PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN ĐÔNG TRIỀU
TRƯỜNG TIỂU HỌC QUYẾT THẮNG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN ĐỌC CHO
HỌC SINH LỚP 1 TRONG CÁC TIẾT TẬP ĐỌC
Người viết :
Đơn vị
:
Thắng
Nguyễn Thị Thái
Trường Tiểu học Quyết
NĂM HỌC 2013- 2014
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dạy Tiếng Việt ở tiểu học là trang bị cho HS những tri thức về hệ thống
tiếng Việt, rèn luyện cho HS những kỹ năng sử dụng tiếng Việt trong quá trình
giao tiếp bao gồm các kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết.Trong đó kỹ năng đọc là
hoạt động được chú ý đúng mức ngay từ lớp Một.
Ở tiểu học, môn tiếng Việt rất quan trọng. Học tốt môn tiếng Việt các em
có điều kiện học tốt các môn học khác. Bởi thông qua việc dạy học môn tiếng
Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy và cung cấp cho HS những kiến
thức sơ giản về tiếng Việt, về tự nhiên xã hội và con người, về văn hoá, văn học
của Việt Nam và nước ngoài. Đồng thời bồi dưỡng cho các em tình yêu tiếng
Việt và hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để có thể bày tỏ ý nghĩa, tình cảm của mình, người ta phải nói hoặc viết
tiếng Việt cả 2 dạng ngôn ngữ (lời nói, chữ viết). Có nghĩa là dạy cả 4 kỹ năng
(nghe, nói, đọc, viết) là dạy HS cả lĩnh hội và sản sinh các ngôn ..... bằng tiếng
Việt.
Trong quá trình đổi mới phương pháp và nội dung dạy học của bậc tiểu
học với mục tiêu giáo dục toàn diện các em được học 9 môn học, trong đó môn
Tiếng Việt là môn học hết sức quan trọng. Nhất là đối với lớp 1, là lớp đầu cấp .
Người ta thường nói “ Cấp 1 là nền, lớp 1 là móng”, móng có chắc thì nền mới
vững.
Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe,nói,đọc,viết. Và
kỹ năng đọc rất quan trọng. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành
thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng,
học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học
tập của các em đạt khá - giỏi.
2. Mục đích nghiên cứu
-2-
Bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tìm ra phương pháp
và hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó từng bước nâng cao năng lực
đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh.
- Về đọc đúng: Học sinh đọc đúng các phụ âm đầu vần, thanh, đọc đúng tiếng
từ, câu, đoạn văn, bài văn, bài thơ.
- Đọc hay, đọc diễn cảm: Học sinh khi đọc bài văn, bài thơ phải biết ngắt nghỉ
đúng các dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm cảm. Khi đọc biết lên
giọng, hạ giọng ở những câu văn, bài thơ, hơn nữa là đọc phân vai.
- Học sinh hiểu được nội dung văn bản và thể loại (văn xuôi hay thơ), từ đó học
sinh có thái độ, tình cảm đúng trong cuộc sống.
- Thông qua dạy học giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn học,
hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự tin khi giao tiếp nhằm
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển toàn
diện về mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mĩ cho học sinh.
3. Thời gian, địa điểm
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 9/2013 đến tháng 5/2014
Địa điểm nghiên cứu: Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Quyết Thăng.
4. Đóng góp về mặt thực tiễn
Để xây dựng một đề tài thì việc nghiên cứu lý luận là không thể thiếu
được. Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã nghiên cứu, tham khảo các sách giáo
khoa, sách giáo viên và nhiều tài liệu có liên quan đến việc nghiên cứu đề tài
này.
Thông qua đề tài này nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
- Rèn kỹ năng và năng lực đọc cho học sinh.
- Trau dồi kiến thức văn học, kiến thức ngôn ngữ, kiến thức đời sống cho học
sinh.
- Giáo dục thẩm mĩ - tình cảm - phát triển tư duy cho học sinh.
- Học sinh học môn Tiếng Việt có kết quả cao trong đó có phân môn Tập đọc.
- Học sinh đọc tốt còn giúp các em học tốt các môn khác.
-3-
Để tiến hành làm đề tài này, tôi đã nghiên cứu sách giáo khoa phân môn
Tập đọc lớp 1 để tìm hiểu nội dung, cấu trúc của chương trình. Tìm hiểu việc
dạy và học của các em có hệ thống nội dung bài học (nội dung sách giáo khoa ).
Nghiên cứu tài liệu hướng dẫn dành cho giáo viên của môn Tiếng Việt trong đó
có phân môn Tập đọc lớp 1. Nghiên cứu rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy để rút
ra những điều cần thực hiện.
Nghiên cứu tài liệu có liên quan đến môn Tiếng Việt nhất là phân môn Tập
đọc.
