Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

bài tập học kì thương mại 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.14 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................2
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG............................................................2
1. Khái niệm về trọng tài thương mại..................................................................2
2. Phương pháp giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại..3
2.1

- Ưu điểm...................................................................................................3

2.2

- Nhược điểm:...........................................................................................3

3. Khái quát về Tòa án và sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với
hoạt động trọng tài thương mại..............................................................................4
3.1

- Tòa án......................................................................................................4

3.2 - Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài
thương mại..........................................................................................................5
II. BA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI..................................................6
1. Tòa án chỉ định, thay đổi trọng tài viên...........................................................7
2. Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.........................9
3. Tòa án quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài..........................11
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI................................................................................................13
1. Về chỉ định, thay đổi trọng tài viên................................................................13


2. Về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời................................................14
3. Về huỷ quyết định trọng tài............................................................................14
VI. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA
TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI........................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................18

1


LỜI MỞ ĐẦU
Tranh chấp thương mại là sự xung đột lợi ích của các bên trong quan hệ
thương mại, việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bằng nhiều biện pháp
khác nhau, đó có thể là thương lượng; hòa giải; giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài thương mại hoắc cũng có thể được tiến hành tại Tòa án. Mỗi phương
thức đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài thương mại là việc giải quyết tranh chấp có nhiều tác động tích
cực đối với việc giải quyết xung đột lợi ích của các bên. Tuy nhiên phương thức
giải quyết này cũng có nhiều hạn chế nhất định trong việc áp dụng cũng như tổ
chức thực hiện. Vì vậy pháp luật quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt
động của trọng tài thương mại. Vậy Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định
về vấn đề này như thế nào? Sự hỗ trợ của Tòa án về những vấn đề gì?
Trong phạm vi bài tập của mình, em xin “Phân tích ba quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của
trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp dụng các quy định đó”.
NỘI DUNG
I.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.


Khái niệm về trọng tài thương mại

Trọng tài là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại, đây là phương thức thông qua một thiết chế tài phán do các
bên thỏa thuận với nhiều ưu việt, hạn chế được những khó khăn khi giải quyết
tranh chấp tại Tòa án công của nhà nước trong các tranh chấp thương mại. Dựa
trên nguyên tắc tôn trọng tự do ý chí của các bên, phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài ngày càn được sử dụng phổ biến trong các quan hệ thương mại
không chỉ ở phạm vi quốc gia mà ở cả phạm vi quốc tế. Trọng tài phi chính phủ
được hiểu là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của các trọng tài
viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra
một phán quyết trên cơ sở sự tồn tại của các bên tranh chấp và có hiệu lục bắt buộc
2


đối với các bên. Trọng tài là một thiết chế dân chủ trong giải quyết tranh chấp
thương mại. Theo quy định của Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được
tiến hành theo quy định của Luật này (khoản 1 Điều 3). Trọng tài không có thẩm
quyền đương nhiên mà chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi mà các bên có
quyền lợi liên quan chỉ định, thẩm quyền của trọng tài được xác lập trên cơ sở của
thỏa thuận trọng tài.
2.
Phương pháp giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại
2.1

- Ưu điểm


Thứ nhất, thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, các bên có thể chủ động
về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không trải qua nhiều cấp xét xử như ở
toà án, cho nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp.
Thứ hai, khả năng chỉ định trọng tài viên thành lập Hội đồng trọng tài giải
quyết vụ việc giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm,
am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp
nhanh chóng, chính xác.
Thứ ba, nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai, phần nào giúp các bên
giữ được uy tín trên thương trường. Đây được coi là ưu điểm được các bên tranh
chấp ưa chộng nhất.
Thứ tư, các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài,
kiểm soát được việc cung cấp chứng cứ của mình và điều này giúp các bên giữ
được bí quyết kinh doanh.
Thứ năm, trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên,
không nhân danh quyền lực tự pháp của nhà nước, nên rất phù hợp để giải quyết
các tranh chấp có nhân tố nước ngoài.
2.2 - Nhược điểm:
- Đầu tiên, khuỵết điểm được phát sinh do tính chất nhanh chóng của cách
thức giải quyết vụ việc, trọng tài tuyên án chỉ sau một cấp xét xử duy nhất, nên đôi
3


