Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Bài tập học kì hình sự 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.21 KB, 7 trang )

Tình huống:
Bài 4:
K có hành vi cướp giật tài sản của người khác có giá trị 50 triệu đồng. Hành
vi phạm tội của K được quy định tại khoản 2 Điều 136 BLHS. K bị tòa án xử phạt
3 năm tù.
1.

Trường hợp phạm tội của K là loại tội gì theo sự phân loại tội phạm (khoản 3

Điều 8 BLHS).
2.
Hành vi phạm tội của K thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng
hay CTTP giảm nhẹ? Tại sao?
3.
Nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì K có phải chịu TNHS về hành vi của mình
không? Tại sao?
4.
Nếu K đang bị mắc bệnh tâm thần thì K có phải chịu TNHS về hành vi của
mình không? Tại sao?
5.
Có thể cho K hưởng án treo không? Tại sao?

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG:
1.

Trường hợp phạm tội của K là loại tội gì theo sự phân loại tội phạm

(khoản 3 Điều 8 BLHS).
Để phân loại tội phạm đối với trường hợp phạm tội của K, ta cần dựa vào
các căn cứ sau:


Khoản 3 Điều 8 BLHS
1




Khoản 2 Điều 136 BLHS
BLHS căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và mức cao

nhất của khung hình phạt đối với các tội phạm, khoản 3 Điều 8 BLHS đã chia tội
phạm thành bốn loại sau: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình”. Như vậy, căn cứ để phân loại tội phạm đối với một tội là dựa vào mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội đấy.
Trong trường hợp này, tội cướp giật tài sản mà K vi phạm được quy định tại
khoản 2 Điều 136 BLHS:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ

thương tật từ 11% đến 30%;
g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng;
h) Gây hậu quả nghiêm trọng.”

2


Người phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLHS thì bị phạt tù từ
ba năm đến mười năm. Với mức cao nhất của khung hình phạt là mười năm tù, căn
cứ khoản 3 Điều 8 BLHS, tội phạm này là tội rất nghiêm trọng.
Vậy trường hợp phạm tội của K là loại tội phạm rất nghiêm trọng.
2.
Hành vi phạm tội của K thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP tăng
nặng hay CTTP giảm nhẹ? Tại sao?
Trước tiên, ta phải khẳng định hành vi phạm tội của K thuộc trường hợp
CTTP tăng nặng. Với tội cướp giật tài sản thì cấu thành tội phạm cơ bản là tội
phạm thuộc khoản 1 Điều 136 BLHS, chỉ có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội
phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác. Người phạm tội chỉ cần thực hiện
đầy đủ hành vi quy định tại khoản 1 thì đã đủ yếu tố để cấu thành tội phạm, tức là
tội phạm đã hoàn thành mà không nhất thiết phải đã gây ra hậu quả hay chưa. Và
khi hành vi của người phạm tội đã thỏa mãn các yếu tố này thì mới xem xét đến
các tình tiết quy định tại các khoản 2, 3, 4 của Điều luật này. Theo đó thì hình phạt
tương ứng có xu hướng tăng dần. Như vậy, khoản 2 Điều 136 BLHS thuộc loại cấu
thành tội phạm tăng nặng , ngoài dấu hiệu định tội đã ghi trong khoản 1 còn có
thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội tăng
lên một cách đáng kể. Mà theo như trong tình huống đã cho thì K phạm tội cướp
giật tài sản quy định tại khoản 2 Điều 136 BLHS. Vậy nên, hành vi phạm tội của K
thuộc trường hợp CTTP tăng nặng.
3.

Nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì K có phải chịu TNHS về hành vi của
mình không? Tại sao?
Nếu K mới 15 tuổi 6 tháng thì K vẫn phải chịu TNHS về hành vi của mình.
Bởi vì, theo quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.”
Trong trường hợp này, K 15 tuổi 6 tháng đã là người từ đủ 14 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ 16 tuổi. Vì vậy, K chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
3


trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Mà theo như câu 1 thì tội cướp
giật tài sản mà K phạm phải là tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Vậy nên, mặc dù
K mới 15 tuổi 6 tháng nhưng K vẫn phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của
mình.
4.
Nếu K đang bị mắc bệnh tâm thần thì K có phải chịu TNHS về hành vi
của mình không? Tại sao?
Để biết được K có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình không
trong trường hợp đang bị mắc bệnh tâm thần thì ta phải dựa vào căn cứ tại Điều 13
BLHS:
“1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người
này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm
vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu

trách nhiệm hình sự.”
Như vậy, có hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự: Dấu hiệu y học (mắc bệnh) và dấu hiệu tâm lí (mất năng lực nhận
thức hoặc năng lực điều khiển hành vi).
Về dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm
thần.
Về dấu hiệu tâm lí: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự là người đã mất năng lực hiểu biết những đòi hỏi của xã hội liên quan đến
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá
hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Và như vậy, họ
cũng không thể có được năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội để thực hiện xử sự khác phù hợp với cái đòi hỏi của xã hội.
4


Chỉ được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi
đồng thời cả hai dấu hiệu y học và tâm lí đều thỏa mãn. Hai dấu hiệu này tuy có
quan hệ với nhau, trong đó dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân và dấu hiệu
tâm lí có vai trò là kết quả nhưng không có nghĩa đã mắc bệnh tâm thần là đều dẫn
đến việc mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển. Năng lực này có
mất hay không, không những phụ thuộc vào loại bệnh mà còn phụ thuộc vào mức
độ bệnh và vào tính chất của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện. Có loại
bệnh tâm thần luôn làm mất năng lực trách nhiệm hình sự, có loại bệnh chỉ làm
mất năng lực này khi bệnh ở mức độ nhất định và có loại bệnh hoàn toàn không
làm mất năng lực này.
Nếu K đang bị mắc bệnh tâm thần thì K mới thỏa mãn dấu hiệu y học. Như
vậy, ở đây sẽ xảy ra hai trường hợp:
Trường hợp1: “K đang mắc bệnh tâm thần và có trong trạng thái bệnh khi
thực hiện hành vi, mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển hành vi”.

Trong trường hợp này, K đã thỏa mãn đồng thời cả hai dấu hiệu y học và tâm
lí nên K được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự và vì
vậy K không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình mà chỉ bị áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh theo như quy định tại khoản 1 Điều 13 BLHS.
Trường hợp 2: “K đang mắc bệnh tâm thần nhưng không trong trạng thái
bệnh khi thực hiện hành vi, không mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều
khiển hành vi”.
Trong trường hợp này, K chỉ thỏa mãn dấu hiệu y học mà không thỏa mãn
dấu hiệu tâm lí nên K không được coi là trong tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự và vì vậy K vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình
sau khi đã được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và đã khỏi bệnh theo như
quy định tại khoản 2 Điều 13 BLHS.
5.
Có thể cho K hưởng án treo không? Tại sao?
Để biết được có thể cho K hưởng án treo hay không thì ta cần dựa vào căn
cứ quy định tại Điều 60 BLHS:
5


“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một
năm đến năm năm.
2. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ
quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó
thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối
hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục
người đó.
3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt
tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo

quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử
thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
giám sát và giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử
thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và
tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật
này”.
Như vậy, để có thể được hưởng án treo thì K phải thỏa mãn 4 điều kiện sau:
a)
Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì.
Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp
hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án
treo.
b)

Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn

chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân;
chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ
ràng.
6


c)

Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng,

trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS.
Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm

nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên.
d)
Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm
cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
Trong trường hợp này, K bị tòa án xử phạt 3 năm tù nên K đã thỏa mãn được
điều kiện thứ nhất. Như vậy, nếu K cũng thỏa mãn được 3 điều kiện còn lại thì K
có thể được hưởng án treo theo quy định tại Điều 60 BLHS.

7



×