Học hỏi các đồng nghiệp trong trường nhất là giáo viên khối 1. Vì vậy đây
cũng là dịp để bản thân tôi học hỏi và tham gia các tài liệu tham khảo của các
chuyên gia nghiên cứu dạy phân môn Tập đọc cho học sinh và qua đó có thể tự
bồi dưỡng bản thân.
-4-
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Chượng 1: Tổng quan
Sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết.
Biết đọc, biết viết là cả một thế giới mở ra trước mắt các em.
Xuất phát từ quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ và rèn đọc
cho các em học tiếng mẹ đẻ. Hiện nay, ngành Giáo dục nói chung và bậc Tiểu
học nói riêng, đã và đang tiến hành phương pháp dạy học đối với tất cả các môn
học trong đó có môn Tập đọc. Mặt khác, tập đọc là một phân môn mang tính
tổng hợp, bởi bên cạnh việc dạy học chúng ta còn trau dồi kiến thức về Tiếng
Việt, kiến thức về văn học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mĩ cho học
sinh. Phân môn Tập đọc góp phần hình thành và phát triển kỹ năng đọc cho học
sinh bằng một trong bốn kỹ năng cơ bản mà học sinh Tiểu học cần phải nắm
vững. Hiện nay, ở nhà trường Tiểu học, việc rèn kỹ năng đọc đạt kết quả chưa
cao. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân lớn nhất là cách
thức về phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng. Trên thực tế, nếu không có
kỹ năng đọc thì học sinh không có điều kiện để học các môn học khác, không
thể tiếp thu tri thức của nhân loại. Vì vậy, việc dạy đọc cho học sinh có ý nghĩa
to lớn. Thông qua dạy đọc, giáo viên giúp học sinh đọc đúng, đọc hay và bồi
dưỡng cho các em cái hay, cái đẹp trong cuộc sống. Giáo viên phải đặc biệt coi
trọng và chú ý đến việc dạy văn kết hợp với dạy ngữ cho học sinh học tiếng mẹ
đẻ một cách toàn diện. Dạy đọc đúng với dạy đọc hay, dạy đọc “ngôn ngữ” với
dạy đọc “văn học”. Đó chính là cơ sở dạy học cho học sinh trưởng thành và phát
triển cả về trí tuệ và tâm hồn, nhân cách và tri thức.
Với học sinh lớp 1, các em bước đầu biết đọc thì giáo viên cần hướng dẫn
đọc đúng, đọc nhanh, đọc lưu loát trôi chảy. Với học sinh lớp 3, giáo viên yêu
cầu cao hơn nữa. Không chỉ đọc đúng, đọc nhanh mà còn phải đọc diễn cảm,
đọc phải thể hiện được nội dung tình cảm của bài. Để từ đó các em có thể bộc lộ
-5-
tình cảm của mình qua mỗi bài đọc một cách khác nhau. Vì thế tôi đã và đang
từng bước thực hiện nhiệm vụ dạy tốt môn Tiếng Việt, trong đó có phân môn
Tập đọc. Từ đó người giáo viên thấy rõ và xác định được việc dạy học tập đọc
cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng là một việc làm hết
sức cần thiết. Chúng ta phải làm thế nào để thông qua môn Tập đọc giúp học
sinh không những đạt được năng lực đọc mà phải hiểu nội dung của văn bản và
các thể loại từ văn xuôi đến thơ ca. Hiểu được ý đồ của tác giả và bút pháp nghệ
thuật mà mỗi tác giả đã thể hiện trong tác phẩm. Hay nói một cách khác, giáo
viên phải tìm phương pháp tiếp cận làm cho học sinh có cảm tình với bài đó,
thúc đẩy học sinh biểu lộ tình cảm, thái độ tự nhiên thông qua giọng đọc.
Trong thực tế hiện nay, để thực hiện được vấn đề này, người giáo viên phải
thay đổi cách truyền thụ để các em có thể nắm bắt được tri thức, thực hiện việc
dạy theo hướng đổi mới.
Mặt khác, việc dạy đọc cho học sinh đã có từ lâu và cũng có nhiều tài liệu
đề cập đến. Tất cả đều khẳng định vai trò của việc dạy đọc - đọc hiểu - đọc diễn
cảm cho học sinh. Vì vậy, trong quá trình dạy phân môn Tập đọc, giáo viên cần
quan tâm đến tất cả các yếu tố cấu thành chất lượng phân môn Tập đọc và đặc
biệt là việc dạy đọc cho học sinh phải được coi trọng. Thông qua việc dạy đọc
giúp các em hiểu văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức. Biết đọc diễn cảm là
thể hiện được những cảm xúc, tình cảm theo từng nội dung.
1.1 Cơ sở lý luận:
Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc
sống con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để sáng
tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xử sở và đem lại
cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. Trong nhà trường tiểu học ở Việt
Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là
hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân
môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc
biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng
-6-
đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học đầu tiên. Kỹ
năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý
thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu)
và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các
môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng
lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà
trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch
đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.
Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em
thật vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp
tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt.
Việc dạy đọc ở lớp 1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần
từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó với
các em mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh
yêu tiếng Việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp
của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế
nhưng hiện nay, ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ
điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của
chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp,
học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc.
Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy tập đọc
ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản
mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giúp
các em đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu,
biết cách ngắt nghỉ hơn trong văn bản thơ, cũng như văn bản văn xuôi. Những
băn khoăn này chính là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp luyện đọc cho
học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc” này nghiên cứu để góp một phần nào cho
việc rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 trường Tiểu học Quyết Thắng,
năm học 2013 – 2014.
1.2 Cơ sở thực tiễn:
-7-
Trong phạm vi cơ sở trường học và tình hình địa phương nơi công tác, tôi
đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
1/ Thuận lợi:
a/ Giáo viên:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên
môn.Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ
năng cho học sinh tiểu học vv… cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên
cứu, học hỏi, giảng dạy
- Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng, dự giờ
hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút
ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng
dạy.
- Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có
nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng
giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó
khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm.
b/ Học sinh:
- Ở độ tuổi 6 – 7 của học sinh lớp 1.Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng
lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên
khen thưởng vv….
- Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ
huynh có ý thức trách nhiệm không khoán trắng cho nhà trường, cho giáo
viên,mà tích cực tiếp tay với giáo viên trong việc học tập của con em mình như:
Thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như
học tập ở nhà.
2/ Khó khăn:
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số
khó khăn sau:
a/ Giáo viên:
-8-
- Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Tiếng Việt còn hạn chế. Giáo viên
còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất thời
gian đầu tư.
b/ Học sinh:
- Một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm
theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
- Do các em đã quen với môi trường ở lớp mẫu giáo chơi nhiều hơn học
và hôm nay đã sang với môi trường mới (lớp Một) học nhiều hơn chơi cho nên
các em còn quá bỡ ngỡ khi đến lớp, đến trường.
- Sự tập trung chú ý chưa cao, tư duy chưa phát triển.
- Đa số học sinh còn thụ động, nhút nhát, khó nhớ, mau quên.
- Nhận thức học tập của các em còn nhiều hạn chế.
- Học sinh thường phát âm sai các âm đầu: tr/ch ; x/s; n/l; tiếng mang dấu
thanh như : thanh huyền/thanh ngang; thanh sắc/ thanh hỏi… dễ lẫn lộn.
- Bên cạnh đó, một số em chưa có ý thức học tập, không tập trung trong
giờ học dẫn đến không nắm chắc hết các bài học.
-Còn một phần không ít phụ huynh không và chưa quan tâm đúng mức
đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để con em mình đến
lớp cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà. Các phương pháp dạy học
của phụ huynh là cũ kĩ.
2. Chương II: Nội dung vấn đề nghiên cứu
2.1. Thực trạng
Mặc dù lâu nay các thầy cô giáo đã và đang thực hiện viêc rèn đọc đúng,
đọc diễn cảm cho học sinh, nhất là đối với học sinh tiểu học, nhưng điều đó vẫn
còn bị hạn chế.
Bản thân tôi là một giáo viên Tiểu học đã trực tiếp dạy lớp 1 nhiều năm tôi
thấy được quá trình dạy đọc đúng - đọc diễn cảm cho học sinh Tiểu học là rất
quan trọng. Đối với học sinh lớp 4-5, việc đọc diễn cảm và đọc đúng đã là vấn
đề khó thì đối với học sinh lớp 1 lại càng khó hơn nhiều. Bởi vì các em đều là
học sinh mới bắt đầu đến trường, việc làm quen với các con số và mặt chữ còn
-9-
khó khăn thì việc đòi hỏi các em đọc đúng, đọc diền cảm lại càng khó. Nhưng
nếu được quan tâm rèn luyện thì các em dần dần sẽ tiếp thu được.
Thực tế khảo sát chất lượng của phân môn Tập đọc đầu năm của học sinh cho
thấy, học sinh phát âm sai rất nhiều, phổ biến là sai các phụ âm đầu, vần và dấu
thanh. Học sinh thường phát âm sai phụ âm đầu l/n, ch/tr, s/x và các thanh hỏi –
ngã. Học sinh đọc bài chưa biết ngắt nghỉ dấu chấm, dấu phẩy trong một bài
văn, bài thơ. Các em chưa biết đọc diễn cảm, hạ giọng hay kéo dài giọng… ở
câu thơ, câu văn nào để người nghe cảm thấy cái hay của bài thơ hoặc bài văn
đó.
