âm sai ở âm hay vần hay thanh tôi sẽ đọc mẫu các tiếng
này, từ này cho học sinh đọc theo, nếu học sinh vẫn đọc sai, tôi sẽ mô phỏng
cách phát âm.
Ví dụ:
+ Để đọc đúng các phụ âm r, tr cần chú ý: không bật hơi, đầu lưỡi cong
trong các tiếng: rễ, rổ rá, rô (cá rô) - (Bài 19 trang 40 Tiếng Việt 1, tập 1); tre
(tre ngà), trê (cá trê), trí (trí nhớ), trẻ (nhà trẻ) - (Bài 26 trang 54 Tiếng Việt 1,
tập 1) .
+ Để đọc đúng âm s cần chú ý: không bật hơi, lưỡi cong trong các tiếng:
sẻ, su su, số (chữ số) - (Bài 19 trang 40 Tiếng Việt 1, tập 1)…
2.2- Đọc đúng nguyên âm.
Học sinh ở miền Trung đặc biệt là vùng Thanh Hoá khi đọc các nguyên
âm đôi thì các em thường bỏ đi 1 âm và ngược lại khi đọc nguyên âm đơn lại
thêm vào 1 âm.
Ví dụ: “bó cỏ” thì đọc là “búa của” (Bài 9 trang 20 Tiếng Việt 1, tập 1) tôi
đã cho học sinh phát âm lại âm o, sau đó ghép thành tiếng và tôi nhắc học sinh
tròn miệng khi đọc, đọc đi đọc lại nhiều lần.
Ví dụ: “múi bưởi” thì đọc là”muối bửi” (Bài 35 trang 72 TV 1, tập 1).
“đèn điện” thì đọc là”đèn địn”…(Bài 49 trang 100 Tiếng Việt 1 tập 1)…
Vì vậy để giúp học sinh đọc đúng các âm chính tôi yêu cầu học sinh phải
có ý thức đọc phân biệt rõ các nguyên âm đôi. Song khi luyện đọc cho học sinh
các nguyên âm đôi này vẫn có những học sinh vẫn không sao đọc đúng được.

Tôi yêu cầu học sinh so sánh vần( in/ iên; ui/ uôi; ưi/ươi…), đánh vần từng âm
một, đánh vần vần sau đó ghép thành tiếng và cho luyện đọc thường xuyên. Có
khi sửa cho học sinh cách đọc trong cả giờ Toán - khi đọc đề bài - mà có những
tiếng liên quan đến lỗi của các em.
2.3 - Đọc đúng dấu thanh hỏi, thanh ngã.
Học sinh lớp tôi nói riêng và học sinh các lớp trong toàn trường nói
chung, qua quá trình dạy, dạy thay tôi nhận thấy các em đều đọc sai dấu thanh
hỏi thành dấu thanh ngã, dấu thanh ngã thành dấu thanh hỏi.
Ví dụ: “ ủn à ủn ỉn” đọc thành “ũn à ũn ĩn” Bài 48 trang 99 Tiếng Việt 1 tập 1)
Tôi hướng dẫn học sinh khi đọc các tiếng có thanh hỏi thì đọc thấp giọng,
còn những tiếng có thanh ngã thì phải hơi lên giọng. Nhưng có những từ có
thanh hỏi và thanh ngã liền kề nhau thì ngoài kĩ thuật trên tôi kèm thêm đọc mẫu
cho học sinh học tập như các từ: “ngõ nhỏ” (Bài 25, trang 52 TV1, tập); “trỉa
đỗ”(Bài 31, trang 64 TV 1, tập 1)

8


Tóm lại: Những nhược điểm khi đọc học sinh hay mắc phải sau khi phân
tích và mô phỏng cách phát âm cho học sinh thì tôi thấy các em đã phát âm
chính xác hơn.
3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh đọc ngắt nghỉ câu phù hợp, đúng chỗ.
Để đọc đúng và hay một văn bản thì cần phải biết ngắt nghỉ đúng chỗ, phù
hợp với nội dung, cấu trúc của từng câu. Học sinh phải nhận biết được dấu hiệu
của câu để ngắt nghỉ, có khi dấu hiệu của câu là dấu câu nhưng cũng có khi nó
được thay bằng từ chỉ quan hệ. Vì thế, khi luyện đọc tôi giúp học sinh dựa vào
các dấu hiệu (dấu câu) để ngắt nghỉ hoặc sau một số cụm từ có nghĩa
( giáo viên đọc mẫu cho học sinh nghe và phát hiện chỗ cần ngắt nghỉ).
Ví dụ 1: “ Mùa thu, bầu trời như cao hơn. Trên giàn thiên lí, lũ chuồn
chuồn ngẩn ngơ bay lượn” (Bài 50 – trang 103 Tiếng Việt 1 tập 1 )

