Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học phân môn lịch sử lớp năm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.67 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Mục

Nội dung

Trang

1

MỞ ĐẦU

2

1.1

Lí do chọn đề tài

2

1.2
1.3

Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

1.4

Phương pháp nghiên cứu

3
3


3

2

NỘI DUNG

4

2.1

Cơ sở lí luận

4

2.2

Thực trạng

5

2.3

Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học
phân môn Lịch sử lớp Bốn, Năm

6

2.3.1

Tích cực tự học, tự bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về tin học và

ứng dụng cơng nghệ thơng tin.

6

2.3.2

Tích cực sử dụng giáo án điện tử trong giảng dạy các mơn học
nói chung.

8

2.3.3

Sử dụng hình ảnh trong giáo án điện tử để minh họa cho nội
dung bài học Lịch sử.

8

2.3.4

Sử dụng các đoạn phim tư liệu trong giáo án điện tử để minh
họa cho nội dung bài học Lịch sử.

13

2.3.5

Xây dựng và sử dụng lược đồ trong giáo án điện tử để khai
thác nội dung bài học Lịch sử.


14

Kết quả.

18

2.4
3

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

19

3.1

Kết luận

19

3.2

Kiến nghị

19

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.

Những thành tựu mới của khoa học và công nghệ cuối thế kỉ XX và đầu thế
kỉ XXI đang làm thay đổi hình thức và nội dung các hoạt động kinh tế văn hóa và
xã hội của lồi người. Một số quốc gia phát triển đã bắt đầu chuyển từ văn minh
công nghiệp sang văn minh thông tin. Các quốc gia đang phát triển tích cực áp
dụng những tiến bộ mới của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
để phát triển và hội nhập.
Đối với Giáo dục và Đào tạo, cơng nghệ thơng tin có tác động mạnh mẽ làm
thay đổi nội dung, phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là
một phương tiện để tiến tới một “Xã hội học tập”. Mặt khác giáo dục và đào tạo
đóng một vai trị quan trọng thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin thông
qua việc cung cấp nhân lực cho công nghệ thông tin. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng
đã yêu cầu: “Tiếp tục triển khai hiệu quả Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý và hỗ trợ hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng
đến năm 2025... Tăng cường sử dụng sổ điện tử trong nhà trường; tập trung xây
dựng và khai thác sử dụng có hiệu quả kho bài giảng e-learning, kho học liệu số
của ngành phục vụ nhu cầu tự học và đổi mới, sáng tạo trong hoạt động dạy và học;
triển khai mơ hình giáo dục điện tử, lớp học, trường học thông minh; tăng cường áp
dụng phương thức tuyển sinh đầu cấp học qua mạng, cung cấp dịch vụ công trực
tuyến. Áp dụng mạnh mẽ phương pháp học trực tuyến (e-learning), kết hợp giữa
phương pháp học truyền thống với học trực tuyến (blended learning) để tạo thuận
lợi cho nhiều người học tập, nâng cao chất lượng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu thị
trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp
4.0”. (Trích Chỉ thị số 2699/CT-BGDĐT ngày 8/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
& Đào tạo về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2017 - 2018 của nghành giáo dục).Từ
đây, một lần nữa khẳng định: Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi
mới phương pháp dạy - học, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên, làm thế nào để việc ứng dụng công nghệ thông tin đạt hiệu quả cao nhất
đang là vấn đề mà mỗi người trong ngành giáo dục cần quan tâm. Hiện nay ngành
giáo dục vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học theo hướng

lấy học sinh làm trung tâm, người thầy giữ vai trị tổ chức, hướng dẫn học sinh
tích cực chủ động, tìm tịi, khám phá, lĩnh hội kiến thức mới. Vì vậy, mỗi giáo
viên cần có sự chủ động, sáng tạo, tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm
gây hứng thú học tập cho học sinh. Hòa chung trong xu thế phát triển của xã
hội ngày nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy là một việc
làm mang tính tất yếu, góp phần rèn luyện cho học sinh một số phẩm chất cần
thiết của người công dân trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin là một trong những hướng tích cực nhất,
2


hiệu quả nhất trong việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đối với
phân mơn Lịch sử nói riêng.
Chúng ta biết rằng, lịch sử là những gì đã xảy ra cách đây hàng chục năm,
hàng trăm năm và có thể lâu hơn nữa. Dạy học lịch sử là khôi phục lại những điều
đã xảy ra trong quá khứ của dân tộc, xây dựng cho các em học sinh niềm tự hào về
công cuộc dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Để làm được điều đó, giáo viên
cần tái hiện lại bức tranh trong quá khứ một cách sinh động thông qua đồ dùng trực
quan. Tuy nhiên các đồ dùng trực quan mang tính truyền thống khơng đáp ứng
được những đòi hỏi để bức tranh quá khứ hiện lên một cách rõ ràng. Vậy, làm thế
nào để học sinh có hứng thú trong giờ học Lịch sử? Đó là câu hỏi mà mỗi thầy
giáo, cơ giáo ln trăn trở trước khi lên bục giảng. Xuất phát từ thực tế và
những điều kiện sẵn có của nhà trường, tôi chọn đề tài: "Một số kinh nghiệm
về Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học phân môn Lịch sử lớp
Năm".
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề lí luận có liên quan đến ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy - học phân mơn Lịch sử ở lớp Bốn, Năm.
- Tìm hiểu thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạyhọc phân môn Lịch sử ở lớp Bốn, Năm.
- Đề ra các biện pháp và tổ chức thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin

trong dạy - học phân môn Lịch sử ở lớp Bốn, Năm.
- Rút ra một số kiến nghị, đề xuất qua nghiên cứu và thực hiện đề tài.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Một số kinh nghiệm trong tổ chức dạy học có ứng dụng cơng nghệ
thơng tin nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh trong học tập phân
môn Lịch sử.
- Nội dung chương trình, phương pháp dạy học phân mơn Lịch sử lớp 5
trong các tài liệu.
- Tập thể giáo viên và học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thọ Trường, Thọ
Xuân, Thanh Hóa.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu thực hiện đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu thu thập thông tin, xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm.

3


2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận.

Trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật
và cơng nghệ thơng tin, làn sóng vĩ đại của công nghệ đang tổ chức lại một cách cơ
bản đời sống xã hội của con người về mọi mặt từ kinh tế đến văn hố. Sự bùng nổ
về thơng tin đặt ra nhu cầu về tiếp nhận thông tin và giải quyết vấn đề của con
người ngày càng phải nâng cao không ngừng và đáp ứng kịp với yêu cầu của thời
đại. Do vậy, việc đào tạo ra những con người có năng lực, có trình độ nhận thức cao

đang là mục tiêu hàng đầu của nhân loại trong thế kỉ XXI.
Xu thế chung đã đưa giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu, thành lĩnh vực
được nhiều quốc gia chú trọng đầu tư. Từ nhiều kì Đại hội trước, Đảng ta đã khẳng
định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu đồng thời đã vạch ra phương hướng
chung để đổi mới sự nghiệp giáo dục. Từ thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước
thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ của giáo dục là nhằm
“nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài xây dựng những con người
mới năng động sáng tạo”, về mục tiêu đào tạo là hình thành thế hệ trẻ phát triển
toàn diện: “Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng tồn diện và có năng lực
chun mơn sâu, có tri thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tê nhiều
thành phần” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII).
Cùng với những cuộc cải cách toàn diện về kinh tế, xã hội yêu cầu cải cách
giáo dục cũng đã được đặt ra. Người ta đề cập nhiều đến chất lượng giáo dục, đến
chương trình sách giáo khoa cho các cấp, đến đổi mới phương pháp dạy học. Sự đổi
mới của mục tiêu giáo dục và nội dung giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới
phương pháp dạy học. Nghị quyết TW 6, khoá XII đã xác định mục tiêu của việc
đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo là nhằm: “khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện
và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên đại học.”.
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học các
mơn nói chung, phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng đã được đặt ra và thực hiện
một cách cấp thiết cùng với xu hướng đổi mới giáo dục chung của thế giới. Luật
giáo dục sửa đổi đã chỉ rõ: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức đã học vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học
tập cho học sinh”. Với tính cách là một mơn khoa học, phân mơn Lịch sử có tác
dụng nhất định đến việc hình thành thế giới quan, tình cảm đạo đức, phát triển năng
lực nhận thức và hành động … cho học sinh. Tuy nhiên, hiện nay chất lượng giảng

dạy và học tập phần Lịch sử ở các cấp học chưa thực sự làm cho xã hội an tâm. Vì
4


thế việc đổi mới một cách toàn diện về nội dung lẫn phương pháp dạy học Lịch sử
là vô cùng cần thiết.
Trong một thập niên trở lại đây, nhiều quan niệm, phương pháp dạy học mới
đã và đang được nghiên cứu, áp dụng ở trường phổ thông như: dạy học nêu vấn đề,
dạy học tích cực, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học theo dự án, dạy học
với sự hỗ trợ của công nghệ…. Tất cả đều nhằm mục đích tích cực hố hoạt động
của học sinh, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh. Đặc biệt việc sử dụng công
nghệ tin để xây dựng bài giảng điện tử (hay giáo án điện tử) trong các mơn nói
chung và trong dạy học Lịch sử nói riêng, được xem là một trong những công cụ
đem lại hiệu qủa tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy và học.
2.2. Thực trạng của vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Thuận lợi:
- Dưới sự chỉ đạo sát sao của Phòng Giáo dục và Đào tạo Thọ Xuân, trong
những năm qua hầu hết các trường trong huyện đã thực hiện ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác dạy-học.... Đa số các giáo viên trong huyện đã thực hiện
ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, gây hứng thú học tập cho học
sinh. Đặc biệt qua Hội thi Giáo viên giỏi cấp huyện, hầu hết các tiết dạy đều sử
dụng bài giảng điện tử. Đó là một bước phát triển lớn của việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy ở các nhà trường.
- Đối với trường Tiểu học Thọ Trường (nơi tôi công tác), 100% giáo viên đã
có chứng chỉ tin học và đa số cán bộ giáo viên đã sử dụng thành thạo trong việc cập
nhật hồ sơ, cập nhật điểm vào sổ liên lạc điện tử. Thực hiện nhận và gửi báo cáo về
ban giám hiệu nhà trường qua địa chỉ gmail. Sáng tạo ra nhiều đồ dùng dạy học
phù hợp với nội dung các tiết dạy, vì vậy nhiều tiết dạy Lịch sử trở nên sinh động,
có sức lơi cuốn. Sử dụng vận hành các trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ tốt

cho q trình ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong giảng dạy... Đặc biệt, có nhiều
giáo viên đã tự soạn được giáo án điện tử và sử dụng thành thạo qua các buổi thao
giảng, thanh tra, kiểm tra.
- Học sinh đã quen dần với mơn học có ứng dụng cơng nghệ thơng tin. Phần
lớn học sinh có ý thức học tập và u thích phân mơn Lịch sử, tích cực thực hiện
được các yêu cầu, bài tập của giáo viên sau giờ học.
Khó khăn:
- Kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Có những sự kiện đã diễn ra cách
ngày nay hàng trăm, hàng ngàn năm thậm chí lâu hơn. u cầu của phân mơn địi
hỏi, khi nhận thức học sinh phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách
sống động như đang diễn ra trước mắt mình. Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học
sinh Tiểu học còn hạn chế nên việc sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh
tái hiện là một nguyên tắc trong dạy học Lịch sử. Trong khi các phương tiện trực
quan phục vụ dạy học lịch sử hiện nay còn nhiều hạn chế. Phương tiện vừa thiếu lại
5


vừa khơng phù hợp. Thử lấy ví dụ về hệ thống bản đồ, lược đồ, chúng ta có thể
khẳng định một điều rằng hệ thống bản đồ, lược đồ và tranh ảnh lịch sử trong danh
mục đồ dùng do Bộ giáo dục phát hành là không đủ cho các bài dạy. Bên cạnh đó
kênh chữ và các kí hiệu q nhỏ khó có thể sử dụng được. Các tranh ảnh ở sách
giáo khoa màu sắc còn đơn điệu và thiếu đồng bộ, chưa kể đến phim tài liệu thì hầu
như khơng có. So với u cầu đặt ra của phân môn và định hướng đổi mới phương
pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay thì có thể nói rằng: những phương tiện dạy
học không đáp ứng được yêu cầu và không thể tạo nên hứng thú học tập cho học
sinh.
- Các phương tiện, thiết bị hiện đại phục vụ cho việc đổi mới phương pháp
dạy học còn thiếu thốn và chưa đồng bộ. Mỗi trường chỉ có từ một đến hai máy
chiếu, trong khi đó số lượng giáo viên, số lớp nhiều khơng đảm bảo để giáo viên có
thể thực hiện thường xuyên.