Về giáo viên, việc rèn cho học sinh kỹ năng đọc còn có một số hạn chế cần
khắc phục. Hơn nữa quy trình phân môn Tập đọc đối với học sinh lớp 1 còn mới
mẻ nên tôi phải vừa làm, vừa tìm tòi học hỏi để tự bồi dưỡng bản thân, trang bị
cho mình một vũ khí sắc bén để dạy học đạt kết quả cao. Là một giáo viên, tôi
không thể không lo ngại trước kết quả khảo sát phân môn Tập đọc của lớp 1B
tuần 25 qua bài tập đọc “ Tặng cháu”
Kết quả khảo sát như sau:
Số HS
Đọc ngọng
được
khảo sát
35
Đọc sai p/âm Đọc sai dấu, thanh Đọc đúng
Đọc diễn cảm
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
TS
2
5,7
4
11,4
3
8,6
26
74,3
0
%
Xuất phát từ cơ sở lý luận và trước thực tế trên của lớp thì với yêu cầu của
chương trình sách giáo khoa . Tôi có băn khoăn suy nghĩ là phải làm gì và làm
như thế nào để các em phát âm chuẩn, đọc đúng, đọc diễn cảm.
Với đề tài này, tôi mạnh dạn trình bày một số phương pháp rèn kỹ năng đọc
cho học sinh lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy đọc. Khi viết đề tài này tôi
đã phát huy tất cả kiến thức được học, được bồi dưỡng qua các lớp học chuyên
môn và học hỏi, kế thừa kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước. Đặc biệt là kinh
nghiệm thực tế qua các giờ dạy mà đối tượng chính là học sinh của mình. Do đó
tôi muốn đưa ra những phương pháp đặc trưng ở góc độ chủ quan mà tôi đã tiếp
- 10 -
thu được trong những lần dự giờ, thao giảng . Từ nhận thức trên, bản thân tôi đã
rút ra “ Một số biên pháp luyện đọc cho học sinh lớp 1 trong các tiết Tập đọc”.
2.2. Các giải pháp luyện đọc cho học sinh lớp 1
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng nghiên
cứu những nội dung sau:
* Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc
Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc,
nắm bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay
cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học.
Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc
tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác.
Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này.
- Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với
nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận
động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành nhưng
dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng,
tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý
tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung
những gì được đọc.
- Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các
cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng
ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.
Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp
giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người
mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao
nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu.
- 11 -
- Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử dụng trong nhiều
nghĩa : theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật đọc
(tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghĩa rộng,
đọc được hiểu là kỹ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài). ý nghĩa
hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương
pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai - đọc được xem
như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố:
a. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ
b. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ
theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trình độ
nắm kỹ thuật đọc.
c. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kỹ năng đọc là
một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. T.G.Egorop (dẫn theo
3.101) chia việc hình thành kỹ năng này ra làm 3 giai đoạn : phân tích tổng hợp
(còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành
động) và giai đoạn tự động hoá. Giai đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ
cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn
vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với
nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý nghĩa của "từ" trong cụm từ hoặc
câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực hiện trong sự đoán các nghĩa.
Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc tổng hợp. Trong những năm học
cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hoá, nghĩa là người đọc ngày càng ít quan
tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc chiếm lĩnh văn hoá (bài
khoá), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó.
Thời gian gần đây, người ra đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ quy định
lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng làm việc với
văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ học đọc sao cho việc phân tích
nội dung của bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có ý thức bài đọc. Việc đọc như
thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biêt đọc khi nó đọc mà hiểu
- 12 -
trương điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu trẻ không hiểu được
những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập và không
có khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ, hứng
thú cho việc đọc.
Để có giờ tập đọc đạt kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc điểm yêu cầu, bản chất kỹ năng cơ
chế đích cần đạt được của tiết dạy tập đọc. Trên cơ sở đó sử dụng phương pháp
cho phù hợp.
* Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc
Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học.
Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính
âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của từ, của
câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu
câu… Phương pháp dạy học tập đọc phải dựa trên những kết quả nghiên cứu của
ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập nội
dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời những
cơ sở ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc dạy học
sẽ mang tính tuỳ tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học.
- Vấn đề chính âm trong tiếng Việt
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả
về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có
nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn
hoá ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng
chính âm.
- Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần
- 13 -
của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo
thành lời nói.
Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như các ngôn
ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng
(cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển
giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ).
Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ
bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng âm, âm
điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ
những yếu tố này.
