Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc “Giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng” đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo Bộ luật TTDS 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.45 KB, 15 trang )

A. Mở đầu
Trong xu thế hội nhập và phát triển không ngừng của đất nước, các quan
hệ xã hội cũng không ngừng thay đổi và phát sinh thêm nhiều vấn đề mới mẻ
cần được điều chỉnh kịp thời để đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, quyền và lợi ích
hợp pháp của người dân đặc biệt là trong quan hệ pháp luật dân sự vô cùng phức
tạp. Có thể thấy, BLTTDS 2015 ra đời là thể chế chiến lược cải cách tư pháp, đổi
mới, cải cách thủ tục tố tụng dân sự theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ,
bảo đảm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tháo gỡ
những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn để giải quyết các vụ việc dân sự
được nhanh chóng kịp thời. Một trong những điểm tiến bộ đáng được ghi nhận
đó là qui định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự trong trường
hợp chưa có điều luật để áp dụng. Như vậy trong trường hợp này quyền và lợi
ích của người dân sẽ được giải quyết như thế nào? Để hiểu rõ hơn về vấn đề này
em chọn đề tài: Phân tích nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc “Giải quyết vụ
việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng” đối với quá
trình giải quyết vụ việc dân sự để có thể hiêu sâu hơn về vấn đề này.


B. Nội dung
I.
Một số vấn đề lý luận chung
1. Khái niệm và ý nghĩa các nguyên tắc của luật tố tụng dân sự Việt Nam
Nguyên tắc của một ngành luật hiểu chung nhất là những nguyên lý, tư
tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện các quy
định của ngành luật đó. Các nguyên tắc của một ngành luật được ghi nhận thông
qua các quy định tại một hoặc một số điều luật cụ thể của ngành luật đó. Khi
những nguyên lý, tư tưởng pháp lý đã được ghi nhận bằng các quy phạm pháp
luật thì sẽ có giá trị bắt buộc và được bảo đảm thực thi trên thực tế.
Nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam là những nguyên lý, tư
tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố
tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự.


Do vậy, để xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể, phù hợp,
tránh được sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy phạm pháp luật hoặc thiếu sự
nhất quán giữa các văn bản pháp luật trong xây dựng pháp luật tố tụng dân sự
phải dựa vào các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, việc dựa vào
các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự còn giúp tìm ra những mâu thuẫn, của
các quy phạm pháp luật đã ban hành để sửa chữa, bổ sung và hoàn thiện các quy
phạm pháp luật.
Trong tố tụng dân sự, việc thực hiện đúng các nguyên tắc của Luật tố tụng
dân sự tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ việc dân sự được thuận lợi, ngăn
chặn được những tiêu cực nảy sinh trong quá trình tố tụng, bảo đảm cho các
đương sự có thể bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.
Trong những trường hợp mà pháp luật tố tụng dân sự không có quy định cụ thể
để giải quyết thì các chủ thể tố tụng có thể căn cứ vào các nguyên tắc của Luật
tố tụng dân sự mà xác định phương hướng và thực hiện các hành vi tố tụng của
mình. Việc vi phạm các nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động tố tụng. Các hành
vi vi phạm có thể làm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự bị kéo dài hoặc việc
giải quyết vụ việc dân sự không đúng đắn, khách quan.
2. Cơ sở xây dựng và hình thành nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong
trường hợp chưa có điều luật để áp dụng


Theo Hiến pháp năm 2013 thì các quyền con người, quyền công dân về
dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật1. Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể vừa là mục đích, vừa là động cơ
thúc đẩy các chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Khi các quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể bị xâm phạm thì pháp luật ghi nhận cho các chủ thể có quyền
khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án xét xử buộc người có hành vi vi phạm phải chấm
dứt hành vi vi phạm, buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc công nhận
hay không công nhận về một sự kiện pháp lý. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm

2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp cho nên mọi tranh chấp, khiếu kiện, mọi
yêu cầu của cơ quan , tổ chức, cá nhân về dân sự nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác (theo quy định
của pháp luật) thì Tòa án phải có trách nhiệm giải quyết, không được từ chối. Để
tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân Bộ luật dân
sự năm 20152 đã quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự
vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Vì vậy để cụ thể hóa với Hiến pháp, đồng
bộ với Bộ luật dân sự và luật khác nên việc bổ sung quy định “Tòa án không được
từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”
là rất cần thiết. Qui định này được ghi nhận tại Khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015
đảm bảo cho mọi quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các quan hệ
pháp luật dân sự đều được bảo vệ không phụ thuộc vào việc lợi ích đó đã được
pháp luật điều chỉnh hay chưa. Đây là một tiên bộ lớn của hoạt động lập pháp ở
Việt Nam, thể hiện sự hội nhập của Việt Nam với xu thế lập pháp của các nước
phát triển, là bảo vệ tuyệt đối quyền con người, quyền công dân mà cụ thể là
quyền khởi kiện của đương sự. Tuy nhiên, để tránh việc giải quyết tràn lan,
không phải mọi khởi kiện, mọi yêu cầu nào của cơ quan, tổ chức, cá nhân Tòa
án cũng thụ lý giải quyết, BLTTDS 2015 đã giới hạn vụ việc chưa có điều luật
1 Điều 14 (Hiến pháp 2013)
2 Điều 14. Bảo vệ quyền dân sự thông qua cơ quan có thẩm quyền (Bộ luật dân sự 2015)


để áp dụng mà Tòa án phải thụ lý giải quyết. Theo đó vụ việc dân sự chưa có
điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật
dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân
yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng. Như vậy, Tòa án chỉ
giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu đối với quyền, nghĩa vụ về nhân thân và
tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở
bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (gọi chung là

quan hệ dân sự); còn các tranh chấp, các yêu cầu khác không phải là dân sự thì
Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Đối với các tranh
chấp, các yêu cầu Tòa án thụ lý giải quyết mà chưa có điều luật thì hướng giải
quyết những vụ việc này được thực hiện theo nguyên tắc do Bộ luật dân sự,
BLTTDS qui định. Như vậy, trong trường hợp không có điều luật để áp dụng thì
Tòa án phải giải quyết yêu cầu đó trên cơ sở áp dụng lần lượt: phong tục tập
quán, tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ
công bằng. Để có cơ sở rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi, thống nhất trong việc áp
dụng nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự trong
trường hợp chưa có điều luật để áp dụng vào thực tiễn một cách hiệu quả nhất,
BLTTDS 2015 đã qui định cụ thể nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong
II.

trường hợp chưa có điều luật áp dụng tại Điều 45.
Nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường
hợp chưa có điều luật để áp dụng
1. Nội dung
Nội dung nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có
điều luật để áp dụng là cơ sở để Tòa án áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự
được pháp luật dân sự điều chỉnh và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
nhưng tại thời điểm đó chưa có điều luật để áp dụng. Nội dung cụ thể của
nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 45 BLTTDS 2015. Theo đó trong trường
hợp giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng các
nguyên tắc sau:


Thứ nhất, nguyên tắc áp dụng tập quán. Tập quán là qui tắc xử sụ có nội
dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ
dân sự cụ thể được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều trong một thời gian dài,
được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng

dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Việc áp dụng tập quán được qui định cụ
thể tại Điều 5 BLDS năm 2015.
Thông thường những tập quán được áp dụng để giải quyết đó là những tập
quán tốt đẹp, có sức ảnh hưởng rộng lớn, không trái với pháp luật, với đạo đức
xã hội và được cả cộng đồng lưu giữ. Trong trường hợp có những quan hệ dân
sự phức tạp mà pháp luật không có một quy định nào cụ thể, trực tiếp điều chỉnh
và các bên cũng không có thỏa thuận nào khác thì tập quán pháp được áp dụng
giải quyết.
Tòa án chỉ áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường
hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tuy nhiên tập
quán không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy
định tại Điều 3 BLDS.
Khi yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viện dẫn
tập quán để yêu cầu tòa án xem xét áp dụng. Trong trường hợp các đương sự
viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được
thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự.
Để xác định tập quán thì Tòa án cần yêu cầu các đương sự cung cấp tài
liệu, chứng cứ chứng minh một tập quán nào đó cần áp dụng. Đồng thời Tòa án
cũng cần tiến hành xác minh hoặc thu thập thêm tài liệu, chứng cứ như lời khai
của chức sắc tôn giáo ở địa phương, lấy lời khai của những người cao tuổi ở địa
phương, tổ chức xã hội ở địa phương,…để xác định tập quán cần áp dụng.
Ví dụ: Trong việc cân, đo, đong, đếm… Bộ luật dân sự 2015 không qui
định trực tiếp vấn đề này (vì các bên thường thỏa thuận theo tập quán của địa


phương) nếu có tranh chấp xảy ra thì áp dụng tập quán của địa phương nơi giao
dịch dân sự được xác lập để giải quyết tranh chấp. Chẳng hạn trong đơn vị đếm
có địa phương tinhd chục là 10 nhưng có nơi tính chục là 12, cách phân chia thịt
thú rừng săn bắn được của các phường săn bắn theo tập quán của tùng dân tộc
cũng có sự khác biệt…hoặc có những trường hợp qui định cụ thể như khoản 4

Điều 262 BLDS 2015qui định: “bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ để
đảm bảo cho việc sử dụng bình thường; khôi phục tình trạng của tài sản và khắc
phục hậu quả xấu đối với tài sản do việc không thực hiện tốt nghĩa vụ của mình
phù hợp với yêu cầu kỹ thuật hoặc theo tập quán về bảo vệ tài sản”. Hay khi
giiar quyết các tranh chấp về sở hữu chung của cộng đồng theo điều 211 BLDS
2015 ( tài sản thuộc sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, làng, bản, buôn, sóc, cộng
đồng dân cư khác,…) được hình thành theo tập quán cũng được áp dụng tập
quán để giải quyết.
Thứ hai, nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật. Một nguồn quan trọng
trong giải quyết vụ việc này nếu như không có tập quán để áp dụng đó là áp
dụng tương tự pháp luật. Có thể hiểu áp dụng tương tự pháp luật là tổng hợp
những quy định mà pháp luật có sẵn bổ sung thêm những quy định mới để áp
dụng cho những trường hợp thực tế riêng biệt. Nếu như áp dụng pháp luật là
hoạt động giải quyết các vụ việc thực tế cụ thể trên cơ sở quy phạm pháp luật
trực tiếp điều chỉnh vấn đề đó thì áp dụng tương tự pháp luật là hoạt động giải
quyết các vụ việc thực tế, cụ thể nhưng trong hệ thống pháp luật lại không có
điều luật trực tiếp quy định, không có khuôn mẫu nhất định Nhà nước quy định
giải quyết vấn đề đó. Như vậy ta thấy theo qui định tại Điều 45 BLTTDS 2015
thì trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không quy định và
không có tập quán để áp dụng thì Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải
quyết vụ việc dân sự. Căn cứ vào Khoản 1 điều 6 BLDS năm 2015 thì cũng quy
định rằng nếu trường hợp nếu các bên không có thỏa thuận, không có điều luật
quy định đồng thời không có tập quán áp dụng thì sẽ áp dụng tương tự pháp luật
để giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lí của vụ


việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy
phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Qua đó ta thấy được nếu muốn áp dụng tương tự
pháp luật thì phải cần đáp ứng đủ hai điều kiện:

Một là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải xác định được tính chất pháp
lí của vụ việc, nghĩa là vụ việc đó phải thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật.
Xác định tính chất pháp lí của vụ việc đó là xác định xem vụ việc đó có
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật không và cụ thể là phạm vi điều chỉnh
của Bộ Luật tố tụng dân sự hay không? Theo đó những vụ việc đó phải thuộc
những trường hợp tại Điều 1 BLTTDS năm 2015, là vụ việc dân sự. Ngoài ra
xác định tính chất pháp lí của vụ việc để xem xét nếu như vụ việc không có tính
chất pháp lí thì không cần giải quyết.
Hai là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải xác định được trong hệ thống
pháp luật không có quy phạm nào trực tiếp điều chỉnh vụ việc đó. Chủ thể có
thẩm quyền áp dụng phải chắc chắn rằng trong hệ thống pháp luật không có quy
phạm pháp luật nào trực tiếp điều chỉnh vụ việc đó và cũng không có quy phạm
pháp luật nào điều chỉnh vụ việc khác có nội dung tương tự như vậy.
Áp dụng tương tự pháp luật là ví dụ như một quan hệ pháp luật dân sự
gần giống một điều khoản trong bộ luật dân sự đã được điều chỉnh thì ta sẽ áp
dụng tự đánh giá quan hệ đó tương tự như điều luật được quy định có hiệu lực
pháp luật hiện hành. Nếu không có các quy phạm tương tự, không xác định được
các quy phạm cần áp dụng mà phải dùng những nguyên tắc chung của pháp luật
để giải quyết thì áp dụng tương tự pháp luật.Trong một số trường hợp đối tượng
đang xem xét thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật và mỗi ngành luật
điều chỉnh ở giác độ khác nhau; ví dụ: tranh chấp về chuyển quyền sử dụng đất.
Để giải quyết tranh chấp này cần phải xem xét những ngành luật nào điều chỉnh
quan hệ trên. Luật dân sự điều chỉnh sự chuyển dịch các quyền của người sử


dụng đất, luật đất đai điều chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…
Trường hợp này sẽ áp dụng quy phạm của nhiều ngành luật liên quan để điều
chỉnh.
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự,
án lệ, lẽ công bằng. Trong thực tế cuộc sống có không ít những trường hợp

thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự vì nhiều nguyên nhân và lý do
khác nhau mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có qui định và
không có tập quán được áp dụng thì Tòa án và những cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền phải áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Khi có tranh
chấp xảy ra, đương sự có đơn yêu cầu Tòa án hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền giải quyết, ngoài áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự để
xem xét, thì còn có thể phải áp dụng án lệ, lẽ công bằng để giải quyết. Bộ luật
dân sự năm 2015 đã quy định áp dụng án lệ trong trường hợp: các bên không
có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán; Trường
hợp không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ dân sự tương tự; trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp
luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công
bằng. Theo khoản 3, Điều 45 BLDS năm 2015 quy định: Tòa án áp dụng các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc
dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định
tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của Bộ luật dân sự, khoản 1 và khoản 2 Điều 45.
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định
tại Điều 3 của Bộ luật dân sự.
Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự
khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố.


Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã
hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.
Nên khi Tòa án giải quyết cả những vụ việc dân sự, mà vấn đề pháp lý
cần được giải quyết trong vụ việc dân sự đó chưa được pháp luật quy định hoặc
các bên đương sự không có thỏa thuận thì được áp đụng án lệ, lẽ công bằng.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành Nghị

quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 về quy trình lựa chọn, công bố và
áp dụng án lệ. Theo đó, án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân
dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
Nên việc sử dụng án lệ như là một phương thức mới của Tòa án trong việc áp
dụng thống nhất pháp luật khi xét xử.
Án lệ có tính thực tiễn cao vì nó tập trung vào việc giải quyết vấn đề cụ
thể của đời sống chứ không phải giải quyết vấn đề bằng các lý thuyết chung
chung trừu tượng. Đồng thời, án lệ khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách
nhanh chóng và kịp thời trong khi các quy phạm trong các văn bản pháp luật
mang tính ổn định, có một số quan hệ xã hội mới phát sinh mà pháp luật chưa
dự liệu được do đó chưa thể giải quyết thì án lệ có thể giải quyết các trường hợp
này một cách nhanh chóng. Án lệ được hiểu là những lập luận, phán quyết trong
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể
được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án
Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng
trong xét xử.
Như vậy, án lệ và lẽ công bằng được xác lập nhằm bảo đảm việc áp dụng
thống nhất pháp luật trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp luật cần