Ở ví dụ trên ngắt hơi ở dấu phẩy, ngắt hơi ở chủ ngữ và nghỉ hơi ở dấu
chấm.
Đó là: “Mùa thu,/ bầu trời/ như cao hơn.// Trên giàn thiên lí,/ lũ chuồn
chuồn/ ngẩn ngơ bay lượn”//
Vì vậy trước khi dạy một bài ứng dụng trong tiết Học vần cụ thể, tôi dự
tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định cách ngắt giọng đúng
cho các em.
Với những câu dài không có dấu phẩy hay những câu văn tuy không dài
nhưng học sinh khó xác lập được các quan hệ ngữ pháp, cái đích thông báo .
Ví dụ 2: “Vầng trăng hiện lên sau rặng dừa cuối bãi. Sóng vỗ bờ rờ rào, rì rào.”
(Bài 53 Tiếng Việt 1, tập 1, trang 109)
Ở bài ứng dụng này, khi dạy tôi sẽ hướng dẫn học sinh ngắt giọng dựa vào
ý nghĩa của câu, chủ thể của câu để làm nổi bật nội dung thông báo của câu .
Đó là: Vầng trăng/ hiện lên/ sau rặng dừa cuối bãi.// Sóng vỗ bờ/ rì rào,/ rì
rào.//
Ví dụ 3: “Mẹ gà mừng rỡ “tục, tục” dắt bầy con quây quanh vũng nước đọng
trong vườn ” (Bài “Sau cơn mưa”- Theo Vũ Tú Nam , Tiếng Việt 1, tập 2, trang 124)
Để làm nổi bật nội dung thông báo của câu văn, tôi hướng dẫn học sinh ngắt
giọng như sau:
“Mẹ gà mừng rỡ “tục,/ tục” / dắt bầy con/ quây quanh vũng nước đọng trong
vườn //.”
Khi đọc thơ, việc ngắt giọng trong khi đọc không chỉ phụ thuộc bởi dấu
câu (ngắt giọng lôgíc) mà còn căn cứ vào tình tiết, nhịp điệu của thơ ca. Học
sinh đọc hay mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp
lực của nhạc thơ. Dường như học sinh sẽ ngắt nhịp tạo ra sự cân đối về mặt âm
thanh đọc từng câu thơ. Với thơ chuyển tiếp, tôi sẽ hướng dẫn các em ngắt theo
nhịp 2/ 2, với thơ 5 tiếng ngắt nhịp 2/ 3 hoặc 3/ 2, với thơ 7 tiếng các em sẽ ngắt
nhịp 3/ 4, 4/ 3 hoặc 2/ 2/ 3. Thơ lục bát ngắt theo nhịp chẵn 2/ 2/ 2; 4/4. Gặp
những trường hợp này tôi phải hướng dẫn học sinh thật cụ thể cách ngắt nhịp.
Tôi hướng dẫn học sinh cách ngắt nghỉ các ví dụ sau:

9


Ví dụ 1:

Ví dụ 2:

“ Mẹ, mẹ ơi/ cô dạy
Phải/ giữ sạch đôi tay
Bàn tay/ mà dây bẩn
Sách, áo/ cũng bẩn ngay.//”
(Bài 81 – trang 165 Tiếng Việt 1 tập 1)
“Tôi/ là chim chích
Nhà/ ở cành chanh
Tìm sâu/ tôi bắt
Cho chanh/ quả nhiều
Ri rích,/ ri rích
Có ích,/ có ích.”
(Bài 82 – trang 167 Tiếng Việt 1 tập 1)

Còn nếu để học sinh tự đọc, một số học sinh sẽ đọc sai theo cảm giác của
nhạc thơ và cứ đọc theo nhip 2/3; 2/2. Ví dụ: “Tôi là/ chim chích
Nhà ở/ cành chanh”
Trong các giờ Học vần, Tập đọc, tôi đều để học sinh tự tìm cách ngắt
giọng của các câu thơ, câu văn dài. Nếu gặp những câu khó, tôi sẽ đọc mẫu cho
học sinh nghe và học sinh tiếp thu nhanh sẽ tự phát hiện chỗ ngắt nghỉ đúng
trong các câu này. Sau đó học sinh sẽ luyện đọc cá nhân, đọc theo bàn, đọc theo
tổ, đọc đồng thanh từng câu. Cuối cùng mới luyện đọc hoàn chỉnh cả bài.
4. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh đọc có ngữ điệu phù hợp.
Ngữ điệu đọc bao gồm những dấu hiệu biến đổi về ngữ âm trong khi đọc