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin ở các nhà trường chưa được thực hiện
hoặc thực hiện nhưng hiệu quả chưa cao.
- Kiến thức, kỹ năng về cơng nghệ thơng tin ở một số giáo viên cịn hạn chế,
chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí cịn né tránh. Một số giáo
viên chưa biết soạn giáo án điện tử, chỉ biết download trên mạng mà không biết
chỉnh sửa cho phù hợp, đôi khi sử dụng chưa thành thạo, còn lúng túng dẫn đến
chất lượng bài giảng cịn hạn chế.
- Việc ứng dụng cơng nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học chưa
được nghiên cứu kĩ, dẫn đến việc vận dụng không đúng lúc, đúng chỗ, nhiều khi
lạm dụng nó, làm cho bài giảng như một buổi xem phim và đọc tài liệu.
- Việc kết nối và sử dụng mạng Internet đôi khi còn trục trặc kỹ thuật.
2.3. Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy - học phân
môn Lịch sử lớp Năm.
Để việc ứng dụng công nghệ thơng tin vào dạy học Lịch sử hiệu quả, có
rất nhiều cách nhưng trong khuôn khổ của đề tài này tơi đưa ra 1 số biện pháp
như sau:
2.3.1. Tích cực tự học, tự bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về tin học và ứng
dụng cơng nghệ thơng tin.
Cuộc sống địi hỏi mỗi người phải tự trang bị cho mình những tri thức mới.
Đây là việc làm phải tiến hành thường xun, liên tục. Khơng tiếp tục học thì tất
yếu sẽ bị lạc hậu. Tự học là một cách tự bồi dưỡng tự làm giàu kiến thức cho bản
thân vừa đơn giản, tiết kiệm vừa hiệu quả. Do đó, phải coi tự học, tự nghiên cứu là
phương pháp học tập quan trọng nhất. Vì vậy, tơi đã nhận thức được sự cần thiết
phải tự học, tự bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ chun mơn
và tự xây dựng cho mình kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng. Tơi đã lựa chọn cho mình
một số hình thức tự học phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh: học qua sách vở, qua
đồng nghiệp, học trên các phương tiện truyền thơng như báo chí, chương trình giáo
6



dục - Đào tạo trên sóng phát thanh truyền hình, học qua Internet. Ngay sau khi có
cơng văn của Phịng Giáo dục và Đào tạo huyện Thọ Xuân mở lớp dạy phổ cập tin
học cho giáo viên, tôi đã mạnh dạn xin Ban giám hiệu nhà trường đi học. Chỉ sau
100 tiết học, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo trường Dạy nghề, tôi đã sử
dụng thành thạo máy vi tính ( Phần Word và Excel ) và biết sơ bộ và phần mềm
Power Point. Về trường tơi tiếp tục mày mị nghiên cứu tập làm giáo án điện tử trên
phần mềm Microsoft Power Point, dự giờ dạy có sử dụng cơng nghệ thơng tin của
đồng nghiệp (kể cả trường mình và trường bạn) để rút kinh nghiệm giảng dạy. Nhờ
sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp chỉ sau một thời gian ngắn tôi đã làm thành thạo
một giáo án điện tử và sử dụng giáo án điện tử vào dạy học.
Ngồi ra tơi cịn thường xuyên truy cập vào các trang web và đăng ký thành
viên của các diễn đàn: Bachkim.vn, dayhocinte.org, giaovien.net, moet.edu... để
học tập kinh nghiệm, tiếp thu những công nghệ mới.
Qua học tập và nghiên cứu, tôi thấy rằng: Power Point là phần mềm đồ hoạ
điển hình có trong bộ Microsoft Office. Phần mềm Power Point hầu như đã hiện
diện sẵn trong hầu hết các máy tính và giao diện của nó cũng rất quen thuộc với
giáo viên biết sử dụng Word. Phần mềm Power Point có thể đáp ứng được các yêu
cầu khác nhau trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng ở trường Tiểu
học: Từ việc dạy kiến thức mới đến khâu củng cố, ôn tập kiểm tra đánh giá hay các
hoạt động ngoại khoá.
Phần mềm này có thể giúp giáo viên dễ dàng chèn nội dung văn bản, hình
ảnh, vi deo clip, âm thanh, … khi làm một giáo án điện tử làm cho các kênh thông
tin về các sự kiện lịch sử trong bài dạy trở nên đa dạng, phong phú, sinh động; qua
đó tạo biểu tượng lịch sử một cách rõ nét, giúp học sinh cảm nhận và “xích lại” gần
hơn với quá khứ, hiểu lịch sử đầy đủ và sâu sắc hơn.
Từ đó tơi đã rút ra quy trình xây dựng một bài giảng điện tử như sau :
- Xây dựng giáo án:
+ Xác định mục tiêu bài dạy : Dựa trên chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt.
+ Xác định kiến thức trọng tâm, kiến thức cần đạt.
+ Sưu tầm tư liệu.

- Thiết kế bài giảng điện tử:
+ Dự kiến các Slide ( dựa trên các hoạt động dạy học được dự kiến trong kế
hoạch bài dạy – Giáo án )
* Kế hoạch xây dựng các Slide có thể được trình bày như sau:
TT
Thời
Đối
tượng Biện
pháp Mục đích sư Học
sinh
Slid gian
được
trình khai thác
phạm
thảo luận,
e
bày trên các
trả lời
Slide
1
2
7


- Kiểm tra:
+ Tiến hành chạy thử các Slide – có đối chiếu với các hoạt động dạy học
trong kế hoạch dạy học.
+ Chỉnh sửa nội dung, hình thức trang trí Slide và hiệu ứng sao cho phù hợp
với mục tiêu và kế hoạch dạy học đã đề ra.
+ Chạy thử toàn bộ bài thiết kế.

* Một số lưu ý khi xây dựng các Slide trong bài giảng điện tử :
+ Khơng nên sử dụng hình ảnh phụ, hình ảnh không cần thiết ; màu sắc chữ
trên các Slide không q 3 màu vì nó gây mất tập trung vào bài giảng của học sinh.
+ Không nên tạo các hiệu ứng quá chậm hoặc quá nhanh, hiệu ứng lắc lư,
đảo điên vì nó gây cảm giác mệt mỏi khi quan sát.
2.3.2. Tích cực sử dụng giáo án điện tử trong giảng dạy các mơn học nói
chung.
Giáo án điện tử giúp giáo viên tiết kiệm được nhiều thời gian trong việc ghi
bảng, trong thao tác sử dụng những loại đồ dùng trực quan truyền thống hay hướng
dẫn học sinh thực hiện các loại bài tập, giới thiệu tài liệu tham khảo...Thay vào đó
giáo viên có điều kiện tốt để tổ chức cho học sinh trao đổi thảo luận, phát huy tính
tích cực, say mê, hứng thú trong học tập. Mặt khác, trong tiết học có sử dụng giáo
án điện tử, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh tiếp cận một lượng kiến thức
phong phú, sâu rộng và sinh động… Thơng qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có
nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều
hơn trong giờ học. Các bài giảng điện tử có tác dụng hỗ trợ và phát huy tính tích
cực của học sinh, là phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Thông qua
hệ thống kênh hình, kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ
tiếp thu, thu hút sự chú ý, gây hứng thú học tập cho học sinh; giờ học nhẹ nhàng
và có hiệu quả cao hơn. Và bằng suy luận có lý, học sinh tích cực khám phá, tiếp
cận kiến thức mới một cách chủ động không áp đặt. Đây là một công dụng lớn của
công nghệ thơng tin trong q trình đổi mới phương pháp dạy học nói chung.
Tuy nhiên, phương pháp dạy học này chỉ thực sự có hiệu quả đối với một số
bài giảng chứ khơng phải là tồn bộ chương trình. Vì vậy, giáo viên phải nghiên
cứu, lựa chọn các phương pháp dạy học cho phù hợp. Đối với những bài học có nội
dung ngắn, khơng nhiều kiến thức mới thì việc dạy theo phương pháp truyền thống
sẽ thuận lợi hơn cho học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả nội dung bài học đó đủ trên
một mặt bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà không cần
phải lật lại từng Slide như khi dạy trên giáo án điện tử. Còn đối với những bài có
nội dung dài, cần có nhiều hình ảnh, âm thanh... minh hoạ thì nên sử dụng bài giảng

