Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sử dụng một số kiến thức hóa học hữu cơ để giải thích các hiện tượng trong thực tiễn nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.14 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
1.

MỞ ĐẦU

1

1.1.

Lí do chọn đề tài.

1

1.2.

Mục đích nghiên cứu.

1

1.3.

Đối tượng nghiên cứu.

2

1.4.

Phương pháp nghiên cứu.

2



2.

NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2.
2.3.

3
3

Thực trạng vấn đề nghiên cứu

4

Các giải pháp thực hiện

5

2.3.1
.
2.3.2
.

Các cách đưa câu hỏi để giải thích các hiện tượng trong
thực tiễn liên quan đến bài học
Các biện pháp thực hiện thông qua một số câu hỏi giải
thích các hiện tượng trong thực tiễn có thể áp dụng để
dạy phần hữu cơ hoá học lớp 9

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục
3.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. - Kết luận.
3.2. - Kiến nghị.

5
8
13
15
15
16

1. MỞ ĐẦU
1


1.1. Lý do chọn đề tài:
Cùng với các môn học khác trong nhà trường môn Hóa học có vai trò rất quan
trọng bởi vì hóa học hiện diện khắp nơi trong cuộc sống. Nó có mặt xung
quanhchúng ta trong những hiện tượng thực tiễn hàng ngày. Với ngành giáo dục hiện
nay chúng ta đang dạy học theo hướng tích hợp liên môn, dạy học sinh dùng kiến
thức đã học giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Là một giáo viên giảng dạy môn hóa học chắc hẵn ai cũng hiểu môn hóa học là
một môn mới và khó đối với học sinh bậc THCS. Số tiết trong chương trình còn ít
song yêu cầu lượng kiến thức lại nhiều và rộng . Hiệu quả giảng dạy chưa đáp ứng
được yêu cầu của giáo dục, trong giảng dạy đang còn lạm dụng nhiều phép tính phức
tạp mà ít quan tâm đến kiến thức, kỹ năng thực tiễn nên rất nhiều kiến thức các em
phải ghi nhớ thụ động, nhiều khái niệm mới trừu tượng, khó hiểu đặc biệt phần hoá

hữu ở lớp 9. Do đó, giáo viên cần tìm ra phương pháp dạy học gây được hứng thú
học tập bộ môn giúp các em chủ động lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không
gượng ép là điều cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Khi học sinh có hứng thú,
niềm say mê với môn hóa sẽ giúp học sinh phát huy được năng lực tư duy, khả năng
tự học và óc sáng tạo. Có câu nói:’’Nếu không khêu gợi được hứng thú cho học sinh
thì cũng như búa thợ rèn đập trên sắt nguội mà thôi”. Đó chính là cái khó cho người
học và cũng là nội dung mà mỗi giáo viên dạy hóa phải trăn trở tìm tòi biên soạn nội
dung giảng dạy ở mỗi tiết trên lớp sao cho có hiệu quả nhất .
Chính vì những lí do đó với mong muốn làm tốt hơn nữa nhiệm vụ của người giáo
viên trong giai đoạn hiện nay, mong góp phần nhỏ bé của mìnhvào sự nghiệp giáo
dục nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và trường THCS
Thiệu Vận nói riêng tôi đã đi nghiên cứu tài liệu và học hỏi các đồng nghiệp cùng
với những kinh nghiệm rút ra từ những năm giảng dạy hoá học ở trường THCS, tôi
đã lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Sử dụng một số kiến thức hóa học hữu cơ để
giải thích các hiện tượng trong thực tiễn nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh
lớp 9 ở trường THCS Thiệu Vận, Thiệu Hóa”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Khi nghiên cứu đề tài này bản thân muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình nhằm mục
đích giúp giáo viên có những phương pháp hiệu quả trong việc tổ chức một tiết học
hóa không nhàm chán cho học sinh. Học sinh hứng thú trong tiết học, biết huy động
kiến thức về nhiều mặt: phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
trong việc tiếp thu kiến thức, có kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống
2


khác nhau trong học tập và thấy được hoá học có tác dụng trong đời sống hàng ngày
như thế nào từ đó các em yêu thích và say mê nghiên cứu khoa học để vận dụng vào
thực tiễn .
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một sáng kiến, đối tượng tôi lựa chọn để nghiên cứu là:

- Sử dụng một số kiến thức hóa học hữu để giải thích các hiện tượng trong thực
tiễn nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh lớp 9 ở trường THCS Thiệu Vận,Thiệu
Hóa.
- Đối tượng áp dụng đề tài:Học sinh lớp 9 Trường THCS Thiệu Vận
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài bản thân tôi đã sử dụng các phương pháp sau : phân tích lí
thuyết, điều tra cơ bản,tổng kết kinh nghiệm sư phạm và sử dụng một số phương
pháp thống kê toán học trong việc phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm…
Phương pháp trao đổi kinh nghiệm: tiến hành trao đổi,học hỏi từ đồng nghiệp, các
tích lũy qua việc dự giờ đồng nghiệp.
Sưu tầm liệt kê các dạng bài tập thực tiễn áp dụng ở phần hữu cơ lớp 9.