như: tiết tấu của giọng đọc (kĩ thuật ngắt giọng đã nói ở trên), nhịp điệu đọc
(dồn dập hay chậm rãi), cường độ đọc (to hay nhỏ, nhấn giọng hay lướt qua),
cao độ đọc (giọng đọc trầm hay bổng, lên cao hay xuống thấp), sắc thái giọng
đọc (thông qua giọng đọc thể hiện những sắc thái tình cảm khác nhau của con
người như: buồn, vui…)
4.1 - Đọc đúng kiểu câu.
Song song với việc luyện ngắt nghỉ để đọc đúng câu, tôi còn giúp học sinh
luyện đọc đúng ngữ điệu câu. Lên giọng ở câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể thay
đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu.
Ví dụ 1: “Mẹ có yêu không nào? ” (Bài 64, trang 131 TV1 tập 1)
Ở câu này, tôi hướng dẫn học sinh lên giọng ở tiếng “nào” để biểu lộ sự
nũng nịu của bé và sự âu yếm của mẹ.
Ví dụ 2: “- Cắt đuôi? Ấy chết...!
Tôi đi học thôi! ”
( “Mèo con đi học”- Theo P.Vô- rôn- cô, trang 103 TV1 tập 2)
Đây là những câu thơ cuối của bài liên tiếp ba kiểu câu - câu cảm, câu
khiến, câu hỏi. Để diễn tả đầy đủ ý nghĩa giáo dục của bài thơ, tôi hướng dẫn
học sinh đọc nhấn giọng ở tiếng “đuôi”, thấp giọng và hơi kéo dài tiếng “chết”

10


đúng với tâm trạng của chú mèo: chưa chăm học, ngây ngô tìm cớ cái đuôi của
mình bị ốm để nghỉ học nhưng đã bị Cừu điều trị bằng cách “cắt đuôi” khiến chú
đã đi học trở lại.
Tuy nhiên tôi cũng lưu ý học sinh không nên cường điệu khi thể hiện ngữ
điệu đọc (đọc quá mạnh, quá yếu, quá cao hay quá thấp) gây ra những chỗ gấp
khúc, gãy về đường nét âm thanh sẽ lệch không tự nhiên, không hợp với cảm
xúc. Như vậy, luyện đọc đúng câu là một điều kiện để học sinh tiến tới đọc diễn
cảm .

4.2- Đọc đúng giọng nhân vật.
Những tiết học vần có hoạt động kể chuyện, học sinh thường chăm chú
say sưa dõi theo cô giáo kể chuyện, các em thích thú khi cô giáo thể hiện lời
nhân vật như các em đang gặp nhân vật. Được ngắm nhìn những gương mặt
đáng yêu lúc đó đã thôi thúc tôi thường xuyên tổ chức cho các em kể chuyện
theo hình thức phân vai.
Với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 1, các em rất thích bắt chước và
bắt chước rất nhanh nên với hình thức tổ chức này cho hiệu quả cao.
Ví dụ: Kể câu chuyện “Khỉ và Rùa” (Bài 31 Tiếng Việt 1, tập 1)
Sau khi tôi kể xong câu chuyện (kể 2 lần kết hợp chỉ tranh) tôi cho học
sinh làm các việc sau:
- Xác định số lượng nhân vật: 3 nhân vật: Rùa, Khỉ, vợ Khỉ.
- Xác định giọng của nhân vật:
+ Khỉ: nói to, giọng sung sướng đắc thắng “Bác Rùa ơi, vợ tôi mới sinh
con!”; “Bác cứ ngậm chặt vào cái đuôi của tôi. Tôi đi đến đâu thì bác cũng đi tới
đó”.
+ Vợ Khỉ: giọng vui vẻ, thân thiện “Chào bác Rùa, quý hoá quá. Bác là
khách đầu tiên của vợ chồng em đấy. Bác gái ở nhà có khoẻ không? Dạo này bác
làm ăn thế nào? ”.
+ Rùa: giọng rên rỉ vì đau đớn “Ối…đau quá!”
- GV tổ chức cho học sinh kể theo nhóm 4 (vì có người dẫn chuyện).
- Tổ chức thi kể giữa các nhóm.
Nhìn chung, với hình thức phân vai thì học sinh rất thích thú, các em có
cơ hội trao đổi và thể hiện năng lực sáng tạo bản thân, không còn ngại kể chuyện
nữa.
4.3- Hướng dẫn học sinh biểu hiện nét mặt, điệu bộ trong khi đọc.
Tư thế, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt của người đọc là những yếu tố
kèm ngữ điệu, được sử dụng kết hợp với giọng đọc, tạo nên sự giao cảm giữa
người đọc với người nghe, tạo nên hiệu quả tiếp nhận tốt hơn ở người nghe.
Khi đọc những văn bản vui, tôi dặn học sinh cần nhoẻn miệng cười trước