khi các quyết định của trọng tài là không chính xác, gây thiệt hại đối với doanh
nghiệp.
- Trong thời gian trước đây, khi chưa có luật trọng tài thương mại 2010 thì
tính cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài không cao vì trọng tài không đại
diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước.
- Việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức
tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh
nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của

trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi
trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác.
- Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài quá lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng chi
trả.
- Khi không được thoả thuận sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết
tranh chấp kinh doanh trong hợp đồng thì khi xảy ra tranh chấp, trọng tài không có
thẩm quyền giải quyết ngay cả khi doanh nghiệp có ý định đó.
3.
Khái quát về Tòa án và sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án
đối với hoạt động trọng tài thương mại
3.1

– Tòa án

Tòa án là hệ thống cơ quan có chức năng đặc thù trong bất kỳ bộ máy nhà
nước nào. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ, Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước duy
nhất được thực hiện chức năng xét xử và ra các phán quyết buộc các bên thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Theo Điều 12 Hiến pháp 1992: “Tòa án nhân
dân tối cao, các Tòa án quân sự và tòa án nhân dân địa phương, và các tòa án
khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”.
Tuy nhiên, không phải tất cả các Tóa án được thành lập trên lãnh thổ Việt
Nam đều tham gia hoạt động hỗ trợ trọng tài, mà chỉ có Tòa án Kinh tế - Tòa án
chuyên trách giải quyết các tranh chấp về thương mại mới tham gia hỗ trợ hoạt
4


động của trọng tại. Bởi vì, xuất phát từ tính chất của tranh chấp được trọng tài giải
quyết là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà các bên tranh chấp là

cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh.
Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhưng
nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng như: sơ thẩm những vụ án kinh tế mà bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án dưới cấp bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; giải quyết việc phán sản theo quy
định của pháp luật. Như vậy căn cứ vào Luật tổ chức Tòa án nhân dân, tòa kinh tế
không có chức năng hỗ trợ hoạt động trọng tài, mà chỉ quy điịnh chức năng xét xử
các tranh chấp và giải quyết phá sản. Tuy nhiên căn cứ vào Bộ luật tố tụng dân sự
2004 thì Tòa kinh tế lại có thẩm quyền giải quyết: Yêu cầu liên quan đến trọng tài
thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về
trọng tài thương mại; yêu cầu công nhân và cho thi hành tại Việt Nam quyết định
kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài.
3.2 - Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động
trọng tài thương mại
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: trọng tài là cơ quan tài phán
phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên tranh
chấp giao phó, ủy nhiệm. Phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà
nước, không đại diện cho ý chí nhà nước mà đại diện cho ý chí các bên tranh chấp.
Vì vậy, trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài gặp rất nhiều khó khăn,
những khó khăn này vượt khỏi sự kiểm soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ
của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác. Trong quá trình trọng tài thụ lý vụ kiện,
có trường hợp việc giải quyết trọng tài không thể tiến hành, ví dụ: không chọn
được trọng tài viên, khi xem xét thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài…
Nếu không có sự trợ giúp của Tòa án , vụ tranh chấp khó có thể được giải quyết
bằng trọng tài, bởi vì các bên đã không nhất trí trong quá trình kiện tụng. Vì vậy sự
hỗ trợ của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tránh bế tắc cho hoạt động trọng
tài, để trọng tài có thể giải quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng giao
phó.
5



Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng tài:
Nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản lý
hoạt động của cá nhân, tổ chức xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà nước thông qua
việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã thể hiện sự quản lý
của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý cho
hoạt động của trọng tài.
Thứ ba, sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài đã đảm bảo tính
hiệu quả của hoạt động trọng tài. Trọng tài thương mại có rất nhiều ưu điểm đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho ác bên thể hiện tối đa ý chí của mình trong quá trình
giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên cùng với khiếm khuyết vốn có nhiều khi hoạt
động trọng tài không đảm bảo tính hiệu quả, không bảo về tốt quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên. Với việc Tòa án hỗ trợ trọng tài trong việc áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, Tòa án hủy quyết định của trọng tài nếu quyết định của trọng tài
rơi vào những trường hợp pháp luật quy định.
II.
BA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA
ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại, Pháp lệnh trọng
tài thương mại 2003 trước đây và hiện này là Luật trọng tài thương mai 2010 đã có
nhiều quy định về sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Trọng tài thương mai hoạt động có hiệu quả tốt sẽ giảm bớt gánh nặng cho tòa án
trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của các nhà kinh
doanh trong việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp thương mại. Sự
hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài được thể hiện ở những vấn đề sau:
-

Tòa án hỗ trợ thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc;

-


Tòa án có thể quyết định thay đổi Trọng tài viên;

-

Tòa án xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Hội đồng trọng tài;

-

Tòa án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ có liên quan đến vụ tranh
chấp;
6


-

Tòa án quyết định triệu tập người làm chứng;

-

Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp, tạm thời;

-

Tòa án đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc;

-

Tòa án quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài;


Trong phạm vi bài tập của mình, em xn trình bày về sự hỗ trợ của Toàn án
đối với trọng tài ở ba vấn đề sau:
1.

Tòa án chỉ định, thay đổi trọng tài viên

Trong tố tụng, trọng tài vụ việc hay thường trực, việc thành lập hội đồng
trọng tài để giải quyết vụ tranh chấp hoàn toàn là quyền của các bên tranh chấp.
Bên nguyên đơn và bên bị đơn có quyền lựa chọn hoặc thành lập hội đồng trọng tài
chỉ có một trọng tài viên duy nhất để giải quyết tranh chấp cho mình. Tuy nhiên
đối với hình thức trọng tài vụ việc, nếu bị đơn không chọn được trọng tài viên hoặc
các bị đơn không chọn được trọng tài viên hoặc hai trọng tài viên được chọn hay
chỉ định không chọn được trọng tài viên thứ ba hoặc các bên đương sự không chọn
được trọng tài viên duy nhất thì có quyền yêu cầu Tòa án nơi cư trú của bị đơn nếu
bị đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của bị đơn nếu bị đơn là tổ chức (Điểm a,
Khoản 2 Điều7, Luật trọng tài thương mại 2010) lựa chọn. Hơn nữa pháp luật cũng
quy định về những trường hợp mà tòa án chỉ định trọng tài viên trong các trường
hợp cụ thể, vấn đề này được quy định tại Điều 41 Luật trọng tài thương mại năm
2010. Cũng theo quy định tại khoản 5 Điều 41 thì: “trong thời hạn 7 ngày kể từ
ngày nhận được yêu cầu của các bên quy định tại các khoản 1,2,3 và 4 của Điều
này, chánh án Tòa án có thẩm quyền phải phân công một thẩm phán chỉ định
trọng tài viên và thông báo cho các bên”.
Quy định này nhằm tránh bế tắc trong tố tụng trọng tài, đồng thời đảm bảo
vụ tranh chấp trọng tài được giải quyết. Bởi vì, vụ tranh chấp đã được các bên thỏa
thuận giải quyết theo thủ tục trọng tài, Tòa án không thụ lý giải quyết. Trong
trường hợp này, nếu vì lý do không thành lập được hội đồng trọng tài hoặc không
chọn được trọng tài viên duy nhất mà tranh chấp đó không được trọng tài giải

