Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.67 KB, 12 trang )

Mục lục
Mục lục...................................................................................................................................1
Danh mục tài liệu tham khảo................................................................................................12

A. MỞ ĐẦU
Khi xã hội ngày càng phát triển thì kèm đó là những thay đổi của các quan
hệ xã hội trong đó có các quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng. Pháp luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam đã có những quy định về chế độ sở hữu tài
sản giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, pháp luật về vấn đề này còn những hạn
chế nhất định cả về lý luận với thực tiễn khách quan. Vậy thực trạng về
việc áp dụng pháp luật về việc phân chia tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng và hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ra sao, sau đây em xin
được đi vào nghiên cứu và trình bày đề tài: “ Xác định tài sản chung, tài
sản riêng của vợ chồng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này.” Tuy vậy, bài viết của em còn rất nhiều thiếu xót, rất mong nhận
được sự góp ý của thầy cô và các bạn!
1


B. NỘI DUNG
I.

Khái quát chung quyền sở hữu tài sản của vợ chồng.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định vợ chồng có quyền sở hữu đối
với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và vợ, chồng có quyền sở hữu đối với
tài sản riêng.
Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ
chồng và các văn bản hướng dẫn đi kèm như Nghị định số 70/2001/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nhị quyết
số 02/HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia


đình. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng gồm các tài sản như sau:
- Tài sản do vợ, chồng tạo ra thu nhập do lao động sản xuất, kinh
doanh trong thời kì hôn nhân;
- Thu nhập khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân có thể là: tiền
lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng xổ số mà vợ, chồng có
được hoặc tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo bộ
luật dân sự năm 2005;
- Các tài sản mà vợ, chồng mua sắm được từ thu nhập nói trên;
- Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung hoặc thừa kế nói chung;
- Tài sản mà vợ, hoặc chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản
mà vợ, chồng được thừa kế riêng hay tăng cho riêng nhưng vợ chồng
đã thỏa thuận để sát nhập vào khối tài sản chung.
Như vậy, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể
phân chia. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền
sở hữu của mỗi chủ thể không được xác định đối với tài sản chung.
Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng
“ 1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết
hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;

2


tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và
Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung.”
Như vây, luật hôn nhân và gia đình đã khẳng định vợ chồng có quyền có tài
sản riêng và xác định rõ nguồn gốc phát sinh tài sản riêng. Chỉ những tài sản
mà vợ hoặc chồng có từ trước khi kết hôn, tài sản mà vợ hoặc chồng được

thừa kế hoặc tăng cho riêng trong thời kì hôn nhân, tài sản mà vợ hoặc chồng
được chia từ khối tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân và
những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ những tài sản đó, đồ dung tư trang cá nhân
mới được coi là tài sản riêng của vợ hoặc chồng.
Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã xác định rõ chế độ tài sản
của vợ, chồng gồm sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất và sở
hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng. Đây là chế độ tài sản mà pháp luật đã
quy định. Vợ chồng không thể tự thỏa thuận để làm thay đổi chế độ tài sản
của họ. Đây cũng là căn cứ để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng.
II.

Nguyên nhân của thực trạng về việc xác tài sản chung, tài sản
riêng của vợ chồng

Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng là các loại tài sản mà pháp luật
quy định phải đăng kí quyền sở hữu như nhà ở, quyền sử dụng đất và các loại
tài sản có giá trị khác,... khi đăng kí quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng thì
phải ghi tên cả vợ và chồng.Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan
trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới
ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...), song cũng không
phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở
hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng
(như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Điều này gây khó khăn rất nhiều

3


trong việc xác định tài sản nào là tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng.
Đồng thời cũng là nguyên nhân chính dẫn đến các tranh chấp khi vợ chồng ly