- Cơ sở lý thuyết cơ bản, phong cách học và văn học của dạy đọc
Việc dạy đọc không thể dựa trên lý thuyết về văn bản những tiêu chuẩn để
phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây muốn nói đến những bài đọc ở tiểu học)
nói chung cũng như lý thuyết để phân tích, đánh giá các tác phẩm văn chương
nói riêng. Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu cho học
sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt: tính chính xác,
tính đúng đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên những đặc điểm vè các kiểu ngôn ngữ,
các phong cách chức năng, các thể loại văn bản, các đặc điểm về loại thể của
tác phẩm văn chương dùng làm ngữ liệu đọc ở tiểu học. Ví dụ, cách đọc và khai
thác để hiểu nội dung một bài thơ, một đoạn tả cảnh, một câu tục ngữ, một
truyền thuyết, một bài sử, một bài có tính chất khoa học thưởng thức… là khác
nhau. Việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài đọc cũng phải dựa trên
những hiểu biết về đề tài, chủ đề, kết cấu nhân vật, quan hệ giữa nội dung và
hình thức, các biện pháp thể hiện trong tác phẩm văn học, nhằm miêu tả, kể
chuyện và biểu hiện các phương tiện và biện pháp tu từ…. Việc luyện đọc cho
học sinh phải dựa trên những hiểu biết về đặc điểm ngôn ngữ văn học, tính hình
tượng, tính tổ chức cao và tính hàm súc, đa nghĩa của nó. Tất cả những vấn đề
trên đều thuộc phạm vi nghiên cứu của lý thuyết văn học. Vì vậy ta dễ dàng
- 14 -
nhận thấy phương pháp dạy tập đọc không thể không dựa trên những thành tựu
nghiên cứu của lý thuyết văn bản nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng.
* Chuẩn bị cho việc đọc thành tiếng
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần
phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35
cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp, khi được cô
giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay.
Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế
khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc
thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt này thường được
nhấn mạnh - là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết; vai thứ hai là người
trung gian để truyền thông tin đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ
hai này, người đọc đã thực hiện việc tái văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng,
người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng
với phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ
em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo
cho các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các em phải tính đến người
nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc không phải chỉ cho mình
cô giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho tất cả
những người này nghe rõ. Nhưng như thế không có nghĩa là đọc quá to hoặc gào
lên. Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ "lí nhí", giáo viên cần tập cho các em
đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên cho
học sinh đứng trên bảng để đối diện với những người nghe. Tư thế đứng đọc
phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai
tay.
- Luyện đọc đúng
a. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác,
không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc
đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là
- 15 -
không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc
đúng các âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu).
b. Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị
tiếng Việt.
- Đọc đúng các phụ âm đầu: TD có ý thức phân biệt để không đọc: “nàm
việc”, “khoẻ khắn” mà phải đọc là “làm việc” ,“khỏe khoắn”.
- Đọc đúng các âm chính: TD có ý thức phân biệt để không đọc “iu tin,
chai riệu” mà phải đọc “ưu tiên, chai rượu”.
- Đọc đúng các âm cuối: TD có ý thức không đọc: “luông luông” mà phải
đọc “luôn luôn”.
- Đọc đúng bao gồm cả đọc tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điều câu. Ngữ
điệu là hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ
với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm điệu, âm nhịp
và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm chủ những yếu tố này.
Đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy
đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc.
Khi dạy đọc đúng giáo viên cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ
pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra
làm hai. TD không ngắt hơi.
“Với em gái bé
Phải người / lớn cơ”
- Ông già bẻ gãy từng chiếc đũa một / cách dễ dàng. Không tách giới từ
với danh từ đi sau nó.
Thí dụ không đọc:
“Như con chim chích
Nhảy trên / đường vàng”
Không tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
Thí dụ: không đọc
- 16 -
Cá heo là / tay bơi giỏi nhất của biển
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu
hơn ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng
ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu
cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ giọng khi đọc bộ
phận giải thích của câu.
Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
- Luyện đọc nhanh
* Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm chất đọc
về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau
khi đã đọc đúng.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phần dạy đọc
của phân môn học vần phải đảm nhận), đọc không ê a, ngắc ngứ, không vừa đọc
vừa đánh vần. Về sau tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức
bài đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ đọc
nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp được. Vì vậy, đọc nhanh không phải là
đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng
trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều.
* Biện pháp luyện đọc nhanh
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu
để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn,
bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra, còn có
biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để
điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng
cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc như thế nào còn phụ
thuộc vào độ khó của bài đọc.
* Mục đích yêu cầu của phân môn tập đọc
- Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có tác dụng hình thành phát triển
ngôn ngữ cho học sinh. Tiếng Việt gồm nhiều phân môn: Tập đọc, từ ngữ, ngữ
pháp, chính tả, tập làm văn. Phân môn tập đọc có vị trí quan trọng. Dạy tốt phân
môn này đáp ứng một trong 4 kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Kỹ năng đọc nhanh,
chính xác, rõ ràng, rành mạch và diễn cảm nhờ đó học sinh có những hiểu biết
văn học ngôn ngữ và ngược lại. Vì vậy đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là
quá trình có liên quan mật thiết với nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh
được những tri thức văn hoá của dân tộc và cũng từ đó giáo dục tình cảm đạo
đức cao đẹp cho học sinh, đồng thời phát huy tính sáng tạo, khả năng tư duy cho
các em.
