Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

(Luận án tiến sĩ) Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 170 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ KIM NGÂN

BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9.38.01.02

LUẬN ÁN TIỄN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Bùi Thị Đào
2. TS. Đặng Thị Thu Huyền

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những kết luận khoa học
của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Nghiên cứu sinh

Đặng Thị Kim Ngân


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ......................................................................................................................... 7
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến đề tài ................. 7
1.2 Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ......................... 25
1.3 Câu hỏi nghiên cứu, lý thuyết nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ................. 28
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO
CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT ............................................................. 31
2.1 Khái niệm của bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật .................. 31
2.2 Nội dung bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật........................... 46
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo của công dân ....................... 55
Chương 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................... 65
3.1 Quá trình hình thành và phát triển của bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
pháp luật Việt Nam ................................................................................................ 65
3.2 Thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện nay .................................................................................. 74
3.3 Thực tiễn bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay ................ 94
3.4 Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................................... 112
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN
TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................. 119
4.1 Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay. 119
4.2 Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân ............................ 123
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...................... 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 148
Phụ lục 1 ............................................................................................................. 159



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BĐQTC

Bảo đảm quyền tố cáo

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

GQTC

Giải quyết tố cáo

LPCTN

Luật phòng, chống tham nhũng

LTC

Luật Tố cáo

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

QH

Quốc hội

QTC


Quyền tố cáo

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 của nước ta quy định tại Điều 14: "Ở nước CHXHCN Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" và
Điều 30: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Điều đó
thể hiện Nhà nước rất coi trọng tố cáo và việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, coi
tố cáo là một trong những kênh thông tin giúp Nhà nước phát hiện, phòng ngừa và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tập
thể và Nhà nước. Đồng thời qua việc GQTC, Nhà nước thể hiện sự thừa nhận và coi
trọng quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trong giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức.
Chính vì lý do trên mà QTC được coi là một trong những quyền cơ bản của công
dân, được ghi nhận lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp nước ta qua các giai
đoạn luôn ghi nhận QTC của công dân, mở rộng hơn so với trước và tạo điều kiện để
công dân thực hiện quyền này một cách tốt nhất. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật để quy định việc bảo đảm thực hiện QTC của công dân như Pháp lệnh quy
định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981; Pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998; các luật sửa đổi, bổ
sung Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005; Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo
năm 2018.... Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước còn thiết lập và kiện

toàn các cơ quan có chức năng GQTC, các cơ quan giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi
phạm trong lĩnh vực tố cáo; đồng thời chú trọng phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội trong việc BĐQTC của công dân.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn BĐQTC của
công dân còn nhiều hạn chế, các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực này vẫn
chưa đầy đủ, rõ ràng. Nhìn chung, hệ thống pháp luật về BĐQTC của công dân còn
chồng chéo, mâu thuẫn, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, thủ tục BĐQTC của công
dân còn rườm rà, kém hiệu quả.
Bên cạnh đó, những bất cập, hạn chế về giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi
phạm pháp luật trong BĐQTC của công dân vẫn chưa được khắc phục triệt để. Năng
1


lực, trách nhiệm, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức và ý thức pháp luật
của công dân, của cộng đồng hiện nay vẫn còn có những cản trở lớn đối với việc
BĐQTC của công dân. Thực trạng công tác tiếp nhận, xử lý thông tin, thẩm tra, xác
minh và kết luận nội dung tố cáo ở nhiều nơi chưa thực sự được người có thẩm quyền
và cơ quan nhà nước có trách nhiệm quan tâm đúng mức. Mặt khác, việc xử lý người
sai phạm chưa có chế tài cụ thể, chưa thực sự nghiêm túc, chưa đủ sức răn đe; thậm
chí, ở nhiều nơi, người tố cáo còn bị cộng đồng dân cư và đơn vị công tác kỳ thị, hoặc
bị đe dọa, trù dập làm ảnh hưởng đến danh dự, cuộc sống, công việc và tính mạng.
Những hạn chế trên đã ảnh hưởng lớn đến niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh,
công bằng của luật pháp; ảnh hưởng đến ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức có
thẩm quyền và chất lượng, hiệu quả của quản lý nhà nước. Điều đó không chỉ phản
ánh sự thiếu hoàn thiện trong việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, không khắc
phục được tình trạng tố cáo đông người, vượt cấp, kéo dài, gây rối trật tự công cộng,
mất ổn định an ninh, trật tự, cản trở tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và tăng
cường dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ thực tế nêu trên, yêu cầu đặt ra là phải tăng cường BĐQTC của công dân để
công dân yên tâm thực hiện QTC của mình, góp phần tích cực vào việc đấu tranh đẩy

lùi các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là đấu tranh phòng chống tham nhũng. Vì vậy,
cần có các nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về BĐQTC của công dân ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện nay ở nước ta trong lĩnh vực này mới chỉ tập trung ở
một số khía cạnh của tố cáo, còn việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân chưa
được nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một
cách bài bản và khoa học về BĐQTC của công dân luôn là vấn đề được các nhà
khoa học và thực tiễn quan tâm.
Từ các lý do trên cho thấy, việc nghiên cứu về “Bảo đảm quyền tố cáo của
công dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là yêu cầu khách quan, cấp thiết cả về
lý luận và thực tiễn.

2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm
quyền tố cáo của công dân theo pháp luật; đánh giá thực trạng; từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án có nhiệm vụ:
Thứ nhất, nghiên cứu tình hình tổng quan để hệ thống hóa, phân tích, đánh
giá các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó xác định những
kết quả nghiên cứu mà luận án sẽ kế thừa và chỉ ra những vấn đề mà các công trình
khoa học chưa giải quyết, luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, làm rõ khái niệm, chủ thể và giới hạn của quyền tố cáo; phân tích
khái niệm, vai trò, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo của
công dân theo pháp luật.
Thứ ba, nghiên cứu, đánh giá sự hình thành, phát triển, thực trạng bảo đảm
quyền tố cáo theo pháp luật và thực tiễn thực hiện bảo đảm quyền tố cáo của công

dân ở Việt Nam.
Thứ tư, nghiên cứu, đề xuất các quan điểm và giải pháp để tăng cường bảo
đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu BĐQTC của công dân theo pháp luật ở góc độ
lý luận, các quan điểm, quan niệm về BĐQTC của công dân; cơ sở pháp lý và thực
tiễn thực hiện pháp luật về BĐQTC của công dân ở nước ta hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân
được quy định trong hệ thống pháp luật, cụ thể là:
Về nội dung: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân có thể được nghiên cứu với
nhiều khía cạnh khác nhau như bảo đảm kinh tế, bảo đảm chính trị, bảo đảm xã hội, ....
Tuy nhiên, luận án tập trung nghiên cứu, phân tích các bảo đảm quyền tố cáo được
quy định trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là những bảo đảm được quy định trong
Luật Tố cáo năm 2011, các văn bản hướng dẫn thi hành luật này và Luật Tố cáo năm
3


