Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 8 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.33 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất phát từ tình hình thực tế của các quan hệ hôn nhân và gia đình đồng
thời nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 đã quy định về việc xác định tài sản chung, tài sản riêng. Kế
thừa và phát triển các quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 1959,1986,
những quy định về việc xác định tài sản chung và tài sản riêng trong luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 đã thể hiện được sự phù hợp nhất định đối với điều kiện kinh
tế xã hội của nước ta hiện nay, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của
nhân dân .Tuy nhiên các quy định này vẫn tồn tại những hạn chế, thiếu sót cần phải
hoàn thiện. Chính vì vậy, để làm rõ hơn về vấn đề này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu đề
tài : “ Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng và một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này”
I.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
KHÁI NIỆM CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
Hôn nhân bền vững luôn được xây dựng dựa trên yếu tố tình cảm, sự tự
nguyện, tuy nhiên để đảm bảo những nhu cầu của gia đình, quyền tự chủ và tính
linh hoạt của vợ chồng khi tham gia vào các quan hệ kinh tế xã hội nhất định, giữa
vợ chồng phải có sự xác định về tài sản. Do vậy, chế độ tài sản của vợ, chồng luôn

1


được nhà làm luật quan tâm xây dựng như là một trong các chế định cơ bản, quan
trọng nhất của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Có thể hiểu chế độ tài sản của vợ, chồng là “tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập
tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các


trường hợp và ngyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định.”
Nhà lập pháp dự liệu về chế độ tài sản của vợ, chồng là bởi vì:
- Tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập-tính cộng đồng
của quan hệ hôn nhân.
- Pháp luật có dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở để vợ chồng thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan đến tài sản của vợ chồng trong
suốt thời kỳ hôn nhân.
- Đảm bảo quyền lợi của người thứ ba khi tham gia vào các giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản của vợ chồng.
- Việc quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật là cơ sở pháp lý để các
cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ, chồng với nhau
và giữa vợ chồng với người khác.
Như vậy có thể thấy được chế độ tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình
có vai trò vô cùng quan trọng. Chế độ tài sản của vợ chồng được các nhà làm luật
dự liệu do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập, thể hiện như là
yếu tố khách quan; phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán,
truyền thống văn hoá… để nhà nước quy định trong Luật về chế độ tài sản của vợ
chồng.
II.

XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG, TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ CHỒNG THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000.
II.1. Xác định tài sản chung
II.1.1. Thời điểm phát sinh tài sản chung của vợ chồng.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 khi quy định về tài sản chung của vợ
chồng đã dựa trên nguyên tắc: “Tài sản chung chỉ hình thành từ khi có sự kiện kết
hôn và sẽ không còn khi hôn nhân chấm dứt”. Theo khoản 7 Điều 8 Luật hôn nhân
2



và gia đình năm 2000, thời kỳ hôn nhân được hiểu là “ khoảng thời gian tồn tại
quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”.
Thời kỳ hôn nhân sẽ chấm dứt nếu có sự kiện chết của một bên vợ hoặc
chồng (căn cứ vào ngày khai tử hoặc ngày xảy ra sự kiện chết nếu không xác định
được ngày khai tử) hoặc ngày bản án, quyết định của Toà án về chấm dứt hôn nhân
có hiệu lực pháp luật. Như vậy thời gian vợ chồng sống ly thân do có mâu thuẫn
hoặc thời gian chờ đợi giải quyết ly hôn, kể cả thời gian bản án hoặc quyết định của
toà án về chấm dứt hôn nhân chưa có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân vẫn
tồn tại trước pháp luật. Những tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 phát sinh trong thời gian này về nguyên tắc được xác
định là tài sản chung của vợ chồng.
II.1.2. Nguồn gốc tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng là vật, lợi ích vật chất khác thuộc quyền sở hữu
chung hợp nhất của vợ chồng do vợ chồng cùng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt vì
nhu cầu chung của gia đình. Tài sản chung chỉ hình thành từ khi có sự kiện kết hôn
và sẽ không còn khi hôn nhân chấm dứt.
Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về tài sản chung của
vợ chồng như sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài
sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết
hôn,được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