khi đọc và khi đọc thì mắt nhìn về phía người nghe, có khi tôi làm mẫu cho học
sinh quan sát nhận xét thấy rõ hiệu quả của việc làm để các em thực hành.
Ví dụ 1: “ Ai trồng cây

11


Người đó có tiếng hát
Trên vòm cây
Chim hót lời mê say”
(Bài 68 TV1 tập 1, trang 139)
Với khổ thơ này, khi đọc tôi hướng dẫn các em rạng ngời nét mặt, ánh mắt
tươi vui sẽ lôi cuốn người nghe có nhu cầu muốn trồng cây.
Ví dụ 2:
“ Vì bây giờ mẹ mới về ”
Cậu bé cắt bánh bị đứt tay nhưng không khóc. Mẹ về, cậu mới khóc òa
lên. Mẹ cậu hoảng hốt:
- Con làm sao thế?
- Con bị đứt tay.
- Đứt khi nào thế?
- Lúc nãy ạ.
- Sao đến bây giờ con mới khóc?
- Vì bây giờ mẹ mới về.
(TV1 tập 2, trang 88)
Đây là một câu chuyện về một cậu bé cũng như độ tuổi của học sinh, gần
gũi với đời sống thực của các em. Tôi đã tổ chức đọc phân vai, tạo điều kiện cho
các em biểu lộ nét mặt, điệu bộ lúc đọc: vai người con thì mếu máo, vai người
mẹ thì mắt mở to nhìn chằm chằm vì lo lắng rồi chuyển sang vui vẻ trìu mến khi
hiểu được con của mình “Sao bây giờ con mới khóc”.
Đặc biệt trong hoạt động kể chuyện, tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ

lời nói, cử chỉ để các em nhập vai tốt hơn.
5. Biện pháp 5: Hướng dẫn học sinh về tốc độ và âm lượng đọc khi đọc
thành tiếng.
5.1-Tốc độ đọc.
Đọc chậm quá, đọc ấp a ấp úng hoặc ngược lại đọc liến thoắng, đọc nhanh
quá đều làm cho người nghe khó theo dõi, không hiểu đúng và đầy đủ nội dung
của bài học. Muốn đọc nhanh thì yêu cầu học sinh phải có đôi mắt lướt nhanh
câu chữ khi đọc, phải đọc lưu loát trôi chảy. Chính vì vậy tôi luôn nhắc nhở học
sinh phải đọc bài trước khi ở nhà, đọc đi đọc lại cho nhiều lần bằng nhiều hình
thức đọc thành tiếng, đọc bằng mắt có như vậy thì khi đọc bài trước lớp các em
mới đọc không bị vấp, bị ê a ngắc ngứ. Bên cạnh đó tôi còn yêu cầu các em bấm
đồng hồ để tập đọc cho đúng tốc độ với yêu cầu, tối thiểu 20 tiếng/ 1 phút (cuối
kì I), 30 tiếng/ 1 phút (cuối kì II). Luyện như thế nhiều lần học sinh sẽ có thói
quen đọc đúng tốc độ cần đạt.
5.2-Âm lượng đọc.
Âm lượng đọc (độ to nhỏ của giọng đọc) phải đủ nghe. Đọc nhỏ quá (đọc
lí nhí, âm thanh không thoát ra miệng) hoặc to quá (như gào lên) sẽ làm cho
người nghe theo dõi một cách mệt mỏi, khó chịu. Tuỳ theo số lượng người nghe