2018. Các quy định về tố cáo được quy định trong Bộ Luật hình sự năm 2015 và các
văn bản có liên quan khác cũng sẽ được đề cập và phân tích nhưng không phải là
trọng tâm nghiên cứu. Do Luật Tố cáo năm 2018 có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 nên
Luận án không nghiên cứu thực trạng thực hiện các quy định của Luật này.
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu BĐQTC của công dân theo pháp luật
chủ yếu ở giai đoạn từ sau khi Quốc hội thông qua Luật Tố cáo năm 2011 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận và cách tiếp cận nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người, bảo đảm quyền con

người trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó,
tác giả còn sử dụng một số cách tiếp cận như:
Tiếp cận hệ thống: Trên cơ sở tập hợp, hệ thống ở mức tương đối đầy đủ các công
trình liên quan đến BĐQTC của công dân ở Việt Nam đã được công bố, luận án xem xét,
đánh giá và tiếp thu có chọn lọc để đưa ra những quan niệm về vấn đề nghiên cứu.
Tiếp cận đa ngành, liên ngành: Có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã
hội có liên quan như sử học, xã hội học, chính trị học, luật học.
Tiếp cận lịch sử: Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá trình nghiên
cứu và mối quan hệ này được xem xét qua các giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau.
Đồng thời, việc phân tích, đánh giá từng mặt của mối quan hệ này được nhìn nhận dưới
góc độ logic phát triển đặt trong những bối cảnh và những điều kiện lịch sử cụ thể.
4.2 Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận án
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội và luật học như: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
hệ thống, phương pháp lịch sử cụ thể.... Đối với mỗi chương, mục, các phương pháp
nghiên cứu chủ đạo được sử dụng như sau:
Chương 1: Chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và
tổng hợp. Từ việc hệ thống hóa, tổng hợp các công trình nghiên cứu khoa học trong
nước và nước ngoài về những vấn đề có liên quan đến nội dung luận án, tác giả đã
phân tích những nội dung cơ bản trong các công trình nghiên cứu đó và đưa ra đánh
4


giá cụ thể về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Mục 2.1, Mục 2.2, Mục 2.3 Chương 2: Sử dụng phương pháp hệ thống, phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp để đưa ra
khái niệm, chủ thể và giới hạn của quyền tố cáo; khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo
đảm quyền tố cáo của công dân; nội dung của BĐQTC của công dân; các yếu tố ảnh
hưởng đến BĐQTC của công dân.

Mục 3.1 Chương 3: Chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh để làm rõ quá
trình hình thành và phát triển của BĐQTC của công dân theo pháp luật Việt Nam qua
các giai đoạn lịch sử.
Mục 3.2 và Mục 3.3 Chương 3: Sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh để làm rõ thực
trạng BĐQTC của công dân ở Việt Nam hiện nay.
Mục 3.4 Chương 3: Chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, tổng hợp để đánh giá về thực trạng BĐQTC của công dân ở nước ta.
Mục 4.1 và 4.2 Chương 4: Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp dự báo khoa học để làm rõ
quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện BĐQTC của công dân và đề xuất các
giải pháp tăng cường BĐQTC của công dân ở nước ta.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật học nghiên cứu
một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp
luật Việt Nam, với những điểm mới về khoa học như sau:
Thứ nhất, luận án làm sáng tỏ những vấn đề khoa học mà chưa hoặc đã được
đề cập nhưng còn thiếu thống nhất và thiếu toàn diện trong một số công trình
nghiên cứu khác, cụ thể như: chủ thể và giới hạn của quyền tố cáo; khái niệm, đặc
điểm và vai trò của BĐQTC của công dân; các yếu tố ảnh hưởng đến BĐQTC của
công dân. Đồng thời, luận án làm rõ các nội dung của BĐQTC của công dân được
quy định trong hệ thống pháp luật về: ghi nhận nội dung quyền; thẩm quyền, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân; thủ tục bảo đảm quyền; các nguồn lực bảo đảm
quyền; việc giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm quyền; việc bảo vệ và
khen thưởng người tố cáo.
5


Thứ hai, luận án phân tích, đánh giá toàn diện tình hình thực hiện các bảo

đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong hệ thống pháp luật. Từ đó, chỉ
ra những ưu điểm và hạn chế của việc BĐQTC của công dân cũng như những
nguyên nhân.
Thứ ba, luận án đưa ra các quan điểm cơ bản làm cơ sở cho việc đề xuất các
giải pháp cụ thể hướng tới việc tăng cường BĐQTC của công dân.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1 Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu hiện có về quyền
tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo của công dân nước ta.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành, sửa đổi bổ sung các quy phạm
pháp luật điều chỉnh về bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở nước ta hiện nay.
Luận án có thể là tư liệu tham khảo trong các hoạt động nghiên cứu khoa học
về bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền công dân, quyền tố cáo
nói riêng.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc đào tạo cao
học, nghiên cứu sinh chuyên ngành luật ở các trường đại học, học viện.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án
được kết cấu thành bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
pháp luật
Chương 3: Thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật
Việt Nam hiện nay
Chương 4: Quan điểm, giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công
dân ở Việt Nam hiện nay.