3



2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải
ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.”
Tài sản chung của vợ, chồng được xác lập trong thời kỳ hôn nhân được hiểu
là “ khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến
ngày chấm dứt hôn nhân”. Đây là căn cứ quan trọng đầu tiên để xác định tài sản
chung của vợ chồng
Như vậy Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã xác định một cách cụ thể
nguồn gốc các tài sản được coi là tài sản chung của vợ, chồng như sau:
• Tài sản chung của vợ, chồng được xác lập dựa vào nguồn gốc tài sản bao gồm
các tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.
Đây là loại tài sản phổ biến trong khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi
kết hôn quan hệ vợ chồng được xác lập, vợ chồng cùng chung sức, đồng lòng trong
việc tạo dựng tài sản để nuôi sống gia đình, bảo đảm các nhu cầu của đời sống
chung, đáp ưng các nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, nuôi dưỡng và giáo dục các con.
Hành vi “ tạo ra” tài sản của vợ, chồng được hiểu là vợ chồng dựa theo công việc,
chuyên môn của mình đã trực tiếp tạo ra tài sản đó bằng chính sức lao động của
mình như: xây dựng nhà ở, đóng bàn ghế, giường tủ… cũng có thể vợ chồng sử
dụng tiền bạc của mình để thuê người khác trực tiếp tạo ra những tài sản đó thông
qua các hợp đồng cụ thể.
• Tài sản chung của vợ, chồng bao gồm các thu nhập hợp pháp của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân.
Theo từ điển Tiếng Việt thì thu nhập được hiểu là “ nhận được tiền bạc, của
cải vật chất từ một hoạt động nào đó”. Như vậy, thu nhập của vợ, chồng thuộc khối
tài sản chung là những lợi ích vật chất mà vợ, chồng có được do tham gia lao động ,
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thu nhập của vợ, chồng gồm nhiều loại, nhưng thu
4



nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh là thu nhập ổn định, cơ bản và
chủ yếu nhất. Trong đời sống hiện nay, thu nhập chính của vợ chồng thường là tiền
lương, tiền công lao động, những thu nhập và tài sản do vợ chồng làm kinh tế gia
đình hoặc lợi nhuận qua sản xuất, kinh doanh.
Ngoài ra, khoản 1 điều 27 luật hôn nhân và gia đình còn quy định tài sản
chung của vợ, chồng còn bao gồm các thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Cụ thể hoá quy định này, tại mục 3, điểm a Nghị quyết số
2/2000/ NQ-HDTP ngày 23/12/200 đã hướng dẫn: những thu nhập hợp pháp khác
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng
xổ số mà vợ chồng có được hoặc những tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở
hữu theo quy định của bộ Luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật không xác định được
ai là chủ sở hữu, đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy, đối với vật
do người khác đánh rơi, bị bỏ quên ( điều 241); đối với gia súc, gia cầm bị thất
lạc… trong thời kỳ hôn nhân.
• Tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản được tặng cho chung và
thừa kế chung.
Đây là các tài sản mà được xác lập là tài sản chung của vợ chồng dựa trên
quyền định đoạt của chủ sở hữu và pháp luật thừa kế quy định cụ thể tại điều
245,631,686 Bộ luật dân sự năm 2005.
Đối với trường hợp vợ chồng được tặng cho chung tài sản hoặc được thừa kế
chung thuộc khối tài sản chung của vợ chồng thì trong hợp đồng tặng cho chung
hay trong di chúc của người chết, chủ sở hữu đã tuyên bố tặng cho chung hay để lại
thừa kế chung cho hai vợ chồng mà không phân biệt tỉ lệ phần tài sản cho mỗi bên
vợ chồng được hưởng. Nếu trong hợp đồng tặng cho chung hay trong di chúc để
lại thừa kế chung cho vợ chồng mà chủ sở hữu tài sản đã xác định phần từ trước
cho mỗi bên thì về nguyên tắc những tài sản này thuộc tài sản riêng của vợ chồng;
chỉ trở thành tài sản chung khi vợ chồng tự nguyện nhập vào khối tài sản chung.
khối tài sản này, chồng bạn phải có chứng cứ chứng minh tài sản này là tài sản