12


(một người, một nhóm, cả lớp hoặc đám đông) người đọc cần điều chỉnh âm
lượng cho phù hợp.
Chính vì thế, khi hướng dẫn học sinh đọc tôi thường nhắc các em đọc to,
rõ ràng nhưng không đươc hét sẽ gây ra âm thanh chói tai, đọc để cho cả lớp đủ
nghe. Còn khi học sinh bị lỗi đọc nhỏ quá, tôi thường nhắc các em nâng cao
giọng đọc, mở rộng vòm họng, mở to miệng khi đọc. Nếu chưa thực hiện được,
tôi tập cho các em đọc to khi nào bạn ở xa nhất lớp nghe được mới thôi.
Khi luyện đọc tôi cho học sinh nhận xét giọng đọc của bạn, giải thích vì

sao đọc như thế là hay? là chưa hay? Tôi tổ chức cho học sinh thi đọc theo tổ và
cho học sinh nhận xét tìm ra giọng đọc đúng và hay nhất. Cứ như vậy, dần dần
học sinh lớp tôi học tốt hơn.
Để giúp học sinh luyện đọc thành tiếng đạt hiệu quả cao, tôi nghĩ người
giáo viên còn phải thật chú ý quan sát cách đọc của học sinh, có như vậy, cô
giáo mới phát hiện ra chỗ nào học sinh đọc đúng, chỗ nào đọc sai để tìm ra cách
sửa chữa. Giáo viên không nên nhận xét chung mà phải nhận xét cụ thể giọng
đọc của từng học sinh. Làm được như vậy thì kết quả luyện đọc cho học sinh
mới đạt kết quả cao.
Luyện đọc thành tiếng yêu cầu phải có thời gian thực hiện luyện tập lâu
dài và kiên trì. Vì thế tôi không chỉ tập luyện đọc thành tiếng cho học sinh trong
các giờ Học vần, Tập đọc mà tôi còn lồng ghép dạy vào tất cả các môn học.
Ví dụ: Khi dạy Toán, tôi gọi học sinh đọc đề toàn và yêu cầu các em phải
đọc to, rõ ràng, ngắt nghỉ đúng thì người đọc và người nghe mới hiểu được yêu
cầu của đề. Hay đọc yêu cầu của bài tập trong các môn khác như môn Đạo đức,
Tự nhiên và Xã hội… Tôi luôn hướng cho học sinh muốn trình bày một ý kiến
thì phải có thói quen chững chạc, tự tin, nói to, dõng dạc để cả lớp cùng nghe.
Như vậy nên tất cả học sinh lớp tôi đều có kỹ năng luyện đọc thành tiếng rất tốt.
Tóm lại, khi học sinh biết thực hiện tốt các hướng dẫn trên của giáo viên
thì tôi tin rằng các em đã biết đọc diễn cảm, học tốt môn Tiếng Việt nói riêng và
còn học tốt các môn học khác, làm nền tảng cho chất lượng mũi nhọn, là hạt
nhân của nhà trường.
6. Biện pháp 6: Sử dụng phương pháp dạy học theo kiểu phân hóa các đối
tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng đọc cho học sinh.
Trong lớp có nhiều đối tượng học sinh: biết đọc diễn cảm, đọc rõ ràng lưu
loát, đọc đúng, đọc còn bị lỗi (sai phụ âm, sai nguyên âm, sai dấu thanh, đọc
nhỏ…) nên tôi đã thực hiện các cách sau:
- Sắp xếp học sinh ngồi theo nhóm cùng đối tượng để có điều kiện giúp
đỡ sửa lỗi cho các em.
- Tăng cường làm việc tay đôi với học sinh, nhất là những học sinh đọc

chậm, đọc chưa đúng.

13


- Thường xuyên phụ đạo riêng cho các em đọc chậm, đọc còn bị lỗi vào
15 phút đầu giờ hay lúc ra chơi.
- Phân công các em đọc tốt kèm học sinh đọc chậm, đọc chưa đúng những
khi cô giáo bận hoặc không có trên lớp (ngoài giờ học).
- Với đối tượng học sinh đọc tốt, tôi thường xuyên động viên các em đọc
truyện, báo cho bạn nghe để khơi dậy ở các em ý thức cố gắng vươn lên đọc
được như bạn.
Trong lớp học sinh luôn phân công phù hợp với khả năng của từng học
sinh. Đối với học sinh đọc tốt, tôi thường giao cho các em đọc mẫu đoạn văn,
câu văn, hoặc vai một nhân vật nào đó. Đồng thời khuyến khích các em biết
sáng tạo trong cách đọc. Đối với học sinh đọc chậm, đọc chưa đúng tôi không
yêu cầu các em luyện đọc nhiều mà chỉ cần các em đọc đúng một câu hoặc một
từ khó. Cứ mỗi ngày một ít dần dần các em sẽ tiến bộ. Tôi nghĩ như vậy, sẽ
không làm cho các em cảm thấy chán học hoặc nghĩ mình bị cô và bạn bỏ rơi
không quan tâm và chắc chắn các em sẽ phát huy được thế mạnh của mình và khắc
phục được những nhược điểm của mình.
7. Biện pháp 7: Khích lệ niềm say mê đọc sách của học sinh.
“ Mỗi tuần đọc một cuốn sách” đó là câu khẩu hiệu mà tôi đã phát động
trong lớp ngay từ đầu năm. Do đặc điểm tình hình và kinh tế của gia đình học
sinh, nhiều em có hoàn cảnh khó khăn nhưng có nhiều em có điều kiện thuận lợi
do có bố mẹ là giáo viên hoặc công chức nhà nước, nên tôi đã tổ chức phân
nhóm theo nơi ở, theo điều kiện kinh tế để các em trong cùng một đội, một vùng
sẽ hỗ trợ cho nhau. Trong nhóm tôi thường giao cho em đọc tốt kèm em đọc
chậm và tôi đã động viên học sinh nên tìm tòi, sưu tầm các cuốn sách, báo,
truyện phù hợp với lứa tuổi để đọc và tìm hiểu thêm. Cuối tuần vào tiết sinh hoạt