3


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm :
Môn Hoá học giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí tuệ
của học sinh. Mục đích của môn hóa học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn
chỉnh; nâng cao những tri thức, hiểu biết về thế giới, về con người thông qua các bài
học, các giờ thực hành...
Học hoá để hiểu, để giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo
nguyên tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng hoá học.
Học hoá để biết, là góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến
đời sống, tinh thần của con người...
Học hoá để làm, là khởi nguồn, là cơ sở để sáng tạo ra những ứng dụng phục vụ
trong đời sống của con người.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo
có viết "quán triệt nguyên lý học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn..."
[1]. Trong dạy học Hoá học đã khẳng định "không có tri thức thì sẽ không có kỹ

năng. Không có việc áp dụng tri thức sẽ không đạt được sự phát triển kỹ năng.
Ngược lại nếu chỉ có tri thức mà không có kỹ năng, không biết áp dụng tri thức thì
những kiến thức đó cũng trở thành vô dụng...” [2].
Để đạt được mục đích của môn hoá học, ngoài việc phải tiếp thu đầy đủ những
kiến thức từ trên lớp, từ sách giáo khoa, từ các thầy cô, học sinh còn tự mình sưu tầm
và tìm hiểu những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Vận dụng những
kiến thức đã học được để giải thích những hiện tượng đó, nhờ vậy học sinh được
củng cố kiến thức sâu sắc hơn.
Liên hệ thực tế là một biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh. Cái mới luôn
là cái kích thích chúng ta tìm hiểu nhất. Việc liên hệ thực tế sẽ thúc đẩy học sinh học
sinh tìm tòi khám phá trong học tập. Các kiến thức hóa học sẽ thu hút sự chú ý lắng
nghe trong giờ học và ham thích học hỏi, tìm kiếm sách vở, rèn luyện kĩ năng sử
dụng sách….Qua đó, các em sẽ thấy được những lý thú của các kiến thức đã học,
tăng thêm lòng yêu thích môn hóa học.
Hứng thú học tập là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập của học
sinh. Học sinh có khả năng mà không có hứng thú thì cũng không đạt kết quả, giáo
viên giỏi chuyên môn mà không có kỹ năng tạo hứng thú học tập cho học sinh thì
chưa thành công. Kỹ năng tạo hứng thú là kỹ năng quan trọng nhất, mà để có được

4


kỹ năng này thì đầu tiên người giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng, phải luôn cung
cấp cho học sinh lượng kiến thức: đủ, đúng, mới, thiết thực.
Do đó, giáo viên phải chuẩn bị về mọi mặt để giúp học sinh sẵn sàng học tập, kích
thích và duy trì hứng thú của học sinh đối với việc học Hóa học, truyền thụ những
kiến thức hóa học gắn với thực tiễn sản xuất, sử dụng những phương pháp giảng dạy
khác nhau, hướng dẫn học sinh tự học tập ở nhà và cách tiếp thu bài trên lớp, tổ chức
cho học sinh rèn kĩ năng, kĩ xảo qua các thí nghiệm thực hành ,kĩ năng áp dụng kiến
thức đã học vào giải thích các hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên, cuộc sống hàng

ngày mà tôi muốn nêu ở đây nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh .
2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Thực tế giảng dạy ở trường THCS Thiệu Vận cho thấy : Hóa học là môn học mà
học sinh được tiếp cận muộn so với các môn học khác và là môn học có nhiều thí
nghiệm nên ban đầu học sinh có vẻ hào hứng học môn học. Nhưng càng ngày lượng
kiến thức phải ghi nhớ càng nhiều, lượng bài tập cũng tăng tương đối đáng kể nên rất
dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận nên đã có nhiều học sinh
không muốn học hoá ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học dẫn đến
nhiều học sinh coi hóa học là môn học khó.
Nhiều trường do thiết bị và hóa chất đã lâu chưa có điều kiện thay mới nên khi tiến
hành thí nghiệm gặp nhiều khó khăn hoặc kết quả thường không chính xác, vì vậy
giáo viên và học sinh đôi khi ít thực hiện. Do đó một lượng lớn kiến thức Hoá học
của các em bị hổng.
Để giải quyết được các hiện tượng trong thực tiễn liên quan đến hóa học thì các
em phải nắm được bản chất của vấn đề của chất liên quan đến câu hỏi.
Do đó việc đổi mới phương pháp dạy học ở bộ môn hoá để nâng cao chất lượng
dạy- học ở trường THCS là vấn đề cấp thiết cần phải bàn đến nhiều và một trong
những cách góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Hoá học 9 ở trường THCS
Thiệu Vận đó là sử dụng các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học sẽ tạo
hứng thú, khơi dậy niềm đam mê, học sinh hiểu được vai trò ý nghĩa thực tiễn trong
hoá học.
Khảo sát kết quả ban đầu bằng 2 phiếu học tập có câu hỏi về giải thích các hiện
tượng thực tế ở học sinh khối 9 ở năm học 2016-2017
Lớp Tổng
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
số

SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
HS
9
47
2
4,2
7
14,9
28
59,6
9
19,1
1
2,2
5