điện tử để phát huy tác dụng của nó.
2.3.3. Sử dụng hình ảnh trong giáo án điện tử để minh họa cho nội dung bài
học Lịch sử.
8


Một trong những lợi thế của môn học Lịch sử là có rất nhiều tư liệu bằng
hình ảnh như các bức hoạ, ảnh chụp đặc biệt là các bộ phim tài liệu. Học Lịch sử
là học quá khứ nên học sinh rất thích được xem những hình ảnh thực tế của quá
khứ làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng với thời kì lịch sử đó.
Hình ảnh là nguồn tư liệu phong phú nhất khi ứng dụng cơng nghệ thơng tin
vào dạy học, có thể nói bài học nào có ứng dụng cơng nghệ thơng tin thì bài
học đó đều có hình ảnh minh họa. Tuy nhiên giáo viên khơng vì phong phú mà
đưa q nhiều hình ảnh, hình ảnh khơng gần với bài học sẽ dẫn tới không thể
làm cho học sinh khắc sâu kiến thức. Nếu khai thác tốt hình ảnh sẽ hấp dẫn
được học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn bài học, nhưng ngược lại cũng
khơng tránh khỏi sự tị mị của học sinh dẫn tới sao nhãng việc tiếp thu kiến
thức. Có hai hình thức sử dụng hình ảnh:
a. Hình ảnh minh họa cho nội dung kiến thức:
Sau khi giáo viên đã trình bày song phần nội dung kiến thức của từng
mục, từng bài giáo viên đưa ra các hình ảnh minh họa cho nội dung bài vừa
học xong, qua đó các em nhận thức được sâu hơn vấn đề.
Ví dụ: Dạy bài Bến Tre đồng khởi (SGK Lịch sử và Địa lí 5, trang 43), khi
tìm hiểu ngun nhân cuộc đồng khởi, ngồi việc học sinh tìm hiểu sách giáo khoa,
giáo viên cho học sinh xem một số hình ảnh về tội ác của Đế quốc Mĩ đối với nhân
dân miền Nam. Qua hình ảnh các em thấy được rõ hơn về nguyên nhân đồng bào
miền Nam nói chung và nhân dân Bến Tre nói riêng đứng lên khởi nghĩa. Cụ thể là
các hình ảnh sau:

Đồng bào miền Nam bị lính

Mĩ – Nguỵ thảm sát

Lính Mĩ – Nguỵ đốt nhà của đồng
bào miền Nam

b. Hình ảnh khắc sâu kiến thức:
Giáo viên đưa ra hình ảnh và hướng dẫn học sinh khai thác hình ảnh sau
đó rút ra những kiến thức của bài học nhằm khắc sâu kiến thức trọng tâm. Vấn
9


đề này khơng khó nhưng giáo viên lại khơng hay chú ý thường bỏ qua hoặc làm
thay cho học sinh.
Ví dụ 1: Dạy bài Vượt qua tình thế hiểm nghèo (SGK Lịch sử và Địa lí 5,
trang 24), giáo viên chụp bức ảnh (Hình 2) Nhân dân góp gạo chống “giặc đói”
(10 - 1945) và trình chiếu trên màn hình lớn, hướng dẫn học sinh quan sát, nhận
xét về phong trào cứu đói của nhân dân ta trong những ngày đầu sau cách mạng
Tháng Tám năm 1945.

Khi khai thác, giáo viên nên bổ sung kiến thức, cụ thể hóa kiến thức bằng
hình ảnh, bằng những câu chuyện cụ thể để tạo ấn tượng, làm bài giảng thêm
sinh động hấp dẫn: “ Hũ gạo cứu đói ", “ Ngày đồng tâm ": Mỗi gia đình, mỗi
bữa bớt khẩu phần ăn của cả nhà một nắm bỏ vào hũ, một tháng cả nhà nhịn ăn
một bữa...... Giáo viên kể chuyện về tấm gương “10 ngày nhịn ăn một bữa,
dành gạo giúp người nghèo” của Bác Hồ trong những ngày này để giáo dục tư
tưởng, tình cảm, đạo đức cho các em. Tất cả mọi người, tất cả mọi nhà đều“
lập hũ gạo cứu đói", đều thực hiện “ Ngày đồng tâm" khi hũ gạo nhà mình đầy,
đem tới nơi qun góp gạo chung của cả làng....( giáo viên vừa giảng vừa cho
học sinh trực quan vào trung tâm bức ảnh) chỗ gạo quý hiếm chắt chiu ấy, sẽ
được đưa tới nơi đói gay gắt hơn, để đồng bào có được miếng cơm, bát cháo

cho qua đi những ngày khốn khó. Đấy chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau
cùng", hay “Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”. Trong gian nan, khốn khó, càng sáng bừng lên nghĩa cử “ Một nắm khi
đói bằng một gói khi no"...
Khi dạy về diệt giặc dốt. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bức ảnh
trên màn hình lớn và cùng trao đổi thảo luận.