5


• Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có được sau khi kết hôn.
Xuất phát từ tính đặc thù, tầm quan trọng và vị trí đặc biệt của quyền sử dụng
đất trong đời sống gia đình, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy
định riêng, cụ thể để làm rõ chế độ pháp lý về tài sản này. Đây cũng chính là điểm
mới so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986.
Theo quy định tại nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính
phủ thì:
- Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ hay chồng được
nhà nước giao, kể cả giao khoán là tài sản chung của vợ chồng
- Sau khi kết hôn, quyền sử dụng đất mà cả vợ chồng hay chỉ một bên vợ
hoặc chồng được nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng, cũng là tài sản
chung của vợ chồng đối với đất mà vơ chồng nhận thế chấp quyền sử dụng đất của
người khác.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế
riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
• Ngoài ra tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng
thoả thuận là tài sản chung; những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài
sản riêng ( khoản 3 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000)
Điều này có thể hiểu, có những tài sản thuộc về sở hữu riêng của vợ hoặc
chồng tuy nhiên những tài sản đó sẽ là tài sản chung nếu như trong thời kỳ hôn
nhân vợ chồng có thoả thuận coi là tài sản chung của vợ chồng. Quy định này hoàn
toàn phù hợp với điều kiện thực tế bởi vì trong cuộc sống gia đình, nhiều tài sản
riêng của vợ chồng được đưa vào sử dụng chung, phục vụ nhu cầu sinh hoạt chung
của các thành viên trong gia đình. Nếu cả hai bên vợ chồng cùng thoả thuận và
nhập khối tài sản riêng vào tài sản chung thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Mặt

khác, khi quan hệ hôn nhân được xây dựng dựa trên yếu tố tình cảm thì vợ chồng
thường không phân biệt tài sản chung và tài sản riêng, họ đều mong muốn sử dụng
6


các loại tài sản nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc,
bền vững. Tuy nhiên có tranh chấp thường rất khó để chứng minh đâu là tài sản
chung, đâu là tài sản riêng. Do đó, trên nguyên tắc để bảo đảm quyền tự định đoạt
tài sản vợ chồng. Quy định này mang tính mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với xu
hướng phát triển của pháp luật nước ta.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung.
Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung được quy định cụ
thể trong điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Vợ và chông có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu sử
dụng, định đoạt tài sản chung. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn hoặc là nguồn sống
của gia đình thì phải được bàn bạc, thoả thuận. đối với những giao dịch dân sự liên
quan đến tài sản có giá trị nhỏ, hoặc để phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của
gia đình thì chỉ cần một bên vợ hoặc chồng thực hiện và đương nhiên coi là có sự
đồng ý của bên kia. Do đó vợ và chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với
những giao dịch dân sự do một bên thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ
chồng nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
Vợ chồng có thể uỷ quyền cho nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản chung.
2.2. Xác định tài sản riêng
2.2.1. Nguồn gốc tài sản riêng của vợ chồng
Trước đây do điều kiện kinh tế xã hội còn chưa phát triển, tài sản riêng của
các gia đình, công dân cũng còn hạn chế về cả số lượng và giá trị, khi kết hôn
thường cả hai bên nam nữ không có nhiều tài sản, thậm chí là chỉ có 2 bàn tay trắng
do đó để phù hợp với thực tiễn, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “ vợ

và chồng đều có quyền sở hữu, sử dụng và hưởng thụ ngang nhau đối với tài sản
có trước và sau khi cưới” ( Điều 15). Vì vậy, theo luật hôn nhân này, tài sản của vợ
chồng chỉ bao gồm tài sản chung hợp nhất mà không tồn tại tài sản riêng. Tài sản
chung được xác định dựa trên cơ sở toàn bộ tài sản tài sản vợ, chồng có trước và
trong hôn nhân kể cả những tài sản những tài sản được thừa kế, tặng cho riêng công
nhận tất cả tài sản của vợ chồng đều là tài sản chung . Đến Luật hôn nhân và gia
đình năm 1986, do được ban hành vào thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mới cũng như
khi tâm lý, ý thức của nhân dân vẫn còn quen thuộc với chế độ tài sản chung cho
7