6



Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1.1 Các nghiên cứu về lý luận bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Lý luận về quyền con người, quyền công dân đã được nhiều công trình
nghiên cứu đề cập đến ở các quy mô khác nhau, tuy nhiên lý luận về BĐQTC của
công dân theo pháp luật ít được các học giả phân tích sâu mà mới chỉ xem xét ở các
khía cạnh khác nhau của BĐQTC như vấn đề GQTC, bảo vệ người tố cáo, hoàn
thiện pháp luật tố cáo. Để minh chứng cho điều này, có thể kể đến một số công trình
liên quan đến luận án như sau:
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu lý luận về bảo đảm quyền con người,
quyền công dân
Quyền con người nói chung, quyền tố cáo của công dân nói riêng là giá trị
của nhân loại, phản ánh bản chất mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, các
quyền này gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của chế độ dân chủ. Việc bảo
đảm các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tố cáo là nguyên tắc
hiến định trong đa số Hiến pháp của các quốc gia. Ở Việt Nam, việc bảo đảm thực
hiện các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tố cáo là chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước, được thể hiện trong nhiều văn bản của Đảng và hệ thống
pháp luật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận bảo đảm quyền con người,
quyền công dân ở nước ta, đây là nguồn tham khảo rất có giá trị đối với tác giả luận án
trong việc nghiên cứu bảo đảm quyền tố cáo theo pháp luật Việt Nam. Các công trình
nghiên cứu có thể kể đến là:
Sách chuyên khảo “Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị” của các tác
giả Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ biên, NXB. Chính trị quốc gia, năm
1997 [34]. Đây là tập hợp các chuyên đề nghiên cứu về những nội dung cơ bản trong
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Trong đó, các tác giả
tập trung nghiên cứu khá sâu về quyền dân sự và chính trị, cũng như việc thực hiện

quyền dân sự và chính trị ở Việt Nam. Nội dung cuốn sách phản ánh cái nhìn khá toàn
7


diện về các quyền dân sự và chính trị của công dân cũng như bước đầu đặt quyền tố
cáo trong mối quan hệ so sánh với các quyền chính trị của công dân.
Sách chuyên khảo “Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Đường, NXB. Chính trị
quốc gia, năm 2004 [30]. Tác giả đã đưa ra quan niệm về quyền con người, quyền
công dân cũng như nghĩa vụ của cá nhân công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; phân tích quá trình hình thành, phát triển của quyền con người, quyền công
dân qua Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980; đồng thời chỉ ra những bảo đảm trong
việc thực hiện quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền, đặc biệt
là các cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện các quyền công dân. Tác giả cũng đề xuất các
giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và kiện toàn bộ máy nhà nước để
bảo vệ quyền công dân. Cuốn sách là tài liệu tham khảo rất hữu ích về các cơ chế bảo
đảm pháp lý đối với việc bảo đảm thực hiện quyền công dân nói chung và QTC của
công dân nói riêng.
Các cuốn sách “Quyền con người: tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học
xã hội”, “Quyền con người”- Giáo trình giảng dạy sau đại học, “Quyền con người –
tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học”- (tập I và tập II), "Những vấn đề lý luận và
thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị", NXB. Khoa học xã hội, năm 2010,
2011 do GS. Võ Khánh Vinh chủ biên [110], [111], [113]. Đây là kết quả nghiên cứu
chuyên sâu cả lý luận và thực tiễn về quyền con người, cũng như cơ chế bảo đảm, bảo
vệ quyền con người theo các chuẩn mực quốc tế, quốc gia và thực tiễn ở Việt Nam.
Điểm mới trong các cuốn sách là cách tiếp cận khi nghiên cứu về quyền con người mà
trước đây chưa được đề cập đến như nghiên cứu quyền con người theo hướng tiếp cận
đa ngành, liên ngành; nghiên cứu quyền con người bằng phương pháp tiếp cận dựa
trên quyền; nghiên cứu quyền con người trong mối quan hệ với chính trị, kinh tế, xã
hội, đạo đức, tôn giáo; nghiên cứu về quyền con người trong điều kiện xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa…
Cuốn sách “Chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở một số nước
trên thế giới” của Vũ Kiều Oanh, NXB. Khoa học xã hội, năm 2012 [56]. Từ lý luận
về chế định quyền và nghĩa vụ của công dân, tác giả đã trình bày chế định quyền và
8


nghĩa vụ cơ bản của công dân ở một số nước trên thế giới, đưa ra nhận xét tổng quan
và đề xuất việc hoàn thiện chế định này ở Việt Nam. Tác giả chọn một số quốc gia
điển hình có tính đến các yếu tố về chế độ chính trị, vị trí địa lý, mức độ phát triển, tôn
giáo, yếu tố đặc trưng…. để người đọc thấy được sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân ở nhiều nước trên thế giới. Cuốn sách đã giúp người đọc có cái
nhìn mang tính so sánh về quyền công dân nói chung và QTC nói riêng ở một số nước
trên thế giới, là tư liệu tham khảo hữu ích khi xây dựng giải pháp về BĐQTC của
công dân trong pháp luật Việt Nam.
Cuốn sách "Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người" do GS.TS Võ Khánh
Vinh chủ biên, NXB. Khoa học và xã hội xuất bản năm 2011 là công trình đầu tiên
nghiên cứu về cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người [112]. Cuốn sách là tập hợp
nhiều bài viết của các tác giả có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quyền con người.
Các tác giả đã nghiên cứu nhận thức chung về cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, từ cơ chế của Liên hợp quốc và cơ chế khu vực đến cơ chế của một số nước
trên thế giới, đặc biệt là trong một số lĩnh vực cụ thể và cho những nhóm người cụ thể.
Bên cạnh đó, còn có nhiều bài báo khoa học bàn về những vấn đề lý luận
bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được công bố trên các tạp chí khoa
học xã hội, như: Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong
Hiến pháp theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 8, 2011 [22]; Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam, của Phan Nhật Thanh, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6, 2014
[66]; Nghĩa vụ quốc tế và trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, Lê Thanh Mai, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12, 2015 [45];

Quyền con người và việc bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người theo Hiến pháp
năm 2013, Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11,
2015 [31]; Hiến pháp - Cơ sở pháp lý cơ bản của việc bảo đảm quyền con người, Chu
Thị Ngọc, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 9, 2016 [55]; Cụ thể hóa các quy định
mới về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, Tường Duy
Kiên, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 13, 2016 [44]; Hoạt động xây dựng pháp luật
của Chính phủ với việc đảm bảo quyền con người của Lê Thị Minh Thư, Tạp chí
9