Trước hết, giáo viên giải thích để học sinh hiểu: “Bình dân học vụ" là gì?
Là phong trào xóa nạn mù chữ trong tồn dân, được Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8 tháng 9 năm 1945 (sắc lệnh 19/SL và
20/SL) ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập. Sau đó giáo viên cho học sinh
biết thêm: học tập, là nghĩa vụ của mọi người dân, có học, mới có kiến thức,
mới xây dựng được chính quyền mới – xây dựng được cuộc sống mới ... Một
lớp bình dân học vụ ban đêm: Có trẻ, có già, có trai, có gái, đầy đủ mọi lứa
tuổi, giáo viên có thể là những cơ, cậu 9,10 tuổi, học sinh có thể là những cụ
già 60;70 tuổi, đang say sưa học bài - lần đầu tiên nắn nót viết chữ “ O trịn
10


như quả trứng gà”, mà miệng cũng tròn, mắt cũng trịn vì ngạc nhiên và sung
sướng... ánh sáng của những ngọn đèn dầu hôm nay, sẽ làm bừng sáng tương
lai của dân tộc ở ngày mai...(giáo viên cho học sinh quan sát thêm bức ảnh dưới
đây:)
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp bình dân học vụ
Ví dụ 2: Bài 13: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước”
(SGK Lịch sử và Địa lí 5, trang 27, giáo viên sử dụng hình 2 trang 29 SGK
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” - quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh
xe tăng Pháp - trình chiếu trên màn hình lớn hướng dẫn học sinh khai thác nội
dung kiến thức cơ bản, kèm theo câu hỏi gợi mở: Em biết gì về bức ảnh lịch sử

này? Bức ảnh chụp ai? Theo em hiện nay bức ảnh gốc đang được trưng bày ở
đâu? Quan sát bức ảnh trên em có nhận xét gì về tinh thần chiến đấu của chiến
sĩ Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược?
ơ

Sau khi học sinh trao đổi, trả lời xong, giáo viên nhận xét và kết luận về
nội dung bức hình: Bức hình cả lớp đang xem trên màn hình là ảnh chụp
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”(Qn Hà Nội ơm bom ba càng đón đánh xe
tăng Pháp). Bức ảnh do bác sĩ quân y Trần Hạnh chụp ngày 20/12/1946. Người
trong ảnh là chiến sĩ Nguyễn Văn Thiềng, còn gọi là Trần Thành, quê ở phố
Hàng Vôi (Hà Nội). Bức ảnh gốc hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng quân
đội Việt Nam. Bức ảnh phản ánh một hiện thực lịch sử sinh động về các chiến
sĩ trung đồn Thủ đơ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Hành động quyết tử của
chiến sĩ Trần Thành mãi mãi là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước và lòng
dũng cảm cho các thế hệ thanh niên mai sau học tập”.
Như vậy, việc trình chiếu bức tranh trên màn hình lớn để hướng dẫn học
sinh quan sát, miêu tả kết hợp với sự dẫn dắt và câu hỏi gợi mở của giáo viên sẽ
giúp học sinh dễ dàng khắc sâu kiến thức mới đồng thời phát huy tính tích cực,
hứng thú trong học tập của học sinh. Sau khi học sinh quan sát, suy nghĩ, trả
lời, giáo viên kết luận sẽ hình thành trong đầu các em biểu tượng rõ nét, chân
thực hình ảnh về các chiến sĩ cảm tử quân Hà Nội trong những ngày đầu tồn
quốc kháng chiến. Nhờ đó, các em sẽ khắc sâu, nhớ lâu kiến thức về sự kiện
lịch sử này, không nhầm lẫn với các nhân vật và sự kiện lịch sử khác. Và nếu
như khơng có ứng dụng cơng nghệ thông tin và giáo viên cũng chỉ cần khai
thác những nội dung trong sách giáo khoa là đủ thì học sinh dễ cảm thấy nhàm
chán và giờ học không đạt được kết quả cao.
11


2.3.4. Sử dụng các đoạn phim tư liệu trong giáo án điện tử để minh họa cho

nội dung bài học Lịch sử.
Có thể nói các thước phim tư liệu là nguồn tư liệu sống trong dạy học
lịch sử bởi qua những thước phim này các em biết luôn được về thời kì quá khứ
hào hùng của dân tộc. Tùy theo nội dung của bài giáo viên có thể đưa vào
những đoạn phim tư liệu, những bài hát phù hợp làm phong phú thêm bài học,
đồng thời thay đổi khơng khí trong một giờ học Lịch sử. Có hai hình thức sử
dụng đoạn phim tư liệu:
a. Xem phim tư liệu bổ sung và khắc sâu kiến thức vừa học.
*Ví dụ 1: Bài 6: Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước (SGK Lịch sử và Địa
lí 5, trang 14).
Sau khi cho học sinh tìm hiểu về quê hương, thời niên thiếu và quyết tâm ra
đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành, giáo viên cho học sinh xem
đoạn video về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ khi
Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước đến khi Nguyễn Ái Quốc đọc Luận
cương của Lê Nin và tìm được con đường cứu nước cho cách mạng Việt
Nam....Sau khi xem xong đoạn video này học sinh sẽ bổ sung và khắc sâu thêm
kiến thức về hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
*Ví dụ 2: Bài 17- Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (SGK Lịch sử và
Địa lí 5, trang 37; 38; 39).
Sau khi dạy hết bài giáo viên có thể cho học sinh nghe bài hát "Giải
phóng Điện Biên" của nhạc sĩ Đỗ Nhuận, khí thế hào hùng của lời bài hát cùng
những hình ảnh minh họa trong bài hát một lần nữa khắc sâu kiến thức bài học
cho học sinh, gây tâm lí thoải mái, hứng thú trong giờ học, làm cho giờ học
Lịch sử bớt nhàm chán bởi những con số và sự kiện...
b. Xem phim tư liệu rút ra những nội dung cơ bản của bài học.
*Ví dụ 1: Bài 10: Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập (SGK Lịch sử và Địa lí
5, trang 21; 22).
Dạy tới phần nội dung của Tuyên ngôn độc lập, giáo viên dừng lại cho
học sinh xem đoạn video đọc Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
"Hỡi đồng bào cả nước, tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo

hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền
ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, lời bất hủ
ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ, suy rộng ra câu ấy
có ý nghĩa là, tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng
về quyền lợi, đó là những quyền lợi khơng ai chối cãi được........”. Câu nói của
chủ tịch Hồ Chí Minh " Tơi nói đồng bào nghe rõ khơng"; Lời khẳng định cuối
12


bản Tun ngơn Độc lập: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thật đã trở thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do độc lập ấy". Sau khi học sinh xem xong giáo viên có thể hỏi: Nội dung bản
tun ngơn độc lập của Việt Nam phản ánh những vấn đề gì? Vì học sinh vừa
được xem xong nên các em có thể rút ra được ngay nội dung cơ bản của bản
Tun ngơn độc lập của Việt Nam, đó là sự kế thừa và tiếp nối những mặt tích
cực của bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp, bản Tuyên
ngôn độc lập của nước Mĩ để Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên một bản Tun
ngơn hào hùng cho dân tộc Việt Nam, khẳng định với thế giới quyền tự do dân
chủ của nhân dân Việt Nam.... Hơn nữa các em được nghe thực tế giọng của
Bác Hồ đọc tuyên ngôn, các em sẽ phấn khởi hơn hứng thú hơn khi học những
phần sau và dễ khắc sâu kiến thức của bài.
Ví dụ 2: Bài 13: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước”
(SGK Lịch sử và Địa lí 5, trang 27).
Khi dạy tới đoạn chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi tồn quốc kháng
chiến nếu như trước đây dạy bình thường giáo viên chỉ khai thác nội dung này
qua đoạn kênh chữ trong sách giáo khoa Trang 27 học sinh chỉ biết tới lời kêu