nên khi dự liệu về tài sản riêng của vợ, chồng Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
đã quy định rất mềm dẻo, tránh sự mất ổn định về tài sản trong gia đình. Đó cũng là
yêu cầu của công tác lập pháp và thực hiện pháp luật hôn nhân năm 1986. Theo
điều 16 luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì : “ đối với tài sản mà vợ, chồng có
trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài
sản chung của vợ chồng”. Quy định này có tính chất mở, tuỳ nghi cho phép vợ
chồng lựa chọn trong việc nhập hay không nhập vào khối tài sản chung của vợ
chồng.
Kế thừa và phát triển các quy định về tài sản riêng của vợ chồng theo luật
hôn nhân và gia đình năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định
chế độ sở hữu đối với tài sản riêng của vợ chồng cụ thể, rõ ràng hơn tạo được cơ sở
pháp lý thống nhất trong thực tế áp dụng.
Theo điều Điều 32 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản
được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của
Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.

2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung.”
Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình đã khẳng định vợ chồng có quyền có tài
sản riêng và xác định rõ nguồn gốc phát sinh tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ
chồng được xác định cụ thể như sau:
• Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm tài sản của mỗi bên vợ chồng có trước khi

kết hôn.

8


Trước khi kết hôn, hai bên nam nữ chưa phải là vợ chồng của nhau trước
pháp luật do vậy những tài sản của họ không được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân,
không chịu bất kỳ sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi
ích chung của gia đình. Tài sản mà vợ chồng có được trước khi kết hôn có thể là do
chính công sức của vợ chồng tạo ra theo tính chất nghề nghiệp, công việc của mình;
cũng có thể tài sản đó do người khác chuyển dịch quyền sở hữu của mình cho vợ,
chồng thông qua các giao dịch dân sự. Vì thế, trước khi kết hôn, với tư cách cá
nhân theo quy định của pháp luật dân sự mà vợ, chồng có thể xác lập quyền sở hữu
của mình đối với những tài sản đó dựa trên các căn cứ được quy định tại điều 233
đến 247 bộ luật Dân sự năm 2005.


Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân.
Xét về nguồn gốc tài sản, những tài sản mà vợ chồng được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc quyền sở hữu riêng của vợ
chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định những tài sản này thuộc khối
tài sản riêng của vợ chồng nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của các chủ sở hữu tài

sản, theo quy định của luật dân sự, chuyển dịch tài sản cho mỗi bên vợ chồng được
hưởng. Đây là một quy định phù hợp với thực tiễn bởi vì đối với trường hợp thừa
kế, tặng cho riêng ta có thể thấy được tâm lý dân tộc, cha mẹ,người thân, họ hàng
phần lớn chỉ cho riêng, thừa kế riêng nhưng nếu xử lý theo luật 1959 thành của
chung hết là trái với nguyện vọng, tâm tư chính đáng của người tặng cho hoặc để
lại tài sản thừa kế, xâm hại đến lợi ích chính đáng của người nhận tài sản.
Trong thực tế những tài sản mà vợ chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng
trong thời kỳ hôn nhân thường do những người thân thuộc bạn bè của vợ, chồng
cho mỗi bên vợ chồng được hưởng tài sản đó. Có thể những tài sản đó do cha mẹ
tặng cho riêng con trong ngày cưới, cha mẹ khi chết để lại di chúc, chỉ cho con
mình là người chồng hoặc vợ được hưởng khối di sản đó. Đối với trường hợp vợ,
chồng cùng hàng thừa kế theo pháp luật, phần di sản mà mỗi bên vợ chồng được
hưởng theo suất thừa kế là bằng nhau, về nguyên tắc là tài sản riêng, chỉ là tài sản
9