lớp các nhóm sẽ báo cáo kết quả trong tuần nhóm đã đọc được bài nào. Đại diện
nhóm sẽ thi đọc với nhau và tôi thường có những phần thưởng nhỏ để thưởng
kịp thời cho nhóm có kết quả tốt nhất.
Bên cạnh đấy, tôi cũng thường xuyên sưu tầm thêm sách báo truyện thiếu
nhi và mượn ở thư viện nhà trường để cho các em đọc vào các tiết sinh hoạt 15
phút. Cũng chính nhờ những việc làm nhỏ này, mà tôi đã khích lệ được tinh thần
luyện đọc trong toàn lớp.
8. Biện pháp 8: Tổ chức trò chơi để luyện đọc và mở rộng vốn từ cho học
sinh.
Đây là một hình thức mà tôi thường xuyên áp dụng vào các tiết dạy Học
vần, Tập đọc vì tôi thấy mỗi lần tổ chức các trò chơi thì không khí lớp học sôi
nổi hẳn lên, các em trở nên rất hào hứng với tiết học. Cụ thể tôi thường tổ chức
các trò chơi bằng các hình thức sau:
Cuối tiết 1 của bài Học vần tôi thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
“Tìm nhanh tiếng mới ?” với nội dung: tìm tiếng (từ) mang âm (vần) đã học. Sau đó

14


cho đọc các từ vừa tìm được, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của từ. Trò chơi này
giúp học sinh mở rộng vốn từ và củng cố âm (vần) các em vừa học.
Ví dụ:
Bài 80: iêc - ươc
Tôi nêu tên trò chơi “ Tìm nhanh từ mới có vần iêc - ươc”, phổ biến luật chơi,
tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: học sinh nêu từ, giáo viên ghi bảng (từ học sinh
vừa nêu kèm theo tên học sinh bên cạnh), tổng hợp xem ai tìm được nhiều từ đúng
thì bạn đó chiến thắng. Tôi ghi bảng như sau:
iêc
ươc
xanh biêng biếc ( ...)

mơ ước( ...)
tiếc nuối (...)
bắt chước (...)
liếc nhìn (...)
hoa thược dược(...)
việc tốt (…)
bước đi (…)
Tiếp theo tôi cho học sinh đọc các từ mà các em vừa tìm được, giáo viên có
thể giải nghĩa một vài từ khó hiểu cho các em, dặn các em về nhà tìm thêm từ và
luyện đọc.
Đối với bài ứng dụng là thơ thì tôi tổ chức thi đọc nối tiếp câu. Nếu em
nào không đọc được thì sẽ phải hát hoặc làm trò trước cả lớp.
Đọc đối đáp cũng gây hứng thú luyện đọc cho các em. Ngoài luyện đọc
cho các em, đó còn là cách đọc luyện sự tập trung chú ý, nhanh thuộc bài.
Ví dụ:
“ Kể cho bé nghe ”
(trích)
Học sinh A:
Hay nói ầm ĩ
Học sinh B:
Là con vịt bầu.
.………..
Hay hỏi đâu đâu
Là con chó vện.
Hay chăng dây điện
Là con nhện con.
Ăn no quay tròn
Là cối xay lúa.
Mồm thở ra gió
Là cái quạt hòm.