- 17 -
Đối với học sinh lớp 1, các em bắt đầu chuyển từ giai đoạn học vần sang
tập đọc vì vậy giờ tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp học vần, cả phương
pháp tập đọc. Yêu cầu của giờ tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm vần đã học
(nhất là các vần khó), đọc đúng và trơn tiếng, đọc liền từ, đọc cụm từ và câu: tập
ngắt nghỉ (hơi) đúng chỗ trong câu. Hiểu các từ thông thường, hiểu được ý diễn
đạt đã đọc (độ dài câu khoảng 10 tiếng). Bên cạnh nhiệm vụ ôn vần cũ, học vần
mới học sinh còn được phát triển vốn từ, tập nói câu đơn giản.
* Vài nét về phân môn tập đọc
- Cấu trúc chung: Phân môn tập đọc gồm 42 bài được bắt đầu từ tuần 5 của
học kỳ II (có 14 tuần dạy tập đọc, mỗi tuần có 3 bài, mỗi bài dạy trong 2 tiết).
- Nội dung: Các bài tập đọc xoay quanh 3 chủ đề: Nhà trường, gia đình,
thiên nhiên đất nước.
- Bài tập đọc lớp 1 gồm có các phần:
+ Văn bản đọc
+ Những từ khó cần lưu ý
+ Các câu hỏi (bài tập) để ôn luyện âm, vần
+ Luyện nói: nói về một vấn đề hoặc nhìn tranh để diễn đạt.
* Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc
Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở
các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn ở các
lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan trong như
nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng
hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo viên cho rằng
thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian của 2 phần này như
nhau. Được dự các tiết tập đọc của trường nói chung và của lớp 1 nói riêng tôi
nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh song do
thời gian bị hạn ché nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện
đọc từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ và câu mà
sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà học sinh của
mình hay nhầm lẫn.
* Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc
Hiện nay ở tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học cụ thể là: phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc
theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để
học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài…) và phương pháp
đóng vai (đối với văn kể chuyện).
* Thực trạng phần rèn đọc ở lớp 1
- 18 -
Qua tìm hiểu và dự giờ ở lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ tập đọc
được tiến hành theo trình tự sau:
Tiết 1:
1. Kiểm tra bài cũ
Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với nội
dung bài học.
2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài:
- Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp
- Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi
b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc
* Luyện đọc tiếng, từ
Giáo viên kể chân những tiếng từ mà SKG yêu cầu → cá nhân học sinh đọc
* Luyện đọc câu
Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và đọc
mẫu sau đó học sinh đọc theo cô. Khi cá nhân học sinh đọc các em khác nghe và
nhận xét bạn.
* Luyện đọc đoạn
Giáo viên nêu bài đọc chia thành……đoạn…... sau đó cho học sinh đọc
nối tiếp đoạn cho đến hết bài.
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân học sinh đọc → các em khác nhận xét
3. Ôn vần:
- Dựa vào các câu hỏi và bài tập của SGK.
+ Tìm tiếng có chứa vần cần ôn
+ Nói câu chứa tiếng có vần cần ôn
4. Củng cố: Ghép từ thành câu
Tiết 2
4. Tìm hiểu bài và luyện nói
a. Tìm hiểu bài
- Học sinh đọc trong SGK
- 19 -
+ Cá nhân học sinh đọc từng đoạn và giáo viên nêu câu hỏi ứng với nội
dung của từng đoạn để học sinh trả lời.
+ Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ.
b. Luyện đọc (mức độ đọc hay)
- Giáo viên nêu cách đọc hay: giọng đọc, nhấn giọng, ngắt giọng
- Giáo viên đọc mẫu lần 2
- Học sinh đọc (cá nhân → đồng thanh)
c. Luyện nói
- Học sinh nhìn vào tranh hoặc ảnh của SGK để luyện nói về những chủ
đề mà bài đọc yêu cầu.
5. Củng cố – dặn dò
Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị bài sau
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số
kết luận sau:
- Giờ tập đọc có vị trí quan trọng ở tiểu học.
- Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ chính
của dạy đọc.
- Trong giờ tập đọc giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em tự
phát hiện ra cách đọc. Giáo viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh
sửa phát âm sai do học sinh nói ngọng hoặc do tiếng địa phương.
- Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý
đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm
giảm tiến độ của tiết dạy.
* Đối với học sinh
Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi nhẹ
môn tập đọc vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy nghĩ như
môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa để ý đến
việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã
có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt
giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng
sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng phần lớn các
em chỉ biết bắt chước cô một cách tự nhiên
* Dạy thực nghiệm
- 20 -
Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm ở khối lớp 1 của mình. Sau đây là 2
bài tập đọc mà tôi xin trình bày giáo án trong đề tài đó là bài “Mẹ và cô” và
bài “Sau cơn mưa” khi dạy hai bài này tôi đã áp dụng những biện pháp nêu
trên để rèn đọc cho học sinh đạt kết quả tốt.