chung trong trường hợp vợ chồng tự nguyện nhập vào tài sản chung hoặc vợ chồng
thoả thuận là tài sản chung.
• Tài sản riêng của vợ chồng gồm đồ dùng, tư trang cá nhân.
Đây là quy định mới của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 khi xác định
đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ chồng . Quy định này là phù hợp và
cần thiết với cuộc sống hàng ngày bởi mọi cá nhân cũng như vợ chồng trong cuộc
sống hàng ngày, công việc theo tính chất nghề nghiệp, chuyên môn của mình đều
rất cần đến những đồ dùng tư trang cá nhân phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày cũng như công việc của họ cho nên việc quy định đồ dùng, tư trang cá nhân là
tài sản riêng của vợ chồng là nhằm đảm bảo quyền tự do cá nhân cũng như cuộc
sống riêng tư của vợ, chồng.
Như vậy, Luật quy định các đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ,
chồng nhằm đảm bảo quyền tự do cá nhân và cuộc sống riêng tư của vợ, chồng.
Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn áp dụng và thi hành luật của các cơ quan có

thẩm quyền chưa giải thích và quy định rõ về vấn đề này.
• Tài sản riêng của vợ chồng gồm những tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một trường
hợp đặc biệt mới được ghi nhận từ Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 . Khác với
luật hôn nhân và gia đình năm 1986 chưa dự liệu về hâu quả pháp lý và quyền,
nghĩa vụ của vợ chồng đối với những tài sản, sau khi đã chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, Điều 30 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định về hậu
quả chia tài sản chung của vợ chồng. Trên cơ sở đó, Điều 8 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 đã ghi nhận: Sau khi chia tài sản chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, những tài sản mà vợ chồng đã được chia; hoa lợi, lợi tức
thu được từ tài sản đó; thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và
những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng sau khi đã chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân, đều thuộc tài sản riêng của vợ, chồng.
• Tài sản riêng của vợ chồng còn có thể bao gồm những tài sản mà vợ chồng
thoả thuận là tài sản riêng của một bên.

10


Cuộc sống chung của vợ chồng tất nhiên sẽ dẫn tới việc sử dụng các tài sản chung
đáp ứng nhu cầu chung của gia đình. Lẽ thường khi vợ chồng chung sống hoà
thuận, hạnh phúc, họ không phân biệt rạch ròi các loại tài sản chung và riêng đó.
Sau nhiều năm tháng cùng chung sống hoà thuận, hạnh phúc, họ không thể phân
biệt được rạch ròi đâu là tài sản chung đâu là tài sản riêng. . sau nhiều năm tháng
chung sống và sử dụng các tài sản trong gia đình, khi vợ chồng mâu thuẫn và ly
hôn, cần phải chia khối tài sản chung của họ, sẽ có một khối tài sản khó xác định
được là tài sản chung hay tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
Mặt khác, theo luật định, vợ chồng có tài sản riêng có quyền nhập hoặc không nhập
vào khối tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy, nhằm tạo điều kiện thuận lợi khi chia

tài sản giữa vợ chồng, cũng như bảo đảm quyền tự định đoạt đối với tài sản thuộc
sở hữu vợ chồng, pháp luật quy định trên nguyên tắc việc chia tài sản khi ly hôn sẽ
do vợ chồng tự thoả thuận với nhau, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu toà án
giải quyết ( khoản 1 điều 29, khoản 1 điều 95 luật hôn nhân và gia đình). Cho nên
vợ chồng có thể thoả thuận với nhau về một tài sản cụ thể nào đó là tài sản riêng
của một bên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án sau này; bên có tài sản
riêng theo thoả thuận có quyền lấy lại tài sản đó vì vợ chồng đã thoả thuận tài sản
đó thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng.
Điều 33, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã quy định về vấn đề
này. Với tư cách là chủ sở hữu tài sản, vợ chồng có đầy đủ các quyền của chủ sở
hữu, đó là quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trườn
hợp pháp luật có quy định khác.
Vợ chồng có quyền quản lý tài sản riêng, sử dụng tài sản riêng để đáp ứng
nhu cầu cá nhân. Tuy nhiên, trong thời gian vợ chồng chung sống, họ có thể thoả
thuận cùng sử dụng tài sản riêng của mỗi bên sao cho có thể khai thác được tốt nhất
giá trị sử dụng của tài sản, góp phần đáp ứng lợi ích chung của gia đình. Vì lợi ích
chung của gia đình, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định trong trường
hợp tài sản chung của vợ chồng không đap ứng được đời sống chung của gia đình
11