Nguyên nhân của thực trạng trên là:
a) Về phía học sinh:
Các em chưa có định hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập bộ môn
chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào

thì thích học môn đó. Trong quá trình giảng dạy tôi đã phát hiện ra rằng đa số học
sinh còn tỏ ra, chưa hứng thú tham gia xây dựng bài. Nhiều học sinh tỏ ra lúng túng,
không tìm ra cách xử lí, ngay cả những vấn đề tưởng chừng hết sức cơ bản trong
cuộc sống hàng ngày. Vì thế, làm sao các em có thể yêu thích học bộ môn?
Hơn nữa hóa hữu cơ lại mới chỉ bắt đầu từ học kì 2 của lớp 9 nên việc tiếp nhận
kiến thức mới còn bỡ ngỡ và vận dụng kiến thức để giải thích cho các hiện tượng
hiệu quả rất nhiều học sinh còn lúng túng.
Vì vậy đòi hỏi các em cần phải chịu khó tìm tòi thì mới hình thành kỹ năng giải
thành thạo được.
b) Về phía giáo viên:
Lượng kiến thức Hóa học rất nhiều mà số tiết lại ít nên phần lớn chỉ cho học sinh
nắm được kiến thức lý thuyết là đã hết thời gian nên việc đưa ra các câu hỏi liên
quan đến thực tiễn là không nhiều. Đặc biệt nếu không phân hóa rõ đối tượng học
sinh cũng như phương pháp giảng dạy phù hợp, sẽ dẫn đến tình trạng học sinh chỉ
chép cho đầy vở mà không biết gì.
Sau thời gian tìm hiểu và nắm bắt rõ hơn đối tượng HS, cũng như vị trí của dạng
câu hỏi này trong dạy học bộ môn. Để góp phần làm đơn giản hoá các khó khăn tôi
đã đưa ra sáng kiến kinh nghiệm “Sử dụng một số kiến thức hóa học hữu để giải
thích các hiện tượng trong thực tiễn nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh lớp 9
ở trường THCS Thiệu Vận,Thiệu Hóa”. Việc đưa ra các câu hỏi trong bài học phù
hợp với trình độ, điều kiện và năng lực của học sinh trong năm học qua đã thu được
kết quả nhất định.
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1.Các cách đưa câu hỏi để giải thích các hiện tượng trong thực tiễn liên
quan đến bài học:
Để thực hiện được người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng, xác định được
kiến thức trọng tâm, tìm hiểu tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với
từng đối tượng học sinh ở thành thị hay nông thôn, đôi lúc cần quan tâm đến tính
cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành bài soạn theo hướng phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà, đôi lúc phải khôi

hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục tiêu của bài dạy .
6


Sử dụng một số kiến thức hóa học hữu để giải thích các hiện tượng trong thực tiễn
nhằm tăng hứng thú học tập cho học sinh lớp 9 ở trường THCS Thiệu Vận,Thiệu
Hóa bằng các cách:
2.3.1.1.Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày thường thay
cho lời giới thiệu bài giảng
Tiết dạy có gây sự chú ý của học sinh hay không nhờ vào người giáo viên rất
nhiều. Trong đó phần mở đầu đặc biệt quan trọng, nếu ta biết đặt ra một tình huống
thực tiễn hoặc một tình huống giả định yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu, giải thích qua
bài học sẽ cuốn hút được sự chú ý của học sinh trong tiết dạy.
VD: Khi dạy học về bài Polime, giáo viên có thể mở bài như sau:
Vì sao“chảo không dính” khi chiên, rán thức ăn lại không bị dính chảo?[3]
Giải thích: Nếu dùng chảo bằng gang, nhôm thường để chiên cá, trứng không
khéo sẽ bị dính chảo. Nhưng nếu dùng chảo không dính thì thức ăn sẽ không dính
chảo. Thực ra mặt trong của chảo không dính người ta có trải một lớp hợp chất cao
phân tử. Đó là politetra floetylen được tôn vinh là “vua chất dẻo” thường gọi là
“teflon”. Politetra floetilen chỉ chứa 2 nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền
chắc.
Khi cho teflon vào axit vô cơ hay axit H 2SO4 đậm đặc, nước cường thủy (hỗn hợp
HCl và HNO3 đặc), vào dung dịch kiềm đun sôi thì teflon không hề biến chất. Dùng
teflon tráng lên đáy chảo khi đun với nước sôi không hề xảy ra bất kì tác dụng nào.
Các loại dầu ăn, muối, dấm,… cũng không xảy ra hiện tượng gì. Cho dù không cho
dầu mở mà trực tiếp ráng cá, trứng trong chảo thì cũng không xảy ra hiện tượng gì.
Một điều chú ý là không nên đốt nóng chảo không trên bếp lửa vì teflon ở nhiệt
độ trên 250oC là bắt đầu phân hủy và thoát ra chất độc. Khi rửa chảo không nên chà
xát bằng các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống dính.
2.3.1.2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày thường sau

khi đã kết thúc bài học .
Cách đưa này sẽ tạo cho học sinh tìm cách giải thích các hiện tượng ở nhà hay lúc
gặp thực tế từ đó tạo cho các em có suy nghĩ ấp ủ câu hỏi vì sao có hiện tượng đó tạo
điều kiện cho học những bài tiếp theo.
VD : Khi học xong bài Tinh bột và xenlulozo giáo viên có thể đưa ra câu hỏi sau:
Ông bà ta xưa nay luôn nhắc nhỡ con cháu câu: “ Nhai kỹ no lâu”. Tại sao khi
ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt và no lâu ?[3]