7



quyết thì cũng sẽ không được giải quyết tại Tòa án. Vì thế quyền lợi của các bên
tranh chấp sẽ không được đảm bảo, đặc biệt là bên có quyền và lợi ích bị xâm hại.
Tòa án chỉ có thẩm quyền thay đổi Trọng tài viên trong trường hợp vụ tranh
chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết. Tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM có
quy định: “Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc
thay đổi Trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài quyết
định. Trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không quyết
định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải
quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của
một hoặc các Trọng tài viên nói trên, của một hoặc các bên tranh chấp, Chánh án
Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi
Trọng tài viên”. Theo đó, nếu các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài không
quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối
giải quyết tranh chấp thì Tòa án sẽ có thẩm quyền về việc thay đổi Trọng tài viên.
Theo quy định này, nếu nhận được yêu cầu của ít nhất một Trọng tài viên, của một
hoặc các bên tranh chấp, Tòa án cũng có thể phân công một Thẩm phán quyết định
về việc thay đổi Trọng tài viên. Trong khi đó, Pháp lệnh TTTM 2003 quy định chủ
thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết là nguyên đơn, điều này đã hạn chế quyền
của các Trọng tài viên và bên bị đơn trong việc yêu cầu Tòa án thay đổi Trọng tài
viên. Nói cách khác, theo Pháp lệnh TTTM 2003, nếu không có yêu cầu của
nguyên đơn thì không phát sinh thẩm quyền của Tòa án trong việc thay đổi Trọng
tài viên. Có thể thấy, Luật TTTM 2010 đã khắc phục được hạn chế này của Pháp
lệnh TTTM 2003, điều này đảm bảo sự công bằng và quyền lợi chính đáng của các
bên tranh chấp.
Bên cạnh đó, Luật TTTM 2010 còn có quy định tại khoản 4 Điều 43 đối với
trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải quyết
tranh chấp: “Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng
tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả

kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết
tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế;
8


nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. Theo
đó, Tòa án cũng có thể hỗ trợ trong trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không
thể tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan.
Có thể nói, việc Tòa án thực hiện sự hỗ trợ của mình đối với hoạt động của
trọng tài thương mại thông qua việc chỉ định và thay đổi trọng tài viên thể hiện sự
tham gia của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại, chính việc chỉ
định và thay đổi trọng tài viên trong những trường hợp nhất định bằng quyền lực
nhà nước, Tòa án có thẩm quyền chỉ định và thay đổi trọng tài viên trong trường
hợp các bên không thỏa thuận được, và quyết định chỉ định hoặc thay đổi trọng tài
viên của Tòa án có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể.
2.

Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời

Trong nền kinh tế thị trường, các tranh chấp về kinh doanh đang diễn ra với
chiều hướng gia tăng, nội dung tranh chấp phức tạp, mức độ tranh chấp gay gắt đòi
hỏi phải được giải quyết kịp thời, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các đương sự; đồng
thời đây cũng là trách nhiệm của các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp về kinh
doanh thương mại. Theo quy định của Luật TTTM 2010, các bên có quyền yêu cầu
Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, tùy theo
sự thỏa thuận giữa các bên. Khoản 1 Điều 49 Luật TTTM 2010 quy định như sau:
“Theo yêu cầu của một trong các bên, Hội đồng trọng tài có thể áp dụng một hoặc
một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên tranh chấp”. Theo đó, Hội
đồng trọng tài có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc

các bên đương sự yêu cầu. Đây là một điểm mới của Luật TTTM 2010, bởi vì, theo
Pháp lệnh TTTM 2003, chỉ Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Quy định mới này hoàn toàn hợp lý, bởi vì, Hội đồng trọng tài là cơ
quan giải quyết tranh chấp, hơn ai hết, họ là những người hiểu rõ nhất nội dung vụ
việc, cũng như mức độ, tính cần thiết của các biện pháp cần áp dụng. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng Hội đồng trọng tài chỉ có quyền ra quyết định áp dụng một số biện
pháp khẩn cấp tạm thời được liệt kê tại Điều 49 của Luật TTTM và Hội đồng trọng
tài chỉ có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi Hội đồng
9