áp dụng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra vàphù hợp với nguyên
tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương
sự trong các vụ việc dân sự mà vấn đề pháp lý cần được giải quyết chưa được
pháp luật quy định hoặc các bên đương sự không có thỏa thuận.
Ví dụ: Trường hợp trong thời gian chấp hành án phạt tù mà người chấp
hành án không nộp đơn khởi kiện vụ án chia di sản thừa kế và họ chỉ nộp sau khi
thời hiệu khởi kiện loại vụ án này đã hết, thì thời gian chấp hành án phạt tù đó
được coi là thời gian xảy ra trở ngại khách quan nếu trong thời gian này mặc dù

người chấp hành án đã nhiều lần liên lạc với người thân thích của họ nhưng vẫn
không có kết quả và người chấp hành án không có nguồn thông tin khác để biết
được người để lại tài sản cho họ đã chết.
2. Ý nghĩa
Căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều
luật để áp dụng là dựa vào tập quán, tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng được qui định cụ thể tại Điều 45 và
nguyên tắc xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục thụ lý tại Điều 43,44 BLTTDS
2015 với mục đích đưa nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc
dân sự trong trường hợp không có điều luật để áp dụng vào thực tiễn. Có thể
thấy đây là bước tiến vượt bậc trong quá trình lập pháp, tiếp thu những sự tiến
bộ trên thế giới, đáp ứng nhu cầu thực tiễn đề ra, đồng thời thể hiện tầm nhìn sâu
rộng trước những biến đổi không ngừng của xã hội đặc biệt là trong quan hệ
pháp luật dân sự không ngừng phát sinh những vấn đề mới mẻ cần phải giải
quyết để đảm bảo lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia.
Từ những sự phân tích trên, có thể khẳng định những qui định về nguyên
tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong thực tiễn hiện nay và được thể hiện ở một số
điểm như sau:


Thứ nhất, với qui định cụ thể nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong
trường hợp hợp chưa có điều luật để áp dụng của Tòa án đã cụ thể hóa Hiến
pháp năm 2013 về quyền công dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự. Điều 14 Hiến
pháp năm 2013 quy định “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2.
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Khoản 3 Điều 102 Hiến

pháp năm 2013 cũng khẳng định “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Với
qui định như trên, Hiến pháp 2013 khẳng đinh tất cả các quyền con người,
quyền công dân đều phải được Nhà nước bảo hộ không bị cản trở bời bất cứ trở
lực nào. Nhà nước bảo đảm cho công dân được thực hiện quyền của mình một
cách tối ưu nhất cả trong lĩnh vực tư pháp. Tòa án nhân dân là thiết chế pháp ý
thay mặt Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân. Do vậy, không thể vì sự hạn chế
của pháp luật mà từ chối giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
nhân bị xâm phạm. Nhà nước phải có cơ chế thích ứng, hiệu quả để đảm bảo
quyền con người quyền công dân được bảo vệ một cách hữu hiệu nhất. Việc
khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015 quy định “Tòa án không được từ chối giải quyết
vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” là phù hợp với Hiến pháp
2013, quyền con người, quyền công dân và phù hợp với nhiệm vụ của Tòa án
nhân dân.
Thứ hai, ghi nhận và bảo vệ “nguyên tắc công dân được làm những gì
pháp luật không cấm” là nguyên tắc quan trọng trong luật dân sự. Theo đó, công
dân có quyền làm bất cứ những gì không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội, không xâm phạm đến lợi ích quốc gia dân tộc, lợi ích công cộng,


quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải được mọi người tôn trọng và
được Nhà nước bảo hộ. Do vậy, khi công dân thực hiện theo đúng qui định của
pháp luật, không có lý do nào mà pháp luật không bảo vệ quyền lợi của họ. Việc
pháp luật tố tụng dân sự quy định Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng là một sự đảm bảo đúng đắn tinh
thần của Hiến pháp và nguyên tắc công dân được làm những gì pháp luật không
cấm.
Thứ ba, bảo đảm việc điều chỉnh kịp thời, hiệu quả của pháp luật đối với

những quan hệ xã hội mới nảy sinh, khắc phục những hạn chế trước đây. Các
vấn đề liên quan đến quan hệ pháp luật dân sự giữa các chủ thể khá là phức tạp
và luôn luôn phát sinh thêm những vấn đề mới mà luật chưa kịp điều chỉnh. Tuy
nhiên không thể cứ phát sinh thêm vấn đề cần giải quyết là lại sửa đổi, bổ sung
luật để điều chỉnh vấn đề đó ngay lập tức được. Do vậy, có thể thấy đây là một
cái nhìn hoàn toàn sáng suốt, thể hiện tầm nhìn xa, đáp ứng nhu cầu thực tiễn
của xã hội. Thực tiễn cho thấy, trong nhiều trường hợp, vì nhiều lý do khác nhau
Tòa án thường từ chối giải quyết cho an toàn, hoặc chò xin ý kiến chỉ đạo từ cấp
trên từ đó kéo dài thời gian, gây trở ngại đến quá trình giải quyết vụ việc thậm
chí là gây ra những thiệt hại gây nên nhiều bức xúc trong người dân.

C. Kết luận
Việc ghi nhận qui định Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết việc
dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
mọi người dân đảm bảo an ninh và trật tự xã hội cũng như tạo sự tin tưởng vững


chắc của người dân vào hệ thống pháp luật từ đó nâng cao ý thức của người dân
trong việc sống và làm việc đúng theo qui định của luật. Đây là một nội dung rất
mới, bảo đảm công dân có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ lẽ phải. Mặt khác, trong
điều kiện các quan hệ xã hội biến đổi liên tục, thì quy định này góp phần mở
đường cho việc hình thành án lệ, khuyến khích các thẩm phán nâng cao khả
năng vận dụng sáng tạo pháp luật, không máy móc, rập khuôn để tránh vụ việc
tranh chấp kéo dài trong nội bộ nhân dân, bổ sung những khiếm khuyết của pháp
luật hạn chế tình trạng lợi dụng lỗ hổng của pháp luật để lách luật nhằm vụ lợi
cá nhân. Quy định mới đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội nhưng đồng thời
cũng gia tăng trách nhiệm cho Tòa án, do vậy cần nâng cao hơn nữa trình độ
chuyên môn của các thẩm phán để quy định này phát huy tốt nhất những lợi thế
của nó, đáp ứng những mong muốn của người dân, đảm bảo công bằng cho các
bên trong tranh chấp.


D.
1.
2.
3.
4.

Danh mục tài liệu tham khảo
Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Bộ luật dân sự 2015
Giáo trình luật tố tụng dân sự trường đại học kiểm sát Hà Nội. năm 2017
Bình luận khoa học bộ luật tố tụng dân sự 2015. Thạc sỹ luật: Đoàn Tuấn Minh Luật gia: Nguyễn Ngọc Diệp. NXB Lao động.


5. Bình luận khoa học bộ luật dân sự 2015. PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS.
Trần Thị Huệ. NXB Công an nhân dân.
6. Một số trang Web:





Mục lục

Danh mục từ viết tắt:
1. BLDS: Bộ luật dân sự
2. BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự


Đề 4: Phân tích nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc “Giải quyết vụ

việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng” đối với quá
trình giải quyết vụ việc dân sự



×