7


Giải thích: Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt
của người có các enzim. Khi nhai kỹ cơm trong nước bọt sẽ xảy ra sự thủy phân một
phần tinh bột thành mantozơ và glucozơ nên có vị ngọt:
2.3.1.3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày thường qua
các PTHH cụ thể trong bài.
Cách nêu này sẽ mang tính cập nhật làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa
thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải toả tính tò mò của học sinh mặc
dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông.
VD: Trong quá trình dạy bài chất béo giáo viên có thể liên hệ
Vì sao “Dưa chua, cho mỡ, nấu nhừ thì ngon” ?[3]
* Giải thích:
Dưa chua cung cấp môi trường axit xúc tác cho phản ứng thuỷ phân chất béo tạo
ra glixerol là chất có vị ngọt:
(RCOO)3C3H5 + 3H2O
C3H5(OH)3 + 3RCOOH
Cũng trong điều kiện đó các chất gluxit, protit có trong dưa cũng bị thuỷ phân tạo
ra các chất đường và các amino axit đều có vị ngọt. Như vậy ta có được canh dưa
không chua gắt mà chua ngọt, lượng mỡ bị giảm đi làm cho canh không quá béo.
2.3.1.4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày thường

thông qua các bài tập tính toán
Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài tập lại lĩnh hội
được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được bài toán hoá đó học sinh
phải hiểu được nôi dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài toán yêu cầu gì? và
giải quyết như thế nào?
VD: Khi dạy bài rượu etylic giáo viên có thể đưa ra bài tập tính toán sau:
Trên nhãn của các chai rượu đều ghi các số, thí dụ 450, 180, 120.[4]
a,Hãy giải thích ý nghĩa của các con số trên.
b,Tính số ml rượu etylic có trong 500ml rượu 450.
c,Có thể pha được bao nhiêu ml rượu 250 từ 500 ml rượu 450.
2.3.1.5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày thường
thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, hoặc gây cười có thể
xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học.
Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mái. Đó cũng là cách kích
thích niềm đam mê học hoá
VD: Khi học xong bài “Tinh bột và xenlulôzơ”(Sách giáo khoa hoá học 9), Cường
được biết “Iot là thuốc thử của hồ tinh bột”. Lúc nấu cơm, Cường đã chắt 1 ít nước
8


cơm ra bát con, sau đó nhỏ vào đó vài giọt dung dịch iôt thì không thấy màu xanh
lam xuất hiện như đã học. Cường để chiếc bát đó đến hôm sau để mang đến lớp hỏi
cô giáo, nhưng trước khi đi học nhìn vào bát nước cơm lại thấy có màu xanh lam.
Cường không hiểu tại sao? Em hãy giải thích giúp bạn Cường.[3]
*Giải thích:
Khi bát nước cơm còn nóng, iot không bị hấp thụ vào phân tử tinh bột nên
không thấy màu xanh lam. Khi để nguội, iot bị hấp thụ trở lại làm dung dịch có màu
xanh lam.
2.3.1.6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh
đời sống hàng ngày thường ở địa phương, gia đình sau khi đã học bài giảng

Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học
tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt
gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống giúp học sinh phát huy khả năng ứng
dụng hoá học vào đời sống thực tiễn.
VD: Để làm sạch nhựa quả dính vào dao khi cắt (ví dụ nhựa mít) người ta
thường[3]
A. nhúng dao vào xăng hoặc dầu hoả.
B. nhúng dao vào nước xà phòng.
C. ngâm dao vào nước nóng.
D. ngâm dao vào nước muối.
*Đáp án : A
2.3.2.Các biện pháp thực hiện thông qua một số câu hỏi giải thích các hiện
tượng trong thực tiễn có thể áp dụng để dạy phần hữu cơ hoá học lớp 9:
Để dạy tốt được một tiết hóa học hữu cơ giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện,
nhiều cách khác nhau như : dạy học tích hợp liên môn, bằng lời giải thích, thí
nghiệm, hình ảnh , đoạn phim . Điều này phụ thuộc vào điều kiện ở mỗi trường, căn
cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách dạy khác nhau để huy động tối đa .Vì hiệu
quả giáo dục với nội dung đề tài này, có những kinh nghiệm có thể áp dụng cho
người này nhưng có nhưng phong cách không thể áp dụng cho giáo viên khác được.
nhưng đảm bảo được nội dung dạy học theo yêu cầu của chương trình.Trong thực tế
có vô số câu hỏi liên quan đến kiến thức hóa học hữu cơ, nhưng trong sáng kiến này
tôi chỉ xin đưa ra một số nhỏ câu hỏi để giải thích các hiện tượng trong thực tiễn có
thể áp dụng để dạy phần hữu cơ hoá 9
VD1: Vì sao có khí metan thoát ra từ ruộng lúa hoặc các ao (hồ)?[3]

9


Giải thích: Trong ruộng lúa, ao (hồ) thường chứa các vật thể hữu cơ. Khi các vật thể
này thối rữa (hay quá trình phân hủy các vật thể hữu cơ) sinh ra khí metan. Người ta