trọng tài đã thành lập. Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật TTTM 2010, những
biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài bao gồm:
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
- Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành
vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng
trọng tài;
- Kê biên tài sản đang tranh chấp;
- Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một
hoặc các bên tranh chấp;
- Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên;
- Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
Các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án thực
hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Luật TTTM: “Sau khi nộp đơn khởi kiện,
nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị
xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu áp
dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Các biện pháp khẩn cấp tạm
thời mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện được quy định tại Điều 102 Bộ Luật tố
tụng dân sự. Vì vậy, khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần
lưu ý để gửi đơn yêu cầu tới đúng cơ quan có thẩm quyền. Luật TTTM đã dự liệu

và phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa Hội
đồng trọng tài và Tòa án nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn
đảm bảo nguyên tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tại khoản 3 Điều 49 Luật TTTM có quy định: “Trong quá trình giải quyết
tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số
biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó lại có đơn
yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng
trọng tài phải từ chối” và khoản 5 Điều 53 Luật này lại có quy định: “Trong quá
trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài
10


áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu
cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu Hội
đồng trọng tài đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ
trường hợp những nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài. Nếu
Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối.
Do đó, với quy định tại khoản 5 Điều 53, Luật TTTM đã nâng cao vai trò của Hội
đồng trọng tài trong việc áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Đối với hoạt động này, Tòa án đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các bên
đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp
khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.
3.

Tòa án quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài

Khoản 1 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: “Tòa án xem xét

việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”. Quy định này
nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tùy tiện của Trọng tài viên,
pháp luật quy định sau khi vụ tranh chấp được giải quyết bởi Trọng tài, nếu một
bên không đồng ý sẽ có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét việc hủy
quyết định đó. Quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Trọng tài thương mại 2010 như
sau: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một
bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết
thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này, thì
có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài”.
Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của các bên tranh chấp chỉ phát sinh nếu
một bên có đủ căn cứ để chứng mình Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc
một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy. Đây là một điểm khác
biệt của Luật Trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003. Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, một bên có quyền gửi đơn lên
Tòa án yêu cầu hủy quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng
tài”. Các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro
11


và vô hình chung đã khuyến khích các bên làm đơn yêu cầu hủy quyết định trọng
tài với nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là để kéo dài thời hạn thì hành quyết
định trọng tài đẻ kịp thời tẩu tán tài sản. Quy định của Luật Trọng tài thương mại
đã khắc phục được những hạn chế này của Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Khi có yêu cầu của một bên tranh chấp, Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã ra
phán quyết có thẩm quyền xem xét để hủy phán quyết trọng tài, nếu phán quyết
trọng tài thuộc các trường hợp bị hủy theo Điều 68 Luật này. Theo khoản 2 Điều
68, phán quyết trọng tài bị hủy trong các trường hợp sau:
- Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
- Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp
với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;

- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường
hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng
tài thì nội dung đó bị huỷ;
- Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra
phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán
quyết trọng tài;
- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày làm việc, kể từ ngày thụ ký, Chánh án
Tòa án chỉ định một Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm phán, trong đó có
một Thẩm phán làm chủ tọa theo sự phân công của Chánh án Tòa án. Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày được chỉ định, Hội đồng xét đơn yêu cầu phải mở phiên
họp để để xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng
xét hơn yêu cầu căn cứ vào các quy định tại Điều 68 của Luật TTTM 20110 và các
tài liệu kèm theo để xem xét, quyết định. Hội đồng xét đơn yêu cầu có quyền ra
quyết định hủy hoặc không hủy phán quyết trọng tài.