Không thèm cỏ non
Là con trâu sắt.
Rồng phun nước bạc
Là chiếc máy bơm.
Dùng miệng nấu cơm
Là cua, là cáy....
Trần Đăng Khoa
(TV 1, tập 2 - trang 112)
Khi học bài này, đến hoạt động luyện đọc lại, tôi tổ chức cho học sinh đọc đối
đáp: Người này đọc câu chỉ hoạt động “Hay nói ầm ĩ” xong thì người kia đọc câu chỉ

15


chủ thể “Là con vịt bầu” tiếp tục cho hết bài. Đọc đối đáp theo nhóm đôi, theo tổ,
bên nào thua thì phải làm trò theo yêu cầu của bên thắng.
Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho học sinh thi làm hướng dẫn viên du lịch ở
hoạt động luyện nói (Bài 69 trang 141, bài 82 tr167 TV 1 tập 1) hoặc đối với
dạng bài là truyện thì tôi cho học sinh thi đọc phân vai để tái hiện lại câu chuyện
một cách sinh động nhất.
Tóm lại: Với các hình thức này tôi thấy nó rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi
học sinh tiểu học, nó giúp các em thêm yêu thích được học, được đến trường và
quan trọng hơn nó sẽ tạo cho các em một không khí thoải mái, thi đua học tập.
9. Biện pháp 9: Công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và tạo môi
trường học tập tốt cho học sinh.
Các em học sinh tiểu học đang còn ở lứa tuổi nhỏ nên các em rất cần được
sự gần gũi, quan tâm và đặc biệt là thái độ nhẹ nhàng, khéo léo của cô giáo giúp
cho các em thêm tự tin, tin tưởng ở cô. Chính vì thế khi dạy các em luyện đọc
nhất là đối với học sinh đọc còn chậm tôi thường xuyên gọi các em đọc trong
các tiết học. Khi các em đọc chưa đúng tôi đến bên cạnh chỉ bảo nhẹ nhàng, có

những học sinh tôi phải kiên trì hướng dẫn đọc đi đọc lại chỉ một từ cho đến khi
em đọc đúng mới thôi, nhưng không vì nóng vội mà tôi cáu gắt, hoặc gây áp lực
để cho các em hoảng sợ, vì tôi biết nếu làm như thế thì mọi cố gắng của tôi sẽ
thành con số không, bởi vì các em khi đọc chậm thường thiếu đi sự tự tin, lo sợ
khi bị cô giáo gọi đọc. Tôi luôn khen ngợi kịp thời những học sinh đọc tốt, có
tiến bộ khéo léo động viên những học sinh đọc chưa tốt để các em có niềm tin, chí
hướng vươn lên.
Đặc biệt vào lớp học tôi thường xuyên chú ý đến ánh sáng sao cho các em
có đủ ánh sáng cho việc học bằng việc bật bóng điện, mở rộng tất cả cửa phòng
học, học sinh có khuyết tật về mắt thì tôi cho ngồi bàn đầu, học sinh nhỏ thì ngồi
trên, học sinh lớn thì ngồi bàn dưới.
Đối với việc phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường:
- Ngay từ đầu năm học, trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã thông
qua chất lượng khảo sát đọc của học sinh để phụ huynh nắm được trình độ đọc
của con em mình
- Tôi hướng dẫn học sinh cách giúp cho các em đọc đúng và lưu ý phụ
huynh cần chú ý cách đọc đúng các âm, vần, dấu thanh.
- Tôi thường xuyên thông báo sự tiến bộ hoặc chưa tiến bộ của từng em
thông qua sổ liên lạc, qua họp phụ huynh các kỳ, hoặc gặp gỡ trao đối với phụ
huynh
- Tôi động viên phụ huynh nên mua thêm các sách, báo truyện thiếu nhi
để các em đọc thêm ở nhà.
- Ngoài ra tôi còn vận động những phụ huynh có điều kiện tài trợ vật chất
để mua vở tặng học sinh đọc tốt, đọc có tiến bộ sau mỗi đợt kiểm tra.

16


Nhờ công tác phối hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường và việc tạo
môi trường thuận lợi mà quá trình rèn đọc cho học sinh của tôi gặp rất nhiều

thuận lợi và nhiều em có tiến bộ rõ rệt.
4. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC
Với những biện pháp cụ thể nêu trên, tôi đã nỗ lực cố gắng trong suốt năm
học vừa qua, kết quả thật đáng phấn khởi không phụ lòng mong đợi của tôi cũng
như Ban giám hiệu nhà trường và các bậc phụ huynh học sinh. Qua kiểm tra
định kì lần 2, kiểm tra chất lượng thực của Ban giám hiệu nhà trường, lớp tôi có
kết quả như sau:
Tổng số
HS
24