ước chừng 1/7 lượng khí metan thoát vào khí quyển hàng năm là từ các hoạt động
cày cấy.
Lợi dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm bioga trong chăn nuôi heo tạo
khí metan để sử dụng đun nấu hay chạy máy …
Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở giải quyết các vấn đề về môi
trường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẻ. Giáo viên đưa vấn đề này vào trong phần
liên hệ thực tế bài 36: Metan
VD2: Làm cách nào để quả mau chín ?[4]
Giải thích: Từ lâu người ta đã biết xếp một số quả chín vào giữa sọt quả xanh thì
toàn bộ sọt quả xanh sẽ nhanh chóng chín đều. Tại sao vậy ?
Bí mật của hiện tượng này đã được các nhà khoa học phát hiện khi nghiên cứu quá
trình chín của trái cây. Trong quá trình chín trái cây đã thoát ra một lượng nhỏ khí
etilen. Khí này sinh ra có tác dụng xúc tác quá trình hô hấp của tế bào trái cây và làm
cho quả mau chín.
Nắm được bí quyết đó người ta có thể làm chậm quá trình chín của trái cây bằng
cách làm giảm nồng độ etilen do trái cây sinh ra. Điều này đã được sử dụng để bảo
quản trái cây không bị chín nẫu khi vận chuyển xa. Ngược lại khi cần cho quả mau
chín, người ta thêm etilen vào kích thích quá trình hô hấp của tế bào trái cây.
Ngày nay người ta dùng khí đá cho vào thùng trái cây để làm trái cây mau chín vì
khi có hơi nước khí đá tác dụng trong môi trường ẩm sinh ra etilen làm trái cây mau
chín.
Áp dụng: Đây là hiện tượng đã được sử dụng rất lâu nhưng không phải ai cũng biết
giải thích được. Giáo viên có thể sử dụng hiện tượng trên liên hệ thực tế trong phần
ứng dụng của etilen ở bài 37: Etilen
VD3:Vì sao ngày nay không dùng xăng pha chì?[3]
Giải thích::Xăng pha chì có nghĩa là trong xăng có pha thêm một ít Tetraetyl chì
(C2H5)4Pb, có tác dụng làm tăng khả năng chịu nén của nhiên liệu dẫn đến tiết kiệm
khoảng 30% lượng xăng sử dụng. Nhưng khi cháy trong động cơ thì chì oxit sinh ra
sẽ bám vào các ống xả, thành xilanh, nên thực tế còn trộn vào xăng chất 1,2 đibrometan CH2Br – CH2Br để chì oxit chuyển thành muối PbBr2 dể bay hơi thoát ra
khỏi xilanh, ống xả và thải vào không khí gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng

nghiêm trọng tới sức khỏe con người. Từ những điều gây hại trên mà hiện nay ở
nước ta không còn dùng xăng pha chì.
10


Áp dụng: Hiện nay nhà nước ta nghiêm cấm các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
sử dụng xăng pha chì. Để hiểu được vì sao thì không ít người hiểu được vấn đề này.
Thông qua nội dung bài “Dầu mỏ” giáo viên có thể đặt câu hỏi này cho học sinh thảo
luận rồi giải thích cho học sinh biết được tác hại của việc pha chì vào xăng nhằm
nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
VD4: Vì sao cồn có khả năng sát khuẩn ?[4]
Giải thích: Cồn là dung dịch rượu etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu cao, có
thể xuyên qua màng tế bào đi sâu vào bên trong gây đông tụ protein làm cho tế bào
chết. Thực tế là cồn 75o có khả năng sát trùng là cao nhất. Nếu cồn lớn hơn 75o thì
nồng độ cồn quá cao làm cho protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng nhanh hình
thành lớp vỏ cứng ngăn không cho cồn thấm vào bên trong nên vi khuẩn không chết.
Nếu nồng độ nhỏ hơn 75o thì hiệu quả sát trùng kém.
Áp dụng: Trong y tế việc dùng cồn để sát khuẩn trước khi tiêm và rửa vết thương trở
nên thông dụng. Nhưng để giải thích được ý cồn có khả năng sát khuẩn thì không
phải ai cũng giải thích được. Trong bài giảng, nếu học sinh được giáo viên giải thích
thì sẽ rất hứng thú về hóa học có những ứng dụng rất thực tế và sẽ thêm yêu hóa học.
Giáo viên có thể đề cập ở phần ứng dụng trong bài 44: Rượu etylic
VD 5: Cách lấy vân tay của tội phạm lưu trên đồ vật ở hiện trường như thế nào?[3]
Giải thích: Lấy một trang giấy sạch, ấn một đầu ngón tay lên trên mặt giấy rồi nhấc
ra, sau đó đem phần giấy có dấu vân tay đặt đối diện với mặt ống nghiệm có chứa
cồn iốt và dùng đèn cồn để đun nóng ở phần đáy ống nghiệm. Khi xuất hiện luồng
khí màu tím bốc ra từ ống nghiệm, bạn sẽ thấy trên phần giấy trắng (bình thường
không nhận ra dấu vết gì) dần dần hiện lên dấu vân tay màu nâu, rõ đến từng nét.
Nếu bạn ấn đầu ngón tay lên một trang giấy trắng rồi cất đi, mấy tháng sau mới đem
thực nghiệm như trên thì dấu vân tay vẫn hiện ra rõ ràng.