gọi toàn quốc kháng chiến qua giọng đọc trầm bổng của giáo viên, nhưng có
ứng dụng cơng nghệ thông tin giáo viên cho học sinh xem Lời kêu gọi tồn
quốc kháng chiến bằng chính nét chữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lời đọc của
Người, học sinh được mắt thấy tai nghe, các em sẽ hứng thú nhiều khi học tập
và cô đọng lại nội dung kiến thức của bài giảng trong học sinh.
2.3.5. Xây dựng và sử dụng lược đồ trong giáo án điện tử để khai thác nội
dung bài học Lịch sử.
Ưu thế của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử là
bằng các hiệu ứng giáo viên có thể làm cho học sinh thấy được sự sinh động
trong diễn biến các trận đánh và thấy được sự quyết liệt trong mỗi sự kiện...
Một bản đồ hoặc lược đồ động sẽ hứng thú hơn nhiều so với bản đồ tĩnh, tuy
nhiên việc thiết kế một lược đồ điện tử là một vấn đề rất khó làm đối với giáo
viên. Phương pháp này có thể áp dụng cho rất nhiều bài trong chương trình của
phân mơn Lịch sử đặc biệt là các bài có diễn biến của phong trào cách mạng, các
trận đánh lớn. tôi xin nêu ra một trường hợp ứng dụng cụ thể đó là:
Để dạy Bài 15: Chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950, (SGK Lịch sử và
Địa lí 5, trang 32), tơi sử dụng lược đồ để mô tả minh hoạ chiến thắng này. Tôi xin
giới thiệu cách làm và sử dụng lược đồ trong bài.
a. Xây dựng: Để xây dựng và sử dụng lược đồ thì cần có một lược đồ trên giấy của
phong trào hoặc là lược đồ điện tử có sẵn. Ở đây tôi sử dụng lược đồ trong sgk
(trang 34).
13


Bước 1: Trước hết ta dùng một máy quét nối với máy tính để quét lược đồ
vào trong máy tính. Sau đó dùng các kỹ thuật vẽ trong Powerpoint để chỉnh sửa
lược đồ theo nhu cầu, mục đích sử dụng (có thể phóng to, thu nhỏ hoặc cắt bớt một
số phần).
Bước 2: Vẽ các ký hiệu trên lược đồ.
- Công việc này nhằm tạo ra các ký hiệu, cho xuất hiện theo ý đồ định sẵn

phù hợp với diễn biến của phong trào theo đúng trình tự.
- Để vẽ các ký hiệu này ta vào Powepoint/AutoShaper rồi chọn các ký hiệu
phù hợp. Ở đây tơi chèn hình lá cờ đỏ sao vàng để mô tả những cứ điểm quân ta
chiếm được, chèn hình mũi tên màu đỏ để mơ tả đường, hướng tấn công của quân
ta và mũi tên màu đen nét đứt để chỉ đường, hướng hành quân và rút lui của địch.
+ Hình đốm lửa đỏ để biểu thị cứ điểm Đông Khê.
Sau khi đã vẽ xong các ký hiệu theo đúng ý đồ thì ta đặt hiệu ứng xuất hiện theo
trình tự diễn biến của phong trào.
- Cách đặt hiệu ứng như sau:
+ Chọn ký hiệu cần đặt hiệu ứng (ví dụ lá cờ đỏ sao vàng).
+ Ta chọn lá cờ đỏ sao vàng sau đó nháy chuột vào Slide show
+ Chọn Custom Animation …
+ Chọn Add Effect/Entrance.
Sau đó tuỳ chọn kiểu xuất hiện đối với lá cờ đỏ sao vàng và cứ điểm Đơng
Khê thì ta nên chọn hiệu ứng nhấp nháy to dần. Các ký hiệu còn lại ta đặt hiệu ứng
theo cách tương tự như vậy sao cho các hiệu ứng của các ký hiệu xuất hiện theo
đúng trình tự diễn biến của chiến dịch.
b. Sử dụng: Sử dụng lược đồ động để minh họa cho “hoạt động 2: Diễn biến, kết
quả của chiến dịch Biên giới thu - đông 1950”, giáo viên tường thuật diễn biến
cùng với việc minh họa bằng lược đồ trên máy, sau đó cho học sinh quan sát lược
đồ chiến dịch và thuật lại chiến dịch bằng các mũi tên
chỉ đường, hướng tấn
công của quân ta và mũi tên
chỉ đường, hướng hành quân và rút lui của địch
và giáo viên cho xuất hiện hình cờ đỏ sao vàng để biểu thị vùng được giải phóng.
Cụ thể: Ngày 16 - 9 - 1950 ta nổ súng tấn công Đông Khê (đến đây giáo viên cho
nháy chuột để xuất hiện vị trí Đơng Khê). Địch ra sức cố thủ trong các lô cốt và
dùng máy bay bắn phá suốt ngày đêm. Với tinh thần quyết thắng, bộ đội ta đã anh
dũng chiến đấu. Sáng 18 - 9 - 1950 quân ta chiếm được cứ điểm Đông Khê (giáo
viên cho nháy chuột để biểu tượng cờ đỏ sao vàng hiện ra tại Đông Khê và tiếp

theo là 750 km trên dải biên giới Việt Trung).
Việc sử dụng lược đồ động trong bài này cũng như các bài khác có nội dung
liên quan đến diễn biến các phong trào sẽ góp phần tăng tính trực quan, sinh động
giúp cho các em có thể nhận thức lịch sử một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn, sâu
sắc hơn.
Cao B»ng