Nghiên cứu Lập pháp, số 17, 2016 [92], Nhận diện các mô hình giới hạn quyền con
người trong pháp luật Việt Nam của Bùi Tiến Đạt, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2,
2018 [29]; Hệ thống pháp luật về quyền con người trong Nhà nước pháp quyền ngày
càng hoàn thiện của Nguyễn Thị Hoa, Tạp chí Thanh tra số 4, 2018 [32] … Những
bài viết này đều có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi xây dựng, luận giải
nội dung đảm bảo quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Có thể thấy, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về bảo đảm
quyền con người, quyền công dân với những góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng đều có
sự thống nhất về khái niệm, đặc điểm và những phương thức bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Các kết quả nghiên cứu của những công trình trên đây có giá
trị tham khảo cho tác giả luận án trong việc xác định đúng định hướng nội dung
nghiên cứu của luận án khi mà các văn bản hiến định và pháp định ở nước ta đều
khẳng định QTC là quyền cơ bản của công dân.
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu liên quan đến lý luận về bảo đảm
quyền tố cáo của công dân
Hiến pháp của các quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng, khi quy định
các quyền của công dân đều đi cùng với những bảo đảm của Nhà nước để công dân
thực hiện được các quyền đó. Quyền tố cáo được coi là một quyền bảo vệ quyền,
nghĩa là công dân thực hiện quyền này để bảo vệ các quyền khác của mình. Có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến việc BĐQTC của công dân theo pháp luật ở những

khía cạnh khác nhau, cụ thể như sau:
Cuốn sách “Pháp luật về khiếu nại và tố cáo” của tác giả Phạm Hồng Thái chủ
biên, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003 [63]. Đây là công trình nghiên cứu
chuyên sâu về lý luận tố cáo, quyền tố cáo và giải quyết tố cáo, đồng thời cuốn sách
cũng làm rõ sự khác biệt trong khái niệm về tố cáo và quyền tố cáo; tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về quyền tố cáo của công dân. Từ việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tố cáo, nhóm tác giả đã đánh giá thực trạng công
tác GQTC ở nước ta, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả về công tác GQTC.
Cuốn sách “Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
10


chính ở Việt Nam hiện nay” của Viện Khoa học Thanh tra, do tác giả Lê Tiến Hào và
Nguyễn Quốc Hiệp đồng chủ biên, NXB. Chính trị - Hành chính, năm 2012 [33]
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tố cáo hành chính và GQTC hành chính như:
quan niệm về tố cáo hành chính, đặc điểm, vai trò của công tác GQTC hành chính.
Các tác giả cũng đề cập đến những quy định pháp luật về tố cáo hành chính và GQTC
hành chính ở nước ta ở giai đoạn từ năm 1998 đến 2011. Cuốn sách được viết bởi
những người trực tiếp tham gia công tác giải quyết tố cáo của Thanh tra Chính phủ
nên ngoài tính lý luận sâu sắc, còn có tính thực tiễn cao.
Cuốn sách “Cẩm nang về kỹ thuật giải quyết tố cáo trong Đảng” do tác giả
Nguyễn Ngọc Đán và Cao Văn Thống đồng chủ biên, NXB. Chính trị quốc gia, năm
2013 [26]. Bên cạnh việc phân tích các kỹ năng, quy trình GQTC đối với đảng viên và
tổ chức đảng, các tác giả tập trung phân tích sự khác biệt về tố cáo, QTC, thẩm quyền
GQTC giữa cơ quan Nhà nước và cơ quan của Đảng. Cuốn sách là tài liệu tham khảo
của tác giả trong việc nghiên cứu về thực tế các cơ chế BĐQTC khác nhau đang tồn
tại ở Việt Nam, cơ chế theo hệ thống pháp luật và cơ chế theo quy định của Đảng.
Luận văn thạc sĩ “Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân ở tỉnh Quảng
Ninh” của Vũ Văn Đạm, năm 2012 [27] đã đề cập đến khái niệm, đặc điểm của đảm

bảo QTC của công dân, các phương thức cũng như trách nhiệm của các cơ quan hành
chính nhà nước trong việc đảm bảo QTC của công dân. Có thể nói, đây là công trình
nghiên cứu đầu tiên đề cập cụ thể đến các vấn đề lý luận về BĐQTC của công dân ở
nước ta nói chung, cũng như từ thực tiễn của tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Các bài viết liên quan trực tiếp đến lý luận về BĐQTC của công dân đăng trên
các tạp chí khoa học như: Bàn về khái niệm "Tố giác tội phạm, "Tin báo về tội phạm"
và "Kiến nghị khởi tố" trong Bộ luật Tố tụng Hình sự của Phạm Quốc Huy, Tạp chí
Kiểm sát số 17, 2009 [38], Xây dựng cơ chế bảo vệ người tố cáo của Hồ Thị Thu An,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 197, 2011 [2]; Một số vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo
vệ người tố cáo, Tạp chí Thanh tra, số 3, 2014 của Lê Tiến Đạt [28]; Bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tạ Thị Tài, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số chuyên đề Bảo đảm quyền con người và quyền công dân
bằng thiết chế tư pháp, năm 2014 [62]... Các tác giả đề cập đến lý luận về BĐQTC
11


của công dân theo pháp luật thể hiện ở việc bảo vệ người tố cáo và phân tích các nội
dung trong quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo như: thủ tục để người tố cáo tiếp
nhận các biện pháp bảo vệ; việc giữ bí mật thông tin về người tố cáo; xác định trách
nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo; việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo vệ
người tố cáo. Đồng thời, các bài viết cũng khẳng định: pháp luật về tố cáo đã thể hiện
những đảm bảo quyền con người, quyền công dân như tạo cơ sở pháp lý để mọi cá
nhân thực hiện QTC của mình; quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong tiếp nhận và GQTC; quy định trình thự, thủ tục để công dân thực hiện QTC của
mình; quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong GQTC; quy định chế tài bảo đảm
thực hiện QTC của công dân.
Nhóm công trình nghiên cứu của nước ngoài về lý luận bảo đảm quyền tố cáo
của công dân
Cuốn sách “Whistleblowing international standards and developments”- Tố
cáo, các chuẩn mực và diễn biến quốc tế của David Banisar, năm 2009, đăng trên