Số học sinh đọc
đúng, lưu loát và hay
SL
9 em

TL
37 %

Số học sinh đọc
đúng (Mức độ bình
thường)
SL
TL
15 em
63 %

Số học sinh đọc
không đúng
SL

0 em

TL
0%

PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Qua một năm học, với sự nỗ lực của mình và sự giúp đỡ của Ban giám
hiệu nhà trường, tổ chuyên môn, sự kết hợp chặt chẽ của phụ huynh tôi đã thu
được kết quả rất đáng khích lệ.
Những biện pháp tôi đưa ra ở trên chưa đạt được kết quả như mong
muốn, song nó cũng giúp tôi phần nào thấy được những thuận lợi, khó khăn mà
giáo viên và học sinh gặp phải. Trong suốt quá trình giảng dạy và thực hiện đề
tài, tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm để nâng cao chất lượng đọc cho học
sinh tiểu học như sau:
- Phải chuyên tâm với nghề, yêu trẻ, chú ý môn dạy mà mình trăn trở.
- Giáo viên phải có giọng đọc mẫu chuẩn vì đó là một trong những biện
pháp dạy học có tác dụng tốt nhất.
- Biết quan sát cách đọc của học sinh, biết tái hiện lời đọc của học sinh
đối chiếu với lời đọc mẫu để tìm ra lỗi và sửa lỗi cho học sinh.
- Trước khi lên lớp giáo viên phải dự tính trước các lỗi mà học sinh hay
mắc để từ đó đưa ra phương án đúng để chữa các lỗi.
- Tạo cho giờ học nhẹ nhàng, thoải mái, gần gũi học sinh. Nhận xét giọng
đọc của học sinh chính xác. Tuyệt đối không phê phán gay gắt những học sinh
đọc sai, khen chê đúng lúc, kịp thời giúp học sinh tự tin, thoải mái khi luyện
đọc.
- Lồng luyện đọc cho học sinh trong tất cả các môn học, trong giao tiếp
hằng ngày.

17



- Động viên, khuyến khích học sinh kịp thời đặc biệt là học sinh tiếp thu
còn chậm, giáo viên giúp các em vượt bậc dù là tiến bộ rất nhỏ nhưng khâu quan
trọng trong tiết dạy.
- Nên kết hợp với phụ huynh bằng nhiều hình thức để giúp học sinh học
tập được tốt hơn.
- Nên dạy lồng ghép với các môn học khác hoặc các hoạt động khác như:
sinh hoạt tập thể, sinh hoạt 15 phút đầu giờ,...
- Phân loại học sinh để có biện pháp kịp thời.
- Rèn các em tính tự tin trước đông người (học trên lớp, học nhóm, học ở
nhà,...).
Nếu thực hiện tốt những điều trên tôi tin rằng giờ tập đọc sẽ được học sinh
yêu thích và hứng thú học giờ này.
Là một giáo viên Tiểu học, đứng trước những lớn lao của ngành, bản thân
tôi sẽ không ngừng học hỏi, nghiên cứu để đúc rút được nhiều kinh nghiệm hơn
trong quá trình xây dựng chuyên môn để có những tiết dạy tập đọc sáng tạo và
hiệu quả hơn.
2. KIẾN NGHỊ
- Hàng năm cần tổ chức các cuộc hội thảo về chuyên môn tạo điều kiện
cho giáo viên giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các trường.
- Cần phối hợp với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh xây dựng và
bổ sung sách, báo, truyện đọc hơn nữa để các em tham gia định kì đọc sách báo
ở thư viện.
Qua thực tế giảng dạy tôi mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến nhỏ: Hiểu biết
của tôi còn hạn chế, kinh nghiệm còn chưa nhiều, thời gian giảng dạy và nghiên
cứu còn hạn hẹp nên trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu
sót.
Kính mong được sự góp ý và giúp đỡ chân thành của Hội đồng khoa học
các cấp, để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn !
Xuân Thành, ngày 18 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người thực hiện
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Hiệu Trưởng

18


Lê Thị Huyền

TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

Tên sách

1

Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 (tập 1) - Nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam, năm 2014.

2

Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 (tập 2) - Nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam, năm 2010.

3


Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 1 (tập 1; 2) - Nhà xuất bản giáo dục,
năm 2002.

4

Sách hướng dẫn tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh
lớp 1 - Nhà xuất bản giáo dục, năm 2010.

5

Các loại sách, báo truyện thiếu nhi trong thư viện nhà trường.

6

Luật giáo dục
19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Huyền
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường TH Xuân Thành

STT

1

2


Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại (A,
B, hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy và học Chính
tả lớp 3.

PGT& Đ T
Thọ Xuân

C

2014 - 2015

Một số biện pháp rèn đọc
cho học sinh lớp 1

PGT& Đ T

Thọ Xuân

A

2017 - 2018

Tên đề tài SKKN

20



×