14


Đông Khê
Bắc Kạn
Lạng Sơn
Đờng số 4

Tng t khi dy Bi 17: Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (SGK Lịch
sử và Địa lí 5, trang 37).
Giáo viên hỏi học sinh: “Vì sao Pháp – Mĩ lại chọn Điện Biên Phủ để
xây dựng tập đồn cứ điểm mạnh nhất Đơng Dương (pháo đài không thể công
phá)? Sự hùng mạnh của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được biểu hiện như
thế nào?”, giáo viên trình chiếu cho các em quan sát lược đồ khắc họa về địa
thế của Điện Biên Phủ, về sự gấp rút xây dựng lực lượng cơ động mạnh của
quân Pháp ở đây,… kết hợp với phương pháp trao đổi, đàm thoại, nêu vấn đề,
… Lược đồ được xây dựng với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, có hiệu ứng
sinh động, kèm theo hình ảnh và đoạn phim tư liệu miêu tả về cứ điểm, nên học
sinh cảm nhận được các sự kiện lịch sử sâu sắc. Phương pháp tổ chức cho học
sinh tìm hiểu bài như trên sẽ giúp các em hiểu rằng, trước những địn tiến cơng
quyết liệt của qn dân ta, Nava đã quyết định xây dựng Điện Biên Phủ thành
tập đoàn cứ điểm hùng mạnh, chấp nhận giao chiến với ta. Điều này xuất phát
từ nhận định: Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn, bao quanh toàn là đồi

núi trùng điệp, nhưng lại là “chìa khóa” để bảo vệ Thượng Lào và chiếm lại
các vùng đã mất ở Tây Bắc Việt Nam. Đối với Việt Minh, nơi đây quá xa hậu
phương, địa hình rừng núi hiểm trở nên tiếp tế sẽ khó khăn; lúc này ta chỉ có
thể sử dụng lực lượng khoảng 1 đại đồn, lại khơng thể sử dụng pháo cỡ lớn
được, cùng lắm là pháo 75mm; ngoài ra, nếu chẳng may thất bại, Pháp sẽ dễ
15


dàng mở một con đường tháo chạy sang Lào… Từ nhận định này, được sự giúp
đỡ của Mĩ, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm hùng
mạnh nhất Đông Dương với 49 cứ điểm, chia làm 3 phân khu lớn là phân khu
Bắc, phân khu Trung tâm và phân khu Mường Thanh. Với số quân tinh nhuệ là
16.200 tên, lại được trang bị những loại vũ khí hiện đại nhất, nên cả Pháp và
Mĩ đều nhận định: Điện Biên Phủ là một “pháo đài bất khả xâm phạm”.
Trên cơ sở hiểu rõ lí do vì sao Pháp – Mĩ lại chọn Điện Biên Phủ để xây
dựng tập đoàn cứ điểm hùng mạnh và biểu hiện về sự hùng mạnh của nó, học
sinh cũng hình thành được khái niệm, thuật ngữ mới: Cứ điểm Điện Biên Phủ
là gì? Khi dạy tới phần diễn biến của chiến dịch qua từng đợt với các phương
tiện kỹ thuật hiệu ứng hỗ trợ, giáo viên có thể cho học sinh thấy được bức tranh
sống động của chiến dịch Điện Biên Phủ với những đợt tấn công của quân ta,
sự viện trợ, rút chạy của Pháp-Mĩ trên chiến trường Điện Biên Phủ. Một lần
nữa ta khẳng định một bản đồ (lược đồ) động sẽ dễ dàng khắc sâu kiến thức và
gây hứng thú hơn nhiều với học sinh so với một bản đồ (lược đồ) tĩnh.
Cách xây dựng và sử dụng lược đồ cũng tương tự như bài Bài 15:
Chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950 đã nêu ở trên
2.4. Kết quả:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin đã và đang ngày càng trở thành công cụ
đắc lực trong đổi mới phương pháp dạy học trong các nhà trường. Trong những
năm học qua, bằng việc thực hiện các biện pháp trên, tơi thấy chất lượng dạy – học
nói chung và chất lượng dạy học mơn Lịch sử nói riêng của lớp 5 trường tôi đạt kết

quả cao. Học sinh được tiếp cận với phương pháp dạy học mới đã say mê, hứng thú
học tập hơn. Các em không chỉ được cung cấp những kiến thức trong sách giáo
khoa mà bằng những hình ảnh, âm thanh sống động, các em như được đi đến những
chân trời mới lạ; Có những nơi khơng bao giờ có thể đặt chân tới được nhưng các
em vẫn được quan sát như ở ngay trước mắt vậy. Chính điều đó đã giúp cho các em
mở rộng, khám phá nhiều tri thức mới của nhân loại, kiến thức lịch sử của dân tộc.
Đặc biệt, trong các ngày lễ như 20/11, 22/12, 26/3... hay các tiết Hoạt động
ngoài giờ lên lớp, bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin, thường tổ chức các trò
chơi học tập như: rung chng vàng, giải ơ chữ, chiếc nón kỳ diệu...dưới hình thức
“ Học mà chơi - Chơi mà học” củng cố, mở rộng kiến thức các môn học và kiến
thức cuộc sống, xây dựng các kỹ năng sống cho học sinh góp phần thực hiện tốt
phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ
Giáo dục và Đào tạo phát động.
Nhờ áp dụng những kinh nghiệm trên trong năm học vừa qua chất lượng học
tập ở lớp tơi nói riêng chất lượng dạy- học của giáo viên và học sinh trường tơi nói
chung có hiệu quả rõ rệt. Kết quả trên được thể hiện qua các mặt sau:
a. Đối với học sinh:
16


- Học sinh được tiếp cận với các hình ảnh trực quan sinh động, giúp các em
dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu nội dung bài học.
- Xoá bỏ cảm giác khô khan giáo điều trong các giờ học Lịch sử để môn học
này trở nên gần gũi với các em hơn.
- Kết quả thực tế cho thấy, đa số các em học sinh đều tỏ ra hứng thú với bài
học có ứng dụng cơng nghệ thơng tin, tạo ra sự tập trung chú ý cao độ, giúp các em
khắc sâu kiến thức về lịch sử, từ đó các em có thể thuộc bài ngay tại lớp.
- Học sinh phát huy được năng lực tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập.
Các em tiến bộ rất nhiều về kĩ năng nói, kĩ năng trả lời câu hỏi, kĩ năng bày tỏ ý
kiến, sự mạnh dạn, tự tin khi trình bày ý kiến của mình trước tập thể.