trang www.transparency.org [119]. Tác giả đưa ra quan niệm về tố cáo, chỉ rõ vai trò
và những thách thức, trở ngại trong việc người dân thực hiện quyền tố cáo và sự khác
biệt trong các quan niệm, quy định về tố cáo của các điều ước quốc tế, pháp luật các
quốc gia. Tác giả cho rằng, sự khác biệt này là do có sự khác nhau về văn hóa, kinh tế,
chính trị. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị một số nguyên tắc trong xây dựng pháp luật
về tố cáo.
Tài liệu nghiên cứu “La dénonciation en milieu de travail: mécanismes et
enjeux” (Tiếng Pháp)- Tố cáo ở nơi làm việc: các cách thức và những được mất- của
Jean-Patrice Desjardins. Nghiên cứu này được thực hiện với sự tài trợ của Quỹ
nghiên cứu về xã hội và văn hóa Canada (FQRSC), thực hiện tháng 4/2007, xem tại:
[134]. Nghiên cứu này
hữu ích đối với những người muốn nghiên cứu cơ bản và nhanh chóng về các cơ chế,
cách thức tố cáo do các tổ chức công thực hiện. Tác giả nghiên cứu khá sâu sắc về
khái niệm tố cáo, trong đó giới thiệu nhiều khái niệm của những nhà lý thuyết và thực
tiễn, đồng thời tác giả cũng đưa khái niệm của mình về tố cáo. Tài liệu cũng trình bày
cách thức tố cáo gắn với định nghĩa đã đưa ra. Bên cạnh đó, tác giả đi sâu vào phân
12


tích vai trò của các cơ quan có liên quan đến giải quyết tố cáo và các tổ chức bảo vệ
người tố cáo. Tác giả cũng dự liệu những được mất cơ bản liên quan đến tố cáo.
Tài liệu nghiên cứu “Whistleblowing: an effective tool in the fight against
corruption” – Tố cáo: một công cụ hiệu quả chống tham nhũng do Tổ chức minh
bạch quốc tế tiến hành vào tháng 1 năm 2010, đăng trên www. http://
transparency.org [128]. Trên cơ sở phân tích khái niệm về tố cáo, vai trò của tố cáo
trong đấu tranh chống tham nhũng, người viết cho thấy sự cần thiết phải có pháp luật
phù hợp về tố cáo cũng như các cơ chế hành động hiệu quả sau tố cáo trong các tổ
chức công và tư. Tài liệu nghiên cứu đã thể hiện quan điểm của Tổ chức minh bạch
quốc tế về tố cáo và bảo vệ người tố cáo.
Tài liệu nghiên cứu “International Principles For Whistleblower Legislation:

Best Practices for Laws to Protect Whistleblowers and Support Whistleblowing in
The Public Interest” - Các nguyên tắc quốc tế đối với pháp luật về người tố cáo: thực
tiễn tốt về pháp luật nhằm bảo vệ người tố cáo và khuyến khích tố cáo vì lợi ích chung
- do Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) xuất bản năm 2013 [131]. Tài liệu được hoàn
thiện bởi các chuyên gia về tố cáo, quan chức chính phủ, giới học thuật, các tổ chức
phi chính phủ của nhiều quốc gia, nó có tác dụng lớn đối với việc nghiên cứu để soạn
thảo các dự luật mới và hoàn thiện các dự luật đang có về tố cáo ở các quốc gia. Tổ
chức Minh bạch Quốc tế đưa ra những nguyên tắc để bảo đảm cho những người tố
cáo được bảo vệ, các nguyên tắc được đưa ra trên cơ sở xem xét đến pháp luật hiện
hành, cách áp dụng chúng trong thực tế.
Tài liệu hội thảo “Dénonciations et dénonciateurs de la corruption Chevaliers
blancs, pamphlétaires et promoteurs de la transparence à l’époque contemporaine”Tố cáo và người tố cáo tham nhũng, hiệp sĩ, người đả kích và người khởi xướng minh
bạch thời kì hiện đại - Dự án do Cơ quan nghiên cứu quốc gia Pháp (ANR) tài trợ
được tổ chức ngày 17, 18/11/2016 tại Pháp [132]. Tài liệu nghiên cứu đề cập đến
người tố cáo là những người có đóng góp được trông đợi nhiều, bao gồm các nhà báo
và những người làm truyền thông, các hiệp sĩ, người đả kích, nhà văn tiểu luận, chính
trị gia, công chức, thẩm phán và cảnh sát…; cách thức thực hiện việc tố cáo; thời
điểm và nội dung tố cáo. Việc nghiên cứu nói đến khái niệm tham nhũng không gắn
13


với các hình thức mua bán mà với những đánh giá về các vấn đề rộng hơn, liên quan
đến đạo đức công dân và tính trung thực trong lĩnh vực công. Từ cuối thế kỉ XVIII
đến đầu thế kỉ XIX, những tố cáo này gắn với các hoạt động của nhiều nhân tố thực
hiện việc phê bình đối với các nhà lãnh đạo và những người “có quyền lực”. Họ tố cáo
từ thực tiễn sử dụng quyền lực được cho là vô đạo đức gắn với các chính trị gia hoặc
các thành viên của xã hội dân sự, giới doanh nghiệp. Xem tại trang:
/>nciateurs_nov16.pdf.
Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về lý luận bảo đảm quyền tố cáo của
công dân hầu hết đề cập đến quan niệm, vai trò của tố cáo, sự cần thiết phải bảo vệ

người tố cáo; quy định về tố cáo trong các điều ước quốc tế, pháp luật các quốc gia...
điều này có giá trị với tác giả khi nghiên cứu trong mối so sánh với những quan niệm,
quy định pháp luật của Việt Nam về việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
1.1.2 Các công trình nghiên cứu về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của
công dân
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo
của công dân
Các công trình về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân được các tác
giả trong nước nghiên cứu khá nhiều, đặc biệt là của các tác giả công tác trong các cơ
quan có thẩm quyền liên quan đến bảo đảm quyền tố cáo của công dân. Bên cạnh việc
thực thi công vụ, các tác giả chú trọng nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để phổ biến kinh
nghiệm, có thể kể đến các công trình sau:
Cuốn sách “Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
tình hình mới” của Thanh tra Chính phủ, năm 2006, NXB. Chính trị Quốc gia [73].
Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các tác giả về một số vấn đề đặt ra đối với công
tác tiếp dân, xử lý đơn thư, GQTC trong tình hình mới và kinh nghiệm thực tiễn của
các ngành, các địa phương. Nội dung của các bài viết liên quan nhiều đến việc thực
hiện các phương thức BĐQTC của công dân ở những lĩnh vực nhạy cảm như: tố cáo
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; tố cáo của đồng bào thiểu số; tố cáo về đất đai ở
các ngành, địa phương và tình trạng tố cáo đông người.
14