Trên đầu ngón tay chúng ta có dầu béo, dầu khoáng và mồ hôi. Khi ấn ngón tay lên
mặt giấy thì những thứ đó sẽ lưu lại trên mặt giấy, tuy mắt thường rất khó nhận ra.
Khi đem tờ giấy có vân tay đặt đối diện với mặt miệng ống nghiệm chứa cồn iôt
thì do bị đun nóng iôt “thăng hoa” bốc lên thành khí màu tím ( chú ý là khí iôt rất
độc), mà dầu béo, dầu khoáng và mồ hôi là các dung môi hữu cơ mà khí iôt dễ tan
vào chúng, tạo thành màu nâu trên các vân tay lưu lại. Thế là vân tay hiện ra.
Áp dụng: Đây là một ứng dụng quan trọng của iot trong ngành điều tra tội phạm.
Giáo viên có thể đề cập ở phần tính chất vật lí trong bài 47: Chất Béo
VD 6: Vì sao trước khi uống sữa đậu nành 1 giờ không nên ăn cam, quýt?[4]

11


Giải thích: Trước khi uống sữa đậu nành 1 giờ không nên ăn cam, quýt vì axit và
vitamin trong cam, quýt tác dụng lên protein trong sữa đậu nành kết thành khối ở
ruột non làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá gây đầy bụng, đau bụng.
Áp dụng: Đây là bài tập mang tính thực tiễn rất bổ ích cho học sinh,thông qua bài
này giúp các em biết ăn uống một cách khoa học .Giáo viên có thể cho học sinh làm
sau khi học xong bài “protein ”
VD 7: Tại sao khi bị ong đốt ta có thể dùng vôi bôi vào chỗ ong đốt.Em hãy giải
thích tại sao lại làm như vậy?[5]
Giải thích. Trong nọc ong có axit fomic HCOOH. Bà An đã dùng vôi bôi vào chỗ
ong đốt để trung hoà axit HCOOH theo phương trình:
2HCOOH  Ca OH  2 �  HCOO 2 Ca  2H2O
Áp dụng: Khi dạy bài axit axetic giáo viên có thể liên hệ để mở rộng kiến thức, khắc
sâu cho học sinh về tính chất hoá học của axit tác dụng với dd bazơ
VD 8:
a) Vì sao không ngâm lâu quần áo bằng len trong xà phòng?[3]
b) Vì sao đồ nhựa dùng lâu ngày bị biến màu và trở nên giòn?
Giải thích. a) Len (từ lông thú) thuộc loại polipeptit. Dung dịch xà phòng có

môi trường kiềm sẽ xúc tác cho phản ứng thuỷ phân liên kết peptit (-CONH-)
làm đứt chuỗi polipeptit, làm cho sợi len mau hỏng.
b) Dưới tác dụng của oxi không khí, của hơi ẩm, của ánh sáng và nhiệt, polime và
các phụ gia có trong đồ nhựa có thể tham gia các phản ứng ở nhóm chức của nó. Kết
quả là: Mạch polime bị phân cắt hoặc vẫn giữ được mạch nhưng đều làm thay đổi
cấu tạo của chúng dẫn tới làm thay đổi màu sắc và tính chất. Hiện tượng đó gọi là sự
lão hoá polime.
Áp dụng: Bài tập này là những câu hỏi rất gần gũi với các em, giáo viên có thể đưa
vào bài “polime”, qua đó các em biết cách sử dụng và bảo vệ đồ dùng của mình do
đó các em sẽ nhớ và khắc sâu kiến thức một cách dễ dàng
VD 9 Vì sao ăn đường glucozơ lại cảm thấy đầu lưỡi mát lạnh ?[6]
Giải thích: Vì glucozơ tạo một dung dịch đường trên lưỡi, sự phân bố các phân tử
đường trong quá trình hòa tan là quá trình thu nhiệt, do đó ta cảm thấy đầu lưỡi mát
lạnh.
Áp dụng: Đây là một hiện tượng thường gặp trong tự nhiên. Giáo viên đưa vấn đề
này vào phần tính chất của glucozơ ở bài 50: Glucozo
VD 10:Vải khác nhau có giá trị khác nhau nên phân biệt như thế nào? [5]

12


Giải thích:Căn cứ vào bản chất của các chất liệu làm nên vải, ta có thể nhận biết
cách đơn giản sau:
1. Nếu vải làm bằng sợi bông: Khi đốt sợi vải cháy nhanh, ngọn lửa màu vàng có
mùi như đốt giấy và tro có mằu xám đậm
2. Nếu vải làm bằng sợi tơ tằm: Khi đốt sợi vải cháy chậm hơn vải sợi bông, có mùi
khét như đốt tóc, sợi tơ co cục, màu nâu đen, lấy tay bóp thì tan.
3. Nếu vải làm bằng lông cừu (len lông cừu): Khi đốt sợi vải bắt cháy không nhanh ,
bốc khói , có mùi khét như đốt tóc và tạo thành những bọt phồng, rồi vón cục có màu
đen hơi óng ánh, giòn bóp tan ngay