b. Đối với giáo viên:
- Tạo được hiệu ứng rõ rệt trong tập thể giáo viên về ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học, giáo viên đam mê, sámg tạo hơn, khơng cịn cảm giác né
tránh hoặc ngại soạn giáo án điện tử, kiến thức và kĩ năng về công nghệ thông tin
được nâng cao.
- Giáo viên tự tin khi lên bục giảng.
- Tiết kiệm được thời gian so với sử dụng bằng các đồ dùng trực quan (tranh
ảnh).
- Đẫn dắt học sinh vào vấn đề một cách nhẹ nhàng và sinh động.
c. Đối với nhà trường:
- Nâng cao chất lượng bài dạy và tay nghề của giáo viên trong việc ứng dụng
công nghệ thông tin.
- Chất lượng học tập của học sinh được cải thiện rõ rệt.
- Kho tư liệu đồ dùng dạy học được tăng cường thêm.
- Giáo viên trong trường có cơ hội tham khảo, học hỏi lẫn nhau về cách thực
hiện, cách giảng dạy giáo án điện tử và có ngân hàng bài giảng ứng dụng cơng nghệ
thông tin cho nhà trường làm tư liệu.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Từ kết quả trên cho thấy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
lịch sử đã thể hiện mối quan hệ biện chứng về con đường nhận thức của học
sinh đi từ “trực quan sinh động” đến“tư duy trừu tượng”. Ở đây, nhờ được
quan sát hình ảnh sinh động, được nghe giảng và tư duy lịch sử mà những
khoảng cách về thời gian, không gian của sự kiện dường như đang xích lại gần
với khả năng nhận thức của các em hơn. Về điểm này, nhiều nhà giáo dục lịch
sử đã nhấn mạnh: “Nội dung của các hình ảnh lịch sử, của bức tranh quá khứ
càng phong phú bao nhiêu thì hệ thống khái niệm mà học sinh thu nhận được
17



càng vững chắc bấy nhiêu”. Đồng thời, việc sử dụng những loại đồ dùng trực
quan có liên quan đến phương tiện kĩ thuật hiện đại khơng chỉ góp phần tạo
biểu tượng lịch sử cụ thể cho học sinh, miêu tả bề ngồi sự kiện, mà cịn đi sâu
vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sự kiện.
Để việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới theo yêu cầu phương
hướng đổi mới có hiệu quả, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là
một yêu cầu cấp thiết trong công tác dạy học. Trước đây ta thường quan niệm
thiết bị dạy học phân môn Lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở
nên phong phú, sinh động. Ngày nay ngoài chức năng, tác dụng đó, người ta
cịn đặc biệt nhấn mạnh đó là một trong những nguồn nhận thức quan trọng của
việc truyền bá và nhận thức lịch sử. Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này
sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp soạn
giảng. Học sinh có điều kiện chủ động tích cực tham gia vào quá trình tự nhận
thức lịch sử một cách tốt nhất và có hứng thú học tập phân mơn Lịch sử.
3.2. Kiến nghị:
Đối với Phòng Giáo dục:
- Phòng Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức Hội thi “ Thiết kế bài giảng điện
tử” để kích thích lịng đam mê, sáng tạo của giáo viên.
- Cần sớm đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể với những tiết dạy có sử dụng cơng
nghệ thơng tin.
a. Đối với nhà trường:
- Nâng cao nhận thức về tin học và công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ
giáo viên trong trường để họ thấy được ý nghĩa, tầm quan trọng của nó.
- Tăng cường cơng tác bồi dưỡng kiến thức tin học cho đội ngũ cán bộ giáo
viên.
- Khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử trong các bài dạy và trong
các hoạt động khác.
- Tăng cường cơ sở vật chất trường học, trang bị thêm phòng đa năng và đầu
tư kinh phí mua máy chiếu, máy quay, máy chụp; Kết nối mạng Internet thông suốt
để cán bộ giáo viên cập nhật kiến thức thông tin kịp thời.

b. Đối với giáo viên:
- Cần mạnh dạn, khơng ngại khó, tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao
trình độ tin học. Việc tích cực tự thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử sẽ giúp cho
giáo viên rèn luyện được nhiều kỹ năng và phối hợp tốt các phương pháp dạy học
tích cực khác.
- Khi thiết kế bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu. Nội dung
bài giảng điện tử cần cơ đọng, xúc tích, hình ảnh các mơ phỏng cần sát chủ đề,
khơng lạm dụng cơng nghệ nếu chúng khơng tác động tích cực đến quá trình dạy
học và sự phát triển của học sinh.
18


- Cần kết hợp dạy học truyền thống với dạy học có sử dụng cơng nghệ thơng
tin.
Trên đây là tồn bộ những vấn đề về kinh nghiệm “Ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học phân môn Lịch sử lớp Năm” mà tơi đã tìm hiểu, nghiên
cứu và đúc rút được qua thực tế dạy học. Do khhả năng, điều kiện thời gian còn hạn
hẹp và phạm vi của đề tài nên cịn một số khía cạnh chưa có điều kiện đề cập sâu
rộng hơn. Tơi kính mong được Hội đồng Khoa học các cấp đánh giá và góp ý để đề
tài có tính khả thi cao hơn trong thực tế.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thọ Trường, ngày 20 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, khơng sao chép
nội dung của người khác
(Ký và ghi rõ họ tên)
Trịnh Thị Mai


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 2699/CT-BGDĐT ngày 08/8/2017 của Bộ trưởng Bộ GDĐT về
nhiệm vụ chủ yếu năm học 2017 - 2018 của nghành giáo dục.
2. Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày 15/9/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh
Hóa về nhiệm vụ chủ yếu của Nghành giáo dục và đào tạo Thamh Hóa năm học
2017 - 2018.
3. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 5.
4. Sách giáo viên Lịch sử lớp 5.
5. Tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử ( tài liệu tham khảo)
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
6. "Phương pháp dạy học Lịch sử" - Phan Ngọc Liên. Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm Hà Nội 2002.
7. Hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử - Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
8. Cuốn " Khai thác kênh hình trong SGK Lịch sử" Trịnh Đình Tùng - NXB
Giáo dục 2007.
9. Cuốn "Tư liệu Lịch sử 9". Nguyễn Quốc Hùng - Bùi Tuyết Hương - Nguyễn
Hoàn Thái. Nhà xuất bản Giáo dục 2007
10. Tạp chí, tạp san giáo dục.
19


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT,
CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Mai
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường Tiểu học Thọ Trường, xã Thọ
Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
TT


Tên đề tài SKKN

1

Một việc làm nhỏ trong dạy tập
làm văn nói lớp 4; 5
Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải
các bài toán về tỉ số
Giúp học sinh lớp 5 giải các bài
Tốn có nội dung hình học
Một số biện pháp bồi dưỡng
học sinh giỏi phân môn Tập
làm văn
Một số biện pháp giáo dục đạo

2
3
4
5

Cấp đánh
giá xếp loại
Phòng
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT

Phòng

Kết quả
đánh giá
xếp loại
C

Năm học
đánh giá
xếp loại
1999 - 2000

C

2000 - 2001

C

2007 - 2008

C

2009 - 2010

B

2013 - 2014
20



6
7

dức cho học sinh lớp 5 đạt hiệu
quả.
Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy - học giải bài toán có
lời văn lớp Ba
Một số kinh nghiệm về Ứng
dụng cơng nghệ thông tin
trong dạy - học phân môn
Lịch sử lớp Năm

GD&ĐT
Phòng
GD&ĐT

C

2015 - 2016

Phòng
GD&ĐT

B

2017 - 2018

Thọ Trường, ngày 22 tháng 5 năm 2018
Người lập:

Trịnh Thị Mai

21



×