Dưới đây là nội dung hai giáo án đó
Môn: Tập đọc
Tiết số: 1
Tuần: 4
Tên bài dạy: Mẹ và cô
I – Mục tiêu :
Giúp học sinh:
+ Đọc đúng, phát âm đúng các tiếng có phụ âm đầu l, s, ch, tr
+ Biết nghỉ hơi đúng trong mỗi dòng thơ
+ ôn vần uôi, uơi
+ Hiểu nghĩa từ lon ton, chân trời
II - Đồ dùng dạy học :
- Giáo viên : Tranh vẽ như SGK.
III – Hoạt động dạy học chủ yếu:
T.gian
dự kiến
5’
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
A. Bài cũ
Đọc bài: Mưu chú Sẻ và trả lời câu hỏi
- 2 học sinh đọc và trả lời
+ Khi bị Mèo chộp được Sẻ đã nói gì với câu hỏi (mỗi em trả lời
một câu). Lớp nhận xét
mèo?
+ Sẻ đã làm gì khi Mèo đặt nó xuống đất?
B. Bài mới
1. Giới thiệu bài:
Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền
3’
Mẹ và cô là những người chăm sóc dạy dỗ
chúng ta nên người. Bài tập đọc “Mẹ và
Cô” hôm nay sẽ cho chúng ta thấy được tình
- 21 -
T.gian
dự kiến
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
cảm của em bé đối với mẹ và cô → Ghi
bảng tên đầu bài
2. Hướng dẫn luyện đọc
a. Giáo viên đọc mẫu
- Giọng đọc dịu dàng tình cảm
Học sinh theo dõi bài đọc
ở bảng
b. Hướng dẫn học sinh đọc
5’
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm những từ Cá nhân học sinh tìm từ
(tiếng) có chứa l, s, ch có trong bài → Giáo (tiếng) và đọc theo yêu
viên ghi lên bảng những từ đó:
cầu của giáo viên
+ Buổi sáng, chào mẹ, chạy tới, buổi chiều,
sà vào lòng mẹ
- Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc lần
lượt từng từ một cho đến hết và kết hợp
phân tích những tiếng mà học sinh dễ lẫn
khi đọc và viết: buổi, chạy, lặn.
Lưu ý: Tập trung gọi những em còn đọc yếu
Trong khi học sinh đọc, giáo viên kết hợp
giải nghĩa từ
Lon ton: dáng đi nhanh nhẹn của em bé
* Luyện đọc câu:
Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi bài viết
ở SGK và cho biết xem bài thơ có mấy dòng
thơ?
- Giáo viên gọi 1 nhóm đọc nối tiếp nhau
từng dòng cho đến hết hài
- Giáo viên hướng dẫn cách ngắt giọng ở
từng dòng thơ
7’
Buổi sáng / bé chào mẹ //
Chạy tới / ôm cổ cô //
Buổi chiều / bé chào cô //
Rồi / sà vào lòng mẹ //
Mặt trời mọc / rồi lặn //
Trên đôi chân / lon ton //
Hai chân trời / của con //
Cá nhân học sinh đọc nối
tiếp từng dòng cho đến hết
bài. Khi bạn đọc những
học sinh khác nhận xét
bạn đọc đúng hay chưa
- 22 -
T.gian
dự kiến
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
Là mẹ / và cô giáo //
* Luyện đọc đoạn:
Cá nhân (nhóm) học sinh
- Chia bàn làm 2 đoạn, mỗi khổ thơ là 1 đọc nối tiếp đoạn
đoạn
5’
- Tổ chức cho học sinh đọc theo nhóm hoặc
cá nhân, đọc nối tiếp
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân (nhóm) học sinh
Tổ chức cho học sinh đọc theo cá nhân đọc toàn bài
(nhóm) → cuối cùng cho cả lớp đọc đồng → Cả lớp đồng thanh toàn
thanh toàn bài
bài
3’
Nghỉ giữa giờ
3. Ôn vần: uôi, ươi
- Yêu cầu học sinh đọc bài tập 1, 2, 3 và giải
từng bài
+ Bài 1: Tìm tiếng trong bài có vần uôi
Cá nhân học sinh tìm từng
bài
+ Bài 2: Tìm tiéng ngoài bài có vần uôi, ươi Cá nhân học sinh tìm và
ghép trên bộ chữ
+ Bài 3: Nói câu chứa tiếng có vần uôi hoặc Cá nhân học sinh nói câu,
ươi
các bạn khác nhận xét
Giáo viên sửa chữa cho học sinh nếu các em
nói sai
3’ 4. Củng cố: đọc lại bài “Mẹ và Cô”
Môn: Tập đọc
Tiết số: 1
Lớp 1
Thi đọc giữa các tổ
Tuần: 31
Tên bài dạy: Sau cơn mưa
I – Mục tiêu :
Giúp học sinh:
+ Đọc trơn cả bài “Sau cơn mưa”
+ Luyện đọc các từ ngữ “mưa rào, đoá râm bụt, xanh bóng nhởn nhơ,
sáng tựa, quay quanh, giội rửa”
- 23 -
+ ôn vần ây, uây
II - Đồ dùng dạy học :
- Giáo viên : Tranh hoa râm bụt và tranh vẽ như SGK
- Học sinh : Sách giáo khoa
III – Hoạt động dạy học chủ yếu:
T.gian
dự kiến
5’
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
A. Bài cũ : Bài Luỹ tre
+ Đọc khổ thơ 1 của bài và trả lời câu hỏi: - Mỗi khổ thơ một học sinh
Khổ thơ này tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích đọc và trả lời câu hỏi
hình ảnh nào của luỹ tre vào buổi sớm?