4. Nếu vải làm bằng sợi axetat: Khi đốt sợi vải bắt cháy chậm thành giọt deo màu
nâu đậm , có hoa lửa , không bốc cháy thành ngọn lửa, sau đó kết thành cục màu đen
dễ bóp nát .
5. Nếu vải làm bằng sợi nilon: Khi đốt sợi vải không cháy thành ngọn lửa mà co vón
lại và cháy thành từng giọt deo màu trắng, có mùi của rau cần khi nguội thì biến
thành cục cứng có màu nâu nhạt khó bóp nát.
Áp dụng : Giáo viên có thể đưa vào phần nhận biết của bài dạy “polime” mặt khác
cũng có tác dụng cung cấp cho học sinh phương pháp nhận biết các chất liệu vải
phục vụ cho mục đích sử dụng trong đời sống, điều này cũng rất thực tiễn
VD 11: Tại sao khi nấu canh cua thì gạch lại nổi lên trên? [3]
Giải thích: Vì gạch cua có thành phần chủ yếu là Protein, khi nấu ở nhiệt độ cao thì
sẽ làm cho chúng bị biến đổi cấu trúc trung gian khác với bình thường nên tụ lại từng
mảng và nổi lên trên
Áp dụng : Giáo viên có thể xen vào bài “protein”. Đây cũng là vấn đề thiết thực bắt
gặp trong cuộc sống và phục vụ thiết yếu trong việc chế biến thực phẩm.
VD12:Vì sao khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay ?[6]
Giải thích: Vì chất chua (tức axit hữu cơ) có trong trái cây sẽ kết hợp với những
thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chảy sẽ tấn công các kẽ răng và gây tổn
thương cho lợi. Bởi vậy người ta đợi đến khi nước bọt trung hòa lượng axit trong trái
cây nhất là táo, cam, nho, chanh…
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của
axit khi tác dụng với bazơ tạo phản ứng trung hòa Tính chất hóa học của Axit
Axetic.
VD 13:Tại sao dụng cụ phân tích rượu có thể phát hiện các lái xe đã uống rượu?[3]
Giải thích: Thành phần chính của các loại nước uống có cồn là rượu etylic. Đặc tính
của rượu etylic là dễ bị oxi hóa. Có rất nhiều chất oxi hóa có thể tác dụng với rượu
13


nhưng người chọn một chất oxi hóa là crom(VI)oxit CrO 3. Đây là một chất oxi hóa

rất mạnh, là chất ở dạng kết tinh thành tinh thể màu vàng da cam. Bột oxit CrO3 khi
gặp rượu etylic sẽ bị khử thành oxit Cr2O3 là một hợp chất có màu xanh đen.
Các cảnh sát giao thông sử dụng các dụng cụ phân tích rượu etylic có chứa CrO 3.
Khi tài xế hà hơi thở vào dụng cụ phân tích trên, nếu trong hơi thở có chứa hơi rượu
thh́ hơi rượu sẽ tác dụng với CrO3 và biến thành Cr2O3 có màu xanh đen. Dựa vào sự
biến đổi màu sắc mà dụng cụ phân tích sẽ thông báo cho cảnh sát biết được mức độ
uống rượu của tài xế. Đây là biện pháp nhằm phát hiện các tài xế đă uống rượu khi
tham gia giao để ngăn chặn những tai nạn đáng tiếc xảy ra.
Áp dụng: Tai nạn giao thông luôn là nổi ám ảnh của mọi người. Một trong những
nguyên nhân chính xảy ra tai nạn giao thông chính là rượu. Nhằm giúp cho học sinh
thêm hiểu biết về cách nhận biết rượu trong cơ thể một cách nhanh và chính xác của
cảnh sát giao thông, giáo viên nên đưa nội dung này vào bài44:Rượu etylic
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm với hoạt động giáo dục :
Với các biện pháp đã nêu ở trên bản thân tôi đã vận dụng vào quá trình giảng dạy.
Sau khi áp dụng đề tài cũng với 2 phiếu học tập có câu hỏi giống trước khi áp dụng
đến thời điểm hiện tại ( năm học 2017- 2018) tôi thu được kết quả như sau:

Lớp
9

Tổng
số
HS
42

Giỏi

Khá

TB


Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

5

11.9

15


35.7

20

47,6

2

4.8

0

0

Từ bảng thống kê trên cho thấy việc sử dụng kiến thức hóa học hữu cơ để giải thích
các hiện tượng trong thực tiễn đã mang lại hiệu quả rõ rệt
Đối với bản thân tôi nhờ vận dụng phương pháp dạy học liên hệ với hiện tượng
thực tế kết hợp với nhiều phương pháp khác, tôi đã đạt được một số kết quả nhất
định: Học sinh trở nên yêu thích môn học hoá hơn, không còn hiện tượng học sinh
“ngủ gật” trong tiết học, các em thích giờ dạy của tôi nhiều hơn thậm chí có những
học sinh đã tự về nhà quan sát và tái tạo lại hiện tượng thực tế rồi đến báo cáo lại kết
quả và hỏi tôi về một vài hiện tượng có phát sinh trong quá trình kiểm nghiệm.
Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hoà trong phong cách dạy của mình để làm sao đó
mang lại không khí thoải mái để học sinh tiếp thu bài một cách tự nhiên không bị thụ
động, gượng ép mà lại khắc sâu, nhớ lâu, phát triển được tư duy cho các em một
cách nhẹ nhàng.
14



Tuy nhiên trong một tiết dạy thời gian dành cho vấn đề này là không nhiều nên
người dạy cần phải linh hoạt và khéo léo, bất cứ một vấn đề gì nếu chúng ta quá lạm
dụng thì đều không tốt vì thế tôi vẫn luôn nghĩ: Dạy như thế nào cho tốt là một điều
không dễ.