12


Khi giải quyết Tòa án không xét xử lại việc tranh chấp bởi Tòa án không
phải là cấp xét xử thứ hai của Trọng tài đồng thời cũng không có quyền kết luận
đúng sai về nội dung phán quyết của Trọng tài đối với vấn đề xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia tranh chấp mà chỉ có quyền xem xét căn cứ để ra
quyết định hủy bỏ hoặc giữ nguyên quyết định trọng tài. Theo khoản 8 Điều 71
Luật TTTM, trường hợp quyết định trọng tài bị hủy bỏ thì có nghĩa tranh chấp
chưa được giải quyết và các bên có thể thỏa thuận lại để đưa tranh chấp đó ra giải
quyết tại Trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án. Trường hợp Hội
đồng xét đơn yêu cầu không hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết tọng tài được

thi hành.
Bên cạnh đó, Luật Tròng tài thương mại 2010 cũng có quy định cho Hội
đồng trọng tài có thời gian khắc phục sai sót, nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán
quyết trọng tài. Quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật trọng tài thương mại 2010 như
sau: “Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có
thể tạm đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
trong thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc
phục sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ
căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa án
biết về việc khắc phục sai sót tố tụng”. Trọng trường hợp Hội đồng trọng tài không
tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Hội đồng tiếp tục xét đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài.
Những quy định trên đây cảu Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục
được những hạn chế và bổ dung những điểm mới so với Pháp lệnh trọng tài thương
mại 2003. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thực tiễn Việt Nam cũng như
xu hướng chung về sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương mại
trên thế giới.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Về chỉ định, thay đổi trọng tài viên
13


Hệ thống tổ chức các cơ quan trọng tài trên toàn quốc của nước ta còn quá
thưa thớt, cho đến thời điểm hiện nay trên cả nước chỉ mới tổ chức được 8 trung
tâm trọng tài với tổng số trọng tài viên chưa đến 150 trọng tài viên. Đây là một hạn
chế rất lớn làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của phương thức trọng tài. Với
xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, các tranh chấp thương mại được dự
đoán sẽ gia tăng về số lượng, phức tạp về mức độ, nội dung tranh chấp và phạm vi

tranh chấp không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng trên phạm
vi quốc tế. Chính những nhược điểm này làm cho các doanh nghiệp còn e dè và
chưa mạnh dạn lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp cho mình.
2. Về áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Luật Trọng tài thương mại đã xây dựng được chế định hết sức quan trọng và
có ý nghĩa trong tố tụng trọng tài đó là quyền các bên tranh chấp được yêu cầu Toà
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên quy định này vẫn có điểm chưa
hợp lý. Khoản 1 Điều 49 Luật TTTM 2010 quy định như sau: “Theo yêu cầu của
một trong các bên, Hội đồng trọng tài có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời đối với các bên tranh chấp”.
Theo quy định trên, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên
phải chờ đến khi Hội đồng Trọng tài được thành lập. Tuy nhiên, nếu phải chờ đợi
như vậy thì trong một số trường hợp, biện pháp này sẽ không còn ý nghĩa gì nữa.
Do bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính nhanh chóng, khẩn trương,
kịp thời nên trường hợp cần tới các lệnh khẩn cấp, nguyên đơn có thể có một vài
bất lợi về thời gian nếu phải chờ bị đơn chỉ định trọng tài viên và ban thư ký hoàn
tất thủ tục thành lập Hội đồng trọng tài. Thời gian để thành lập một Hội đồng trọng
tài, nếu bị đơn có chiến lược trì hoãn, có thể tốn tới 1-2 tháng. Thời gian ấy đủ dài
để bị đơn, nếu muốn, có thể tẩu tán đáng kể các tài sản tranh chấp.
3. Về huỷ quyết định trọng tài
Trong giai đoạn 2003-2013, số vụ tranh chấp có đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài chiếm 12% thì 34% trong số đó bị hủy. Khi Luật Trọng tài thương mại có
hiệu lực từ ngày 1/1/2011 thì chỉ trong gần 3 năm (2011-2013) đã có tới 36% số
phán quyết trọng tài bị hủy. Nguyên nhân đầu tiên là việc thiếu một Nghị quyết
14