thì người có tài sản riêng phải có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng của mình để phục
vụ nhu cầu chung của gia đình. Những tài sản đã chi dùng cho gia đình thì người có
tài sản không có quyền đòi lại. về nguyên tắc, vợ, chồng có quyền tự mình định
đoạt tài sản riêng mà không phụ thuộc vaò ý chí của người kia. Tuy nhiên trong
trường hợp tài sản riêng được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức của tài sản
đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì quyền định đoạt của người đó bị hạn chế
theo quy định tại khoản 5 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình.
III.


MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÁC

ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG, TÀI SẢN RIÊNG.
3.1.
Đối với tài sản chung của vợ chồng.
- Theo Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, căn cứ xác lập tài sản chung
của vợ chồng, trước hết dựa vào thời kỳ hôn nhân, những tài sản do vợ chồng tạo
ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Tuy
nhiên, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, trong một số trường hợp cụ
thể, việc xác định “ thời kỳ hôn nhân” chưa được luật dự liệu; các văn bản hướng
dẫn áp dụng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng chưa có đề cập tới các
vấn đề có liên quan đến nguyên tắc xác lập tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân. Do đó Luật hôn nhân và gia đình cần phải có những quy định dự liệu
về vấn đề này để tránh tình trạng có tranh chấp xảy ra và không có căn cứ để giải
quyết.
- Pháp luật cần quy định cụ thể tiêu chuẩn đánh giá lý do là chính đáng hay không
chính đáng khi chia tài sản chung. Có thể nêu ra các lý do là chính đáng như sau:
Vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản chung; vợ chồng có mâu
thuẫn sâu sắc trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung; một bên vợ hoặc
chồng bị coi là vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị tuyên bố mất tích theo quy định tại
Điều 74 và Điều 78 BLDS năm 2005.
- Quy định cụ thể trường hợp vợ chồng yêu cầu Tòa án chia tài sản chung và nguyên
tắc chia tài sản chung tại Tòa án. Pháp luật nên có hướng dẫn cụ thể về trường hợp
vợ chồng không thỏa thuận được về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để
làm cơ sở cho vợ chồng thực hiện cũng như Tòa án khi thụ lý, giải quyết yêu cầu
của vợ chồng. Có thể quy định nguyên tắc chia theo hướng Tòa án căn cứ vào lý
12



do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia.
Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc chia tài sản chung khi
ly hôn.
- Quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đều phải công chứng, chứng thực
hoặc được Tòa án công nhận nhằm kiểm soát hiệu quả thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng và bảo vệ quyền, lợi ích của những người liên quan, pháp luật
nên quy định mọi văn bản thỏa thuận chia tài sản chung đều phải công chứng hoặc
được Tòa án công nhận đồng thời nhà làm luật cũng cần quy định trách nhiệm
thông báo của vợ, chồng đối với người xác lập giao dịch với mình về việc vợ chồng
đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
- Luật cần dự liệu cụ thể về tài sản chung của vợ, chồng được bảo đảm thực hiện các
nghĩa vụ chung của vợ, chồng bao gồm:Các khoản nợ phát sinh nhằm đáp ứng các
nhu cầu thiết yếu của gia đình; các khoản nợ liên quan đến việc tạo lập, quản lý, sử
dụng, định đoạt tài sản chung của vợ, chồng; các khoản nợ liên quan đến tài sản
riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó
là nguồn sống duy nhất của gia đình; các khoản nợ phát sinh có liên quan đến công
việc mà cả hai vợ, chồng cùng thực hiện; các khoản nợ theo thoả thuận của cả hai
vợ chồng.
3.2. Đối với tài sản riêng của vợ chồng.
- Quy định cụ thể về loại tài sản riêng là đồ dùng tư trang cá nhân.
Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình quy định đồ dùng tư trang cá nhân thuộc
tài sản riêng của vợ,chồng. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở thuật ngữ “ đồ dùng tư
trang cá nhân” mà không hướng dẫn cụ thể thì quy định trên có nghĩa quá rộng dẫn
tới nhiều cách hiểu khác nhau. Thứ nhất, luật thừa nhận đồ dùng, tư trang cá nhân
là tài sản riêng của vợ, chồng nhưng không có quy định giới hạn giá trị của các tài
sản này sẽ dẫn đến nhiều trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ,
người chồng bị xâm phạm, nhất là trong trường hợp đồ dùng, tư trang cá nhân đó
chiếm một tỷ trọng lớn trong khối tài sản chung của vợ chồng. Thứ hai, luật không
xem xét tới yếu tố các đồ dùng, tư trang cá nhân hình thành từ nguồn gốc tài sản