Đề tài khoa học cấp cơ sở “Cơ chế bảo vệ người tố cáo” của Vụ Pháp chế Thanh tra Chính phủ, thực hiện năm 2010 [76]. Thông qua việc nghiên cứu cơ chế
bảo vệ người tố cáo, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ người tố cáo; thực
trạng quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo; thực tiễn công tác bảo vệ người tố
cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đề tài xác định những hạn chế, khó khăn
trong việc bảo vệ người tố cáo hiện nay và đề xuất các biện pháp tăng cường hiệu quả
công tác bảo vệ người tố cáo. Có thể thấy đây là đề tài nghiên cứu khá toàn diện về
bảo vệ người tố cáo và là đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên về vấn đề này. Tuy

nhiên, trong khuôn khổ của một đề tài cấp cơ sở nên nhiều vấn đề liên quan đến bảo
vệ người tố cáo chưa thực sự sâu sắc.
Đề tài khoa học cấp bộ “Xử lý các hành vi vi phạm luật khiếu nại, tố cáo những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Thanh tra Chính phủ, năm 2011 [77]. Từ thực
tế liên quan đến việc nhiều quyết định GQTC có hiệu lực pháp luật không được tổ
chức thực hiện nghiêm; việc xử lý người có hành vi vi phạm không kịp thời, thiếu
kiên quyết, còn có tình trạng bao che, dung túng; những hành vi vi phạm pháp luật về
tố cáo chưa được mô tả cụ thể; chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe..., đề tài tập trung
nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về thực trạng vi phạm và việc xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về tố cáo, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này. Đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị
với tác giả luận án trong việc nghiên cứu thực trạng thực hiện các quy định pháp luật
về bảo đảm, bảo vệ QTC của công dân ở nước ta hiện nay.
Đề tài khoa học cấp bộ “Trách nhiệm pháp lý của chủ tịch UBND các cấp
trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng”
của Thanh tra Chính phủ, năm 2011 [79]. Thông qua việc làm rõ căn cứ xác định
trách nhiệm pháp lý, các thủ tục xác định trách nhiệm pháp lý của chủ tịch UBND các
cấp trong công tác thanh tra, GQTC, đề tài phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện
pháp luật về trách nhiệm pháp lý của chủ tịch UBND các cấp trong công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, từ đó rút ra ưu điểm, hạn
chế, xác định những nguyên nhân. Trên cơ sở này, đề tài đề xuất việc hoàn thiện các
quy định pháp luật về xử lý hành vi vi phạm pháp luật của chủ tịch UBND các cấp
15


trong công tác GQTC.
Đề tài khoa học cấp bộ “Ngăn chặn, phòng ngừa sai phạm về tố cáo và GQTC
trong Đảng” năm 2014 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương [104]. Qua thực tiễn công
tác, các tác giả đã nhận diện được những biểu hiện sai phạm khi GQTC trong Đảng,
đó là: trả thù, trù dập người tố cáo; dìm bỏ đơn tố cáo; đùn đẩy, chuyển đơn tố cáo
lòng vòng; tiết lộ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo; tiết lộ nội dung tố cáo, nội

dung làm việc hoặc tài liệu, thông tin liên quan đến việc tố cáo và GQTC cho tổ chức,
cá nhân không có trách nhiệm biết; vi phạm trong thẩm tra, xác minh để GQTC; nhận
là chủ trương, nghị quyết của tập thể để gánh tội cho người bị tố cáo; chuyển kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm đối với đơn tố cáo có tên; cho kết thúc đơn tố cáo sau khi sơ
bộ nắm tình hình; xuất hiện lợi ích nhóm trong GQTC…. Có thể nói đề tài là sự tổng
kết thực tiễn sinh động, phản ánh chân thực những sai phạm trong hoạt động GQTC.
Đồng thời, các tác giả cũng liệt kê những biện pháp đã áp dụng để xử lý những vi
phạm về GQTC và đề xuất những giải pháp mới, mang tính tổng thể nhằm ngăn chặn,
phòng ngừa sai phạm về tố cáo và GQTC trong Đảng. Các sai phạm về tố cáo và
GQTC trong Đảng được các tác giả liệt kê ở trên cũng tương đồng với các sai phạm
khi GQTC theo luật tố cáo, do đó đề tài là tài liệu tham khảo rất có giá trị để tác giả
luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng các vi phạm về BĐQTC, trên cơ sở đó đề xuất
giải pháp thúc đẩy, bảo vệ QTC của công dân.
Đề tài khoa học cấp bộ "Giám sát công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
chính ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp" của Thanh tra Chính phủ, 2017
[86]. Các tác giả cho rằng hoạt động giám sát GQTC hành chính đóng vai trò là
phương thức bảo đảm pháp chế đối với công tác GQTC, cũng như bảo đảm thực hiện
QTC; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan có chức năng giám sát trong công tác
GQTC hành chính là một yêu cầu khách quan, phù hợp với nguyên tắc, yêu cầu của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Qua việc phân tích, đánh giá
thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về giám sát
công tác GQTC, những kết quả, tồn tại và nguyên nhân, các tác giả đề xuất nhiều giải
pháp hoàn thiện cơ chế giám sát công tác GQTC trong tình hình hiện nay nhằm tăng
cường BĐQTC. Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích cho luận án khi tác giả nghiên
16


cứu về các cơ chế bảo vệ QTC trong pháp luật.
Luận án Tiến sĩ “Pháp luật bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện nay” của Mai
Văn Duẩn, năm 2017 [19], Luận án Tiến sĩ "Bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng

ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Văn Sỹ, năm 2018, đây là hai công trình nghiên
cứu công phu về thực trạng pháp luật Việt Nam đối với việc bảo vệ người tố cáo. Tác
giả chỉ ra nhiều điểm bất cập trong các quy định của hệ thống pháp luật nước ta cũng
như việc tổ chức bảo vệ người tố cáo, điều đó cho thấy QTC của công dân chưa được
đảm bảo nên người dân chưa yên tâm khi tố cáo, đặc biệt là tố cáo về tham nhũng. Tác
giả cũng đề xuất nhiều giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật để BĐQTC của
công dân, đặc biệt ở khía cạnh bảo vệ người tố cáo.
Các bài viết đăng trên tạp chí khoa học: Xử lý hành vi vi phạm theo quy định
của Luật khiếu nại, tố cáo - khó khăn trong thực tiễn áp dụng của Nguyễn Thị Bích
Hường đăng trên Tạp chí Thanh tra số 8, 2010 [37]; Cả hệ thống chính trị cần vào
cuộc để tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài,
Bảo Anh - Quang Vững, Tạp chí Thanh tra số 5, 2012 [3]; Một số bất cập trong các
quy định của Luật Tố cáo năm 2011 và hướng hoàn thiện của Cao Vũ Minh, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 4, 2016 [48];Các quy định về bảo vệ người tố cáo tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Lê Thu, Tạp chí Thanh tra số 9, 2017
[69]; Kinh nghiệm bảo vệ người tố cáo trong pháp luật quốc tế và một số quốc gia,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4/2017 của tác giả Mai Văn Duẩn [18]; Dự thảo
Luật Tố cáo sửa đổi và vấn đề tố cáo nặc danh, mạo danh của TS Cao Vũ Minh, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp số 11, 2018 [49]; Quy định về bảo vệ người tố cáo ở một số
quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo ở Việt
Nam của Nguyễn Thị Hồng Thúy, Tạp chí Thanh tra số 03/2018 [67; Bàn về tố cáo
nặc danh và xử lý tố cáo nặc danh của Đinh Văn Minh, Tạp chí Thanh tra số 3, 2018
[51]; ... Các bài viết tập trung nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực trạng tổ
chức thực hiện pháp luật về tố cáo để BĐQTC của người dân như: phạm vi điều
chỉnh, thẩm quyền GQTC, thủ tục GQTC, hình thức tố cáo, thời hạn GQTC, tố cáo
tiếp và bảo vệ, xử lý hành vi vi phạm trong tố cáo; khen thưởng người tố cáo... các
tác giả đã phác họa bức tranh khá rõ nét về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của
17



công dân ở Việt Nam.
Nhóm công trình nghiên cứu của nước ngoài về thực trạng bảo đảm quyền tố
cáo của công dân
Cuốn sách “Whistleblowing Around the World: Law, Culture And Practice” Tố cáo ở các nước trên thế giới: pháp luật, văn hóa và thực tiễn, của Phó Giáo sư
Richard Calland, Khoa luật công, Đại học Cape Town, Cộng hòa Nam Phi, xuất bản
năm 2004 [124]. Trên cơ sở những ví dụ điển hình trên toàn cầu về tố cáo, tác giả đưa
ra những lời khuyên thực tế liên quan đến tố cáo, những lý do khuyến khích cũng như
cản trở người tố cáo ở các nước trên thế giới; đồng thời tác giả cũng cho thấy dù người
tố cáo phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngày càng có nhiều người sẵn sàng lên
tiếng về nạn tham nhũng và quan liêu nơi công sở, kể cả khi họ bị sa thải và mất an
toàn. Bên cạnh đó, tác giả cũng làm rõ vai trò của tố cáo đối với những nhà làm luật và
hoạt động xã hội ở châu Mỹ, Úc, Nam Phi, Anh và Nhật Bản.
Cuốn sách “Whistleblowing in Philippines: Awareness, Attitudes and
Structures” - Tố cáo ở Phi-líp-pin: nhận thức, thái độ và cơ cấu do Viện quản lý châu
Á xuất bản tháng 6 năm 2006 [117] đề cập đến cơ sở và lý do của việc tố cáo tham
nhũng, đồng thời nhận định các nhân tố thúc đẩy và hạn chế sự phát triển của văn hóa
tố cáo ở Phi-líp-pin. Cuốn sách đề xuất các giải pháp nhằm thay đổi về chính sách và
hướng đi để giải quyết các trở ngại khi người dân tố cáo, cũng như các giải pháp về
cách thức áp dụng việc tố cáo tham nhũng hiệu quả.
Cuốn sách “Whistleblower protection framworks, compendium of best
practices and guiding principles for legislation”, do Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) xuất bản năm 2010 [123]. Cuốn sách là tập hợp những bài học kinh
nghiệm cho các quốc gia thành viên trong cam kết bảo vệ người tố cáo qua việc tập
trung nghiên cứu cơ chế bảo vệ người tố cáo của các nước G20 và phân tích, so sánh
cơ chế bảo vệ người tố cáo trong cả khu vực công và khu vực tư của các nước này.
Cuốn sách “Whistleblowing: A Practical Guide” - Cẩm nang thực tiễn về tố
cáo - của Brian Martin xuất bản năm 2013 bởi Irene Publishing Sparsna’s, Sweden
[118] nghiên cứu chuyên sâu về cuộc đấu tranh của một số cá nhân và cuộc sống của
họ từ khi bắt đầu thực hiện quyền tố cáo; hướng dẫn các cách thức để người tố cáo lựa
18