+ Đọc khổ thơ 2 của bài và trả lời câu hỏi:
Khổ thơ tả luỹ tre vào buổi nào? Em thích
hình ảnh nào trong khổ thơ này?
B. Bài mới
1. Giới thiệu bài :
3’
Giáo viên dùng lời:
Mùa hè thường có các trận mưa rất to
nhưng mau tạnh, gọi là mưa rào. Hôm nay
các em sẽ học một bài văn tả cảnh vật sau
một cơn mưa rào → Giáo viên ghi bảng tên
đầu bài.
2. Hướng dẫn luyện đọc
a. Giáo viên đọc mẫu
- Giọng chậm, đều, tươi vui
Học sinh theo dõi bài đọc ở
bảng
b. Hướng dẫn học sinh đọc
* Luyện đọc từ ngữ
Giáo viên gọi 1 học sinh giỏi đọc to những từ
ngữ mà SGK yêu cầu luyện đọc → cô ghi
bảng các từ đó: mưa rào, đoá râm bụt, xanh
bóng nhởn nhơ, sáng rực, mặt trời quây
quanh, vườn
5’
- Giáo viên gọi cá nhân học sinh đọc lần lượt Cá nhân học sinh đọc lần
từng từ một cho đến hết và kết hợp phân tích lượt từng từ và cho đến hết
- 24 -
T.gian
dự kiến
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò
những tiếng mà học sinh dễ lẫn khi đọc và kết hợp phân tích tiếng theo
viết: rào, đoá, xanh, quây, quanh
yêu cầu của giáo viên
- Lưu ý: Tập trung gọi những em đọc còn yếu
- Trong khi học sinh đọc giáo viên kết hợp
giải nghĩa từ:
+ Đoá râm bụt: Sử dụng tranh hoa râm bụt
cho học sinh quan sát
+ Nhởn nhơ: Chỉ hoạt động chậm không tập
trung
* Luyện đọc câu:
- Học sinh theo dõi và trả
Giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi SGK và lời bài đọc có 5 câu
cho biết xem bài đọc này có mấy câu ?
5’ 7’
- Giáo viên gọi 1 nhóm 5 em đọc nối tiếp
nhau từng câu một cho đến hết bài. Sau đó
hỏi học sinh trong lớp xem trong bài này có
câu nào dài mà khi đọc các em cần phải ngắt
nghỉ hơi cho đúng và gọi các em đọc theo
cách của mình.
- 1 nhóm 5 học sinh đọc nối
tiếp
- Cá nhân học sinh tìm câu
dài và đọc to trước lớp. Các
bạn nhận xét
- Tập trung luyện đọc 2 câu sau:
+ Mấy đám mây bông trôi nhởn nhơ / sáng
rực lên trong ánh mặt trời.
+ Mẹ gà mừng rỡ / “tục tục” / dắt bầy con
quây quanh vũng nước đọng trong vườn
- Nhiều em luyện đọc câu
sau khi đã sửa theo hướng
dẫn của giáo viên.
- Hình thức đọc: cá nhân
nhóm, lớp. Khi bạn đọc, học
sinh khác nghe và nhận xét
xem bạn đọc đúng hay sai
- Giáo viên giới thiệu câu: “Mẹ gà…” cần - 2 nhóm đọc nối tiếp
ngắt giọng ở sau tiếng “rỡ” và tiếng “tục”
để nhấn giọng cho tiếng gà mẹ gọi đàn con.
- Sau khi đã tập trung luyện đọc các câu dài
xong, giáo viên lại cho học sinh đọc nối tiếp
từng câu cho đến hết bài
6’
* Luyện đọc đoạn
Chia bài làm 2 đoạn:
- Đoạn 1: từ đầu ….. mặt trời
- 2 nhóm mỗi nhóm 2 em
đọc nối tiếp
- 25 -