hướng dẫn Luật của TAND Tối cao dù Luật đã có hiệu lực 3 năm. Nguyên nhân
này dẫn đến tình trạng xét xử thiếu thống nhất giữa các tòa án, trong khi các thẩm
phán lại có xu hướng áp dụng tố tụng dân sự khi xem xét đơn yêu cầu hủy bỏ phán

quyết.
Về thời gian giải quyết, có tới gần 100% các vụ án ở trọng tài là không đủ
thời gian, gần 100% trọng tài không nhận được hủy phán quyết của tòa án; việc áp
dụng pháp luật có sự áp dụng khác nhau về cùng một vấn đề giữa hội đồng xét đơn
trong cùng một tòa án và giữa các tòa án; phạm vi hủy còn nặng yếu tố hình thức
trong khi các vấn đề mang tính bản chất thì chưa được thể hiện rõ…
Một trong số những nguyên nhân là do Việt Nam có tình trạng lạm dụng
quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Các lý do hủy quyết định trọng tài thường
ở dạng “trừu tượng” nên nguy cơ một bên yêu cầu tòa án can thiệp để làm chậm
việc thi hành quyết định trọng tài vì trong khi xem xét hủy phán quyết trọng tài thì
phán quyết này không thể được thi hành (khoản 1, Điều 66 Luật Trọng tài thương
mại).
Ngoài ra, Luật Trọng tài thương mại quy định, Tòa án không xét xử lại nội
dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết, Tòa án chỉ xem xét ở góc
độ tố tụng. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp khi giải quyết các đơn yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án đã can thiệp quá sâu vào nội dung giải quyết
của trọng tài.
Với quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại, các căn cứ hủy quyết
định trọng tài được chia thành 3 nhóm chính, gồm các vấn đề liên quan đến thẩm
quyền trọng tài; tố tụng trọng tài và nội dung phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, việc
xác định cụ thể các căn cứ trên thực tiễn khá phức tạp.
Đơn cử, luật quy định phán quyết trọng tài bị hủy nếu các bên không có thỏa
thuận trọng tài. Nhưng nhiều trường hợp, dù đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài, nhưng sau đó đương sự lại viện dẫn nhiều lý do để cho rằng, thỏa
thuận trọng tài không tồn tại. Như trường hợp ký hợp đồng và thỏa thuận qua trung
gian, đến khi có tranh chấp, một bên đương sự cho rằng mình không ký thỏa thuận
lựa chọn trọng tài.
15



Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động trọng tài vẫn còn khiêm tốn,
chưa đáp ứng được nhu cầu giảm tải cho Tòa án, chưa ngang tầm với tình hình
phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đặc biệt, đáng lưu ý là thời gian
qua, việc Tòa án tuyên hủy nhiều quyết định của trọng tài trong nước, quyết định
trọng tài nước ngoài chưa được công nhận cho thi hành đầy đủ tại Việt Nam… đã
làm giảm sút uy tín, hiệu quả của hoạt động trọng tài, nếu nói rộng hơn ra là nó
làm cho môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam kém hấp dẫn hơn.
VI. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỰ HỖ
TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã có nhiều quy định hợp lý và tiến bộ,
khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh TTTM 2003, tạo cơ sở pháp lý chặt
chẽ cho hoạt động thương mại diễn ra một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, để ngày
càng hoàn thiện hơn nữa, theo cá nhân em, Luật TTTM 2010 cần xem xét một số
vấn đề sau:
- Cần quy định về thời hạn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền quyết định thay
đổi Trọng tài viên của trọng tài vụ việc. Theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật
TTTM, các Trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài từ chối giải quyết tranh chấp
hoặc các bên tranh chấp là những chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định thời hạn Tòa án phân công một Thẩm
phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên (là 15 ngày, kể từ ngày có đơn yêu
cầu) mà không có quy định về thời hạn nộp đơn yêu cầu của các chủ thể nói trên.
Điều này, đôi khi làm kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hoặc nếu các chủ thể
có quyền yêu cầu không nộp đơn yêu cầu đến Tòa án thì đương nhiên Tòa án
không có thẩm quyền trong việc thay đổi Trọng tài viên, dẫn đến việc không có
Trọng tài viên thay thế. Theo cá nhân em, nên quy định thời hạn các chủ thể có
quyền yêu cầu gửi đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền, kể từ ngày Trọng tài
viên thông báo bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và
các bên về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình
(khoản 2 Điều 42 Luật TTTM). Điều này nhằm giúp cho việc thay đổi Trọng tài
viên diễn ra nhanh chóng và kịp thời.