chọn, chuẩn bị hành động, triển khai các chiến dịch âm thầm, đàm phán với các kênh
chính quy, xây dựng lực lượng ủng hộ và các cách để vượt qua khó khăn trong quá
trình tố cáo.
Như vậy, từ việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu đã liệt kê ở trên cho thấy,
các tác giả đã phản ánh một cách sinh động, phong phú thực tiễn vi phạm và xử lý vi
phạm pháp luật để hướng tới việc BĐQTC của công dân, tạo ra một cơ chế bảo vệ
người tố cáo tốt nhất, phù hợp với đặc điểm, tình hình về chính trị, pháp lý và văn hóa,
xã hội ở Việt Nam cũng như các nước được nghiên cứu. Đây là những nguồn tư liệu
tham khảo có giá trị trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án về BĐQTC của công
dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
1.1.3 Các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp tăng cường bảo
đảm quyền tố cáo của công dân
Trong hầu hết các công trình nghiên cứu về BĐQTC của công dân, các tác giả
đều đề xuất các giải pháp bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền tố cáo, tuy ở các mức độ
khác nhau nhưng các giải pháp đều khá toàn diện, tập trung vào các nhóm giải
pháp sau:
Nhóm các công trình trong nước nghiên cứu về giải pháp nâng cao ý thức
pháp luật về quyền tố cáo của công dân
Đề tài khoa học cấp bộ “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng của Thanh tra
Chính phủ” năm 2012 của Thanh tra Chính phủ [80] tập trung nghiên cứu nhiều giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tố cáo, với
mục đích không chỉ công dân mà những cá nhân có thẩm quyền đều cần nâng cao ý
thức pháp luật, thể hiện ở việc hiểu rõ được quyền và nghĩa vụ của người tố cáo,
người bị tố cáo, người GQTC.
Bài viết “Tâm lý người khiếu nại, tố cáo và việc ứng xử của cán bộ tiếp dân”
của Hồng Bàng, đăng trên Tạp chí Thanh tra số 7/2012 [4]. Theo tác giả, tâm lý của
người tố cáo rất phức tạp; người tố cáo có nhiều mục đích, yêu cầu, động cơ khác

nhau, cho nên cán bộ làm công tác tiếp công dân, GQTC cần nắm vững tâm lý người
tố cáo, nắm vững chính sách pháp luật, quy trình giải quyết, biết lắng nghe, tôn trọng
19


dân, bình tĩnh và linh hoạt xử lý từng vụ việc, đồng thời luôn làm chủ trong mọi tình
huống để góp phần nâng cao hiệu quả GQTC, bảo đảm quyền dân chủ của công dân.
Bài viết bao quát khá đầy đủ những kỹ năng cần có của cán bộ GQTC.
Bài viết “Vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về thanh tra, khiếu
nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng” của Uông Ngọc Thuẩn, đăng trên Tạp chí
Thanh tra số 2/2014 [91] nêu khá cụ thể về vai trò cũng như thực trạng của việc phổ
biến, giáo dục pháp luật về tố cáo. Tác giả cho rằng “Phổ biến, giáo dục pháp luật về
thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng cổ vũ cho việc hình thành,
củng cố và không ngừng phát triển ý thức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, bảo vệ tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật, tính trong sạch của bộ máy nhà
nước, tính công bằng xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”. Bài viết đã phần nào đề
cập đến ý thức pháp luật của người dân về vấn đề tố cáo chưa cao.
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp luật để
bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
Đây là nhóm có số lượng công trình nghiên cứu tương đối nhiều, bên cạnh một
số luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học, thì chủ yếu là các bài viết trên tạp chí khoa
học, các công trình có thể kể đến như sau:
Cuốn sách “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo” của tác giả Trần Văn Sơn, NXB. Tư pháp, năm 2007 [60]. Trên cơ
sở phân tích, tổng kết lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố cáo, đánh giá
tình hình tố cáo và thực trạng pháp chế trong hoạt động GQTC của các cơ quan hành
chính nhà nước, tác giả đề xuất những giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong hoạt động GQTC, trong đó đặc biệt chú trọng đến các giải pháp về xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo.
Cuốn sách "Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay" do

GS.TS. Phạm Hồng Thái, PGS.TS Phạm Công Giao, PGS.TS Đặng Minh Tuấn, TS.
Nguyễn Minh Tuấn (đồng chủ biên), NXB. Chính trị Quốc gia, 2017 [64]. Các tác giả
đã đi từ việc giới thiệu các quy định pháp luật về tố cáo, thực trạng hoạt động tố cáo và
áp dụng pháp luật về tố cáo, để đề xuất hoàn thiện pháp luật tố cáo ở nước ta hiện nay.
Đề tài khoa học cấp bộ "Đổi mới cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay” của Thanh
20


tra Chính phủ, năm 2009 [75]. Trên cơ sở lý luận về cơ chế GQTC, đề tài đi sâu phân
tích về tình hình tố cáo, kết quả GQTC và thực trạng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật về GQTC của các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó làm rõ những tồn tại và
bất cập của cơ chế GQTC, đặc biệt đề tài đưa ra những giải pháp hiệu quả để đổi mới
cơ chế GQTC hiện nay, đặc biệt là nhiều giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật
về tố cáo.
Luận án tiến sĩ: "Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam" của Ngô Mạnh Toan, năm 2007 [93]. Trên cơ
sở những phân tích khá sâu sắc những vấn đề lý luận về tố cáo, GQTC và thực trạng
việc áp dụng pháp luật tố cáo ở Việt Nam, tác giả đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật tố cáo, nâng cao năng lực giải quyết tố cáo.
Luận án tiến sĩ “Tăng cường hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thế Thuần, năm 2001 [90]; Luận án
tiến sĩ “Giải quyết khiếu nại, tố cáo - phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong
quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Duy Duẩn, năm 2014 [20].
Hai luận án là những nghiên cứu khá toàn diện về pháp luật tố cáo. Trên cơ sở phân
tích khá sâu sắc những vấn đề lý luận về tố cáo, GQTC và thực trạng việc áp dụng
pháp luật tố cáo ở Việt Nam, các tác giả đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật tố cáo.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo
ở Việt Nam hiện nay” của Hồ Thị Thu An, năm 2009 [1]. Bằng việc nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về tố cáo và GQTC hành chính, tác giả đã đề xuất những
giải pháp hoàn thiện pháp luật về tố cáo và GQTC hành chính ở nước ta. Luận văn

phần nào đề cập đến việc BĐQTC của công dân, qua việc khẳng định các cơ quan có
thẩm quyền cần thực hiện đúng pháp luật về GQTC để bảo đảm quyền và lợi ích cho
người tố cáo.
Kỷ yếu hội thảo khoa học "Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta
hiện nay" được Ban Dân nguyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phối hợp với Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức vào tháng 7 năm 2016 [7]. Kỷ yếu là tập hợp
các bài viết khoa học của các chuyên gia, nhà nghiên cứu về tố cáo, QTC, trong đó có
nhiều bài viết tập trung nghiên cứu các phương thức BĐQTC, cơ chế thúc đẩy, bảo vệ
21


×