chung hay tài sản riêng sẽ không đảm bảo được quyền lợi của các bên. Điều này có
thể dẫn tới trường hợp chuyển hóa tài sản chung thành tài sản riêng của vợ, chồng
khi người vợ, người chồng lợi dụng dùng tài sản chung để mua đồ dùng, tư trang
13


cho bản thân mình. Ngoài ra, Luật HN&GĐ năm 2000 cũng như các văn bản
hướng dẫn thi hành không có bất kỳ quy định nào giải thích, hướng dẫn đồ dùng, tư
trang cá nhân là như thế nào, bao gồm những loại nào? Chính quy định của luật đã
gây lúng túng trong thực tiễn xét xử và gây ra nhiều cách hiểu khác nhau về tài sản
là đồ dùng, tư trang cá nhân. Vì vậy khi xác định là tài sản riêng cần xem xét nguồn
gốc và giá trị của đồ dùng, tư trang cá nhân đó so với giá trị của khối tài sản so với
giá trị của khối tài sản chung và thu nhập của vợ chồng. Nếu giá trị đó khá lớn và
tài sản được sử dụng với mục đích chung của gia đình thì không nên coi đó là tài
sản riêng. Do đó luật cần quy định cụ thể về nguồn gốc tài sản là đồ dùng tư trang
cá nhân bao gồm những gì thuộc tài sản riêng của vợ chồng. cần sớm ban hành văn
bản hướng dẫn những tài sản nào được coi là đồ dùng, tư trang cá nhân. Đồ dùng,
tư trang cá nhân phải là những vật phục vụ nhu cầu tối thiểu, cần thiết cho mỗi
người, mang tính chất riêng tư, phục vụ cho một cá nhân nhất định trong cuộc sống
như: đồ trang sức (nhẫn, dây chuyền, đồng hồ đeo tay…), quần áo, giày dép… và
những tài sản có tính chất tương tự. Quy định hướng dẫn đó cần có sự phân biệt
giữa vật là đồ dùng, tư trang cá nhân và những vật tuy có tính chất là đồ dùng, tư
trang cá nhân nhưng cần xem đó là tài sản tích lũy, đặc biệt là các đồ dùng, tư trang
cá nhân bằng kim loại quý, đá quý, kim cương… Những đồ dùng, tư trang cá nhân
đó ngoài chức năng là những trang sức đẹp phục vụ nhu cầu cá nhân thì chúng còn
có thuộc tính “tiền tệ”, chức năng làm phương tiện cất trữ, lưu thông và thanh toán
- Đối với những đồ nữ trang mà cha mẹ cho con trong ngày cưới thì cần được xác
định theo nguyên tắc : nếu cha mẹ tuyên bố cho riêng thì cũng được coi là tài sản
riêng của vợ, chồng; nếu cha mẹ cho chung cả hai vợ chồng thì đó là tài sản chung.
Nếu giữa vợ, chồng có tranh chấp thì chia cho người đang sử dụng những đồ trang