15


3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Những kinh nghiệm nêu trong đề tài nhằm mục đích bồi dưỡng và phát triển kiến
thức kỹ năng cho học sinh vừa bền vững, vừa sâu sắc; phát huy tối đa sự tham gia
tích cực của người học. Học sinh có khả năng tự tìm ra kiến thức, tự mình tham gia
các hoạt động để vừa làm vững chắc kiến thức, vừa rèn luyện kỹ năng. Đề tài này
còn tác động rất lớn đến việc phát triển tiềm lực trí tuệ, nâng cao năng lực tư duy độc
lập và khả năng tìm tòi sáng tạo cho học sinh. Tuy nhiên cần biết vận dụng các kỹ
năng một cách hợp lý và biết kết hợp các kiến thức cơ bản cho từng học cụ thể thì
mới đạt được kết quả cao.
Trong quá trình học bản thân tôi đã rèn luyện được cho học sinh khả năng tự lực,
nhạy bén trong cuộc sống bao gồm các kĩ năng đặc trưng chung là:
- Khả năng vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết các hiện tượng trong thực
tế.
- Khả năng tự học
- Tăng cường học tập cá nhân phối hợp với học tập hợp tác.
- Khích lệ tinh thần tự tìm tòi, khám phá
* Bài học kinh nghiệm:
- Giáo viên không truyền thụ tri thức một cách áp đặt cho học sinh như trước đây mà
phải là người tổ chức, điều khiển quá trình dạy để học sinh tích cực, chủ động, sáng
tạo chiếm lĩnh tri thức.
- Giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh quan sát trực tiếp hoặc qua các sự vật

hiện tượng để khơi gợi được sự sáng tạo của học sinh.
- Trong giờ học tạo ra không khí thoải mái, phải biết kết hợp những kiến thức nội
dung của bài học với các hiện tượng trong thưc tế.
-Tạo điều kiện cho học sinh hoà nhập với thiên nhiên, đưa vào các chương trình sinh
hoạt tập thể với những nội dung phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng quan sát.
- Phải nắm vững yêu cầu nội dung từng tiết dạy, trong quá trình dạy học . Cần
chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp để khi thực hiện đúng kế hoach dạy học.
- Cần coi tiết học thực hành như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp
theo, dành nhiều thời gian để giúp học sinh trả lời những câu hỏi liên quan đến bài
học
- Học sinh phải chủ động tích cực học bài, biết cách quan sát tinh tế

16


3.2. Kiến nghị
Để nâng cao được kết qủa dạy và học trong nhà trường. Bản thân tôi xin được có
một số đề nghị lên ban lãnh đạo, phòng giáo dục đào tạo và cơ quan có thẩm quyền
như sau :
1.Phòng Giáo dục và Đào tạo nên đưa về trường những sáng kiến kinh nghiệm đã
được áp dụng thành công ở một số trường của một số giáo viên để các giáo viên
trường bạn tham khảo, rút kinh nghiệm cũng như nâng cao tay nghề của mình.
- Phòng cần tổ chức cho những buổi tham gia chuyên đề có chiều sâu hơn, không
tham lam kiến thức mà đi vào cụ thể từng tiết dạy, từng loại bài, cử một số giáo viên
giỏi, giáo viên có tay nghề xây dựng giáo án rồi tổ chức dạy để các giáo viên khác
học tập, rút kinh nghiệm, như vậy hiệu quả tốt hơn.
2. Nhà trường nên tổ chức cho học sinh các tiết học hoạt động ngoài giờ lớp,sinh
hoạt tập thể nói về Hoá học với hiện tượng thực tế. Từ đó khuyến khích học sinh
tham gia vào nghiên cứu khoa học, áp dụng những điều đã học vào thực tiễn.
3.Đối với giáo viên: Phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm, sức để tìm hiểu các vấn đề

hoá học, vận dụng sáng tạo phương pháp dạy hóa học, để có bài giảng thu hút được
học sinh.
Trong quá trình thực hiện đề tài mặc dù đã rất cố gắng song không thể tránh được
các thiếu sót rất mong được sự đóng góp ý kiến các cấp lãnh đạo, các bạn đồng
nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện mà còn có tính thiết thực hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ:

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện:

Lê Thị Thúy Lan

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nội dung nghị quyết Đại hội XI của Đảng
[2]. Lí luận dạy học hóa học
[3]. 385 câu hỏi và đáp về hóa học với đời sống ( Nhà xuất bản giáo dục – Tác giả:
Nguyễn Xuân Trường).
[4]. Sách giáo khoa 9 – Lê Xuân Trọng (Tổng chủ biên) – Nhà xuất bản giáo dục
[5].Hướng dẫn làm bài tập hóa học 9 –Tác giả Đinh Thị Hồng
[6].Nguồn Intenet

18




×