16


- Để đối phó với nguy cơ lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
nêu trên, cần có những cơ chế hay chế tài thích hợp. Trong bối cảnh hiện nay, nên
buộc bên “lạm dụng” quyền yêu cầu tòa án bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc
lạm dụng này. Cụ thể, có thể buộc bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ
việc chậm thi hành phán quyết nếu họ lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài. Nếu làm được việc này, sẽ giảm được những yêu cầu thiếu cơ sở và do đó
sẽ tăng được hiệu quả của trọng tài.
Trọng tài các nước trên thế giới hoạt động rất hiệu quả chính là nhờ cơ chế
hỗ trợ tích cực của tòa án trong quá trình tham gia tố tụng trọng tài. Ở Mỹ, tòa án
hầu như tham gia toàn bộ vào quá trình tố tụng trọng tài từ việc xem xét thỏa thuận
trọng tài cho đến lúc Hội đồng trọng tài ra phán quyết…hay ở Trung Quốc, tòa án
cũng tham gia rất tích cực, có hiệu quả vào hoạt động của trọng tài…Chính vì thế,
mà làm cho hoạt động của trọng tài ở các nước diễn ra nhanh chóng, tích cực, giải
quyết nhanh gọn và đáp ứng quyền lợi của các bên.Từ thực tiễn của các nước, thiết
nghĩ Việt Nam chúng ta cũng cần có các quy định cụ thể hơn về sự hỗ trợ của tòa
án đối với hoạt động của trọng tài.Tòa án cần có sự hỗ trợ tích cực hơn nữa trong
quá trình giải quyết tranh chấp của trọng tài, tránh tình trạng chồng chéo thẩm
quyền giữa trọng tài và tòa án, tránh cho quá trình giải quyết tranh chấp bị gián
đoạn, thiếu linh hoạt và không đạt hiệu quả.
KẾT LUẬN
Có thể nói, việc Luật trọng tài thương mại 2010 quy định về sự hỗ trợ của
Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương mại đã góp phần hạn chế được những
nhược điểm của trọng tài thương mại, chính sự hỗ trợ của Tòa án tỏng một số
trường hợp nhất định đã làm cho hoạt động của trọng tài thương mại được thực
hiện nhanh chóng hơn, các phán quyết của trọng tài thương mại được thực hiện
chính xác, hạn chế được các trường hợp oan sai, gây ảnh hưởng đến quyền lợi và
lợi ích của các đương sự. Chính sự tham gia của Tòa án với vị trí, chức năng,

nhiệm vụ của mình đã góp phần khắc phục những hạn chế của phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, giúp cho phương thức này thực sự là
17


phương thức giải quyết tranh chấp thuận lợi, có giá trị pháp lý cao bên cạnh
phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại
tập II, Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.

2.

Luật Trọng tài thương mại năm 2010.

3.
Nguyễn Thị Yến, “Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của
trọng tài thương mại”, Luận văn thạc sỹ luật học, năm 2005.

19




×