sức đó. Quy định này là hết sức cần thiết và đảm bảo được tính nhất quán khi toà
án giải quyết các tranh chấp về tài sản là những đồ dùng, tư trang cá nhân mà cha
mẹ tuyên bố cho con trong ngày cưới.
- Theo khoản 3 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, nghĩa vụ riêng về tài
sản của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài sản riêng của người có nghĩa vụ.
Tuy nhiên quy định này là quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể để xác định loại
nghĩa vụ tài sản này. Luật cần phải quy định rõ ràng nghĩa vụ riêng về tài sản của
vợ chồng bao gồm những nghĩa vụ gì.
14


- Cần sửa đổi quy định tại khoản 5 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình: Đây là quy
định chưa hợp lý. Trong thực tế có thể có những tài sản của vợ chồng được đem
vào sử dụng chung tuy không phát sinh hoa lợi, lợi tức nhưng lại có ý nghĩa quan
trọng đối với đời sống gia đình thì khi muốn định đoạt tài sản đó vẫn cần có sự
thống nhất ý chí của cả vợ chồng. vì vậy quy định trên cần chỉnh sửa như sau:
trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã đưa vào sử dụng chung trong
gia đình mà việc định đoạt tài sản đó ảnh hưởng đến đời sống chung của gia đình
thì việc định đoạt đó phải được sự thoả thuận của cả 2 vợ chồng.
- Vấn đề nhập tài sản riêng vào tài sản chung: vấn đề này được quy định tại khoản 2
Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và điều 13 nghị định 70/2001/NĐ-CP.
Theo quy định tại nghị định này, việc nhập tài sản riêng có giá trị lớn, tài sản là bất
động sản phải được lập thành văn bản có chữ ký của cả vợ chồng. tuy nhiên trong
thực tế việc nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản chung có thể được thực
hiện với nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn một bên vợ chồng có thể đưa một
số tiền lớn vào chi dùng cho đời sống chung nhưng họ không lập thành văn bản ,
trong trường hợp này nếu có tranh chấp vẫn phải xác định là người có tài sản riêng
đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản chung và không được đòi lại.

C. KẾT LUẬN

Trong quan hệ hôn nhân, yếu tố tình cảm luôn được đặt lên hàng đầu nhưng
cũng không thể xem nhẹ yếu tố tài sản. Do đó việc xác định tài sản chung và tài sản
riêng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 là phù hợp với điều kiện kinh tế xã
hội đồng thời đây cũng là một hoạt động cần thiết để nhà nước điều chỉnh các quan
hệ hôn nhân theo hướng tích cực, bền vững nhằm bảo vệ quyền lợi của các thành
viên trong gia đình đồng thời giải quyết những tranh chấp phát sinh một cách hiệu
quả nhất. Để Luật hôn nhân và gia đình ngày càng phù hợp với yêu cầu của thực
tiển, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và đảm bảo sự chấp hành nghiêm túc
của mọi đối tượng thì chúng ta cần phải có những giải pháp hoàn thiện pháp luật
hơn nữa.
15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
2.
3.
4.
5.
6.

Nxb. CAND, Hà Nội, 2012
Mô hình Luật hôn nhân và gia đình. Nxb. Tư pháp
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
Nguyễn Văn Cừ, “ Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật HNGĐ năm 2000”,

Tạp chí luật học số 6/2002, từ tr. 3-8.
7. Nguyễn Ngọc Điện, bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,

tập 1, Nxb. Trẻ, TPHCM, 2002.
8. Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Nxb. Tư pháp.
9. Phùng Trung Lý, “ Vấn đề tài sản giữa vợ và chồng trong dự thảo Luật hôn
nhân và gia đình sửa đổi”, tạp chí Nhà nước và pháp luật.
10. Nguyễn Thị Thìn, “Một số vấn đề về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng ở Việt
Nam hiện nay”, KLTN, 2010.
11. Nguyễn Văn Cừ, “ Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005.
12. />13. />16


14. />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=38616464&article_details=
1

17



×