hôn hoặc phân chia tài sản.
Theo số liệu điều tra thì đa phần vẫn là người đàn ông, người chồng trong gia
đình đứng tên giấy tờ sở hữu. Thực trạng này đã tạo ra sự bất bình đẳng đối
với người phụ nữ. Không có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu dẫn đến
hệ lụy: người phụ nữ khó chứng minh hoặc không chứng minh được quyền sở
hữu tài sản của mình. Tuy nhiên, cũng đã có những dự báo chứng tỏ mối quan
hệ giữa vợ và chồng về quyền sở hữu tài sản lớn trong gia đình đã dần dần
thay đổi, xu hướng phụ nữ ngày càng có nhiều quyền sở hữu các tài sản của
hộ gia đình hơn. Đối với các tài sản lớn như nhà ở, ô tô, xe máy thì trong
tương quan với người chồng, người phụ nữ ở thành thị chiếm tỷ lệ cao hơn ở
nông thôn; đối với ghe thuyền, thì người phụ nữ ở thành thị chiếm tỷ lệ thấp
hơn nông thôn, do sự phân công lao động xã hội ở thành thị khác nông thôn.
Tình trạng này xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, đối với tài sản chung của vợ chồng đăng kí quyền sở hữu trước
ngày Nghị định số 70/2001/NĐ-CP có hiệu lực (ngày 18/10/2001) hoặc trước
khi các luật chuyên ngành có hiệu lực, do chưa có quy định rõ ràng nên có
nhiều trường hợp trong giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc giấy chứng nhận
quyền sử dụng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng.
Thứ hai, do quy định của pháp luật về điều kiện được đăng kí quyền sở hữu
đối với một số loại tài sản có tính đặc thù như nhà ở, quyển sử dụng đất, tài
sản trí tuệ. Đối với nhà ở, quyền sử dụng đất, trước khi có Luật nàh ở năm
2005 và Luật đất đai năm 2003, pháp luật quy định người đăng kí là chủ sở
hữu nhà ở hoặc chủ sử dụng đất phải có hộ khẩu thường trú tại nơi có bất
động sản nên khi đăng kí quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng bất động sản nên
khi đăng kí quyền sở hữu hoặc sử dụng bất động sản đó lại chỉ ghi tên của bên
kia. Cũng có trường hợp vợ hoặc chồng là người nước ngoài không thuộc
4


diện được sở hữu nhà ở hoặc không thuộc diện được nhà nước giao đất thì

nhà ở hoặc quyền sử dụng đât là tài sản chung của vợ chồng nhưng khi đăng
kí quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng lại chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng.
Đối với tài sản chung của vợ chồng là tài sản trí tuệ thì tài sản đó chỉ do một
bên vợ hoặc chồng sáng tạo ra trong thời kì hôn nhân nên theo quy định của
pháp luật khi đăng kí kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu
hàng hóa, quyền tác giả…chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng đã sáng tạo ra tài sản
đó.
Thứ ba, do chưa thấy hết ý nghĩa và tầm quan trọng của giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản đối với việc bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của vợ
chồng hoặc do quan niệm về vai trò của vợ, chồng trong gia đình chưa rõ ràng
nên tài sản đăng kí dù là tài sản chung của vợ chồng nhưng cơ quan đăng kí
chỉ ghi tên của một bên vợ chồng. Điển hình và phổ biến nhất là là các trường
hợp đăng kí quyền sử dụng đất ở và đất nông nghiệp ở nông thôn, miền núi và
quyền sở hữu đối với các phương tiện giao thông như ô tô, mô tô, xe máy, tàu
thủy.
Thực tế cho thấy khi vợ chồng chung sống hòa thuận và mọi giao dịch dân sự,
thương mại liên quan đến tài sản của vợ chồng đều được vợ chồng đều được
vợ chồng bàn bạc thỏa thuận vì lợi ích chung của gia đình thì việc tài sản ai
đứng tên chủ sở hữu dường như không có ý nghĩa. Nhưng khi vợ chồng mâu
thuẫn, hoặc cả hai bên không quan tâm đến lợi ích chung của gia đình hoặc
khi vợ chồng li hôn, khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân thì việc xác
định tài sản do một bên đúng tên chủ sở hữu là tài sản chung hay riêng mới
thực sự có ý nghĩa. Đối với các tài sản phát sinh trong thời kì hôn nhân và có
căn cứ để xác định là tài sản chung của vợ chồng nhưng trong giấy chứng
nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì
việc xác định tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của
người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu cần phải xem xét các yếu tố
đặc thù của tài sản và nguyên tắc xác định tài sản của vợ chồng.
5



Hiện có ý kiến cho rằng tài sản nào đó dù căn cứ vào nguồn gốc phát sinh
thì là tài sản chung của vợ chồng nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu
hoặc quyền sử dụng chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì tài sản đó không
thể xác định là tài sản chung. Tuy nhiên, ý kiến trên có phần không phù hợp
với thực trạng điều chỉnh pháp luật cũng như quan niệm, tập quán của người
Việt Nam. Vì vậy, cần phải có những thay đổi để hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này.
III.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề xác định
tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng.

Việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng cần xem xét đối với
từng loại tài sản cụ thể sau đây:
Đối với nhà ở:
Thực tế có nhiều trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở chỉ ghi
tên vợ hoặc chồng nhưng khi vợ chồng ly hôn hay yêu cầu chia tài sản chung
trong thời kì hôn nhân thì bên khồng có tên trong giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà cho rằng nhà đó là tái sản chung còn bên kia cho rằng đó là tài sản
riêng. Việc xác định nhà ở đó là tài sản chung hay riêng còn có nhiều tranh
cãi. Có ý kiến cho rằng cần áp dụng nguyên tắc quy định tại khoản 3 Điều 27
Luật hôn nhân và gia đinh năm 2000: Tài sản có tranh chấp mà không đủ
chứng cứ chứng minh là tài sản riêng của một bên thì tài sản đó là tài sản
chung. Nếu theo nguyên tắc này thì người có tên trong giấy chứng nhận mà
cho rằng nhà đó là tài sản riêng của họ thì họ phải chứng minh, chỉ khi họ
không chứng minh được thì đó mới là tài sản chung. Chúng tôi cho rằng áp
dụng khoản 3 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết thì
không thỏa đáng, bởi lẽ việc chứng minh tài sản là tài sản riêng có thể bằng
nhiều cách như: Đưa ra chứng cứ cho rằng nhà đó do người đứng tên có trước

khi kết hôn, được tặng cho riêng hoặc được thừa kế riêng trong thời kì hôn

6


nhân hoặc do họ mua được bằng tiền riêng. Tuy nhiên, với cơ chế quản lý bất
động sản cũng như quản lý nguồn thu nhập của cá nhân ở nước ta hiện nay thì
chứng minh những vấn đề trên không khó. Giả thiết rằng người đứng tên
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà lại đưa ra hợp đồng tặng cho bằng
văn bản của người than để chứng minh rằng họ đã mua nhà bằng một khoản
tiền được người thân tặng cho riêng thì đương nhiên nhà đó được xác định là
tài sản riêng của người đứng tên. Vì vậy, trong trường hợp này cả hai đều
không có nghĩa vụ chứng minh. Bên không có tên trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà chứng minh được rằng nhà đó do họ mua hoặc xây dựng
trong thời kì hôn nhân bằng những thu nhập chung của vợ chồng thì vẫn có
thể xác định nhà đó là tài sản chung của vợ chồng. Hoặc bên không có tên
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đưa ra những căn cứ cho rằng nhà
đó được mua hoặc được xây dựng trong thời kì hôn nhân bằng thu nhập là tài
sản chung của vợ chồng nhưng vì họ không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại
Việt Nam nên không được ghi tên thì đó vẫn phải được xác định là tài sản
chung của vợ chồng.
Đối với quyền sử dụng đất:
Đăng kí quyền sử dụng đất là ghi nhân quyền sử dụng đất hợp pháp đối với
thửa đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất. Khi chủ sử dụng đất đăng kí quyền sử dụng đất thì được
cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điều 48 Luật
đất đai năm 2003 quy định khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà
quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phải ghi họ tên của cả vợ và chồng. Tuy nhiên thực tế đã
tồn tại tại Việt Nam nhiều năm qua là tại các vùng nông thôn, miền núi khi

đăng kí quyền sử dụng đất thường chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng. Lý do
dẫn đến tình trạng này là do hệ thống pháp luật trước khi có Luật đất đai năm
2003 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chưa có quy định rõ ràng, do

7


pháp luật quy định những cá nhân không được giao đất ( giống như đối với
nhà ở đã phân tích ở trên). Ngoài ra còn có quan niệm cho rằng Nhà nước
giao đất (đất ở, đất nông nghiệp) là giao cho hộ gia đình mà hộ gia đình chủ
yếu gồm vợ chồng và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên chủ hộ,
do vậy chỉ có tên vợ hoặc chồng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việc xác định tài sản chung hay riêng của vợ, chồng đối với thửa đất do một
bên vợ hoặc chồng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên
thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Chúng tôi cho rằng việc xác định tài sản
chung, tài sản riêng trong trường hợp này cần phân biệt các trường hợp sau:
- Đối với đất ở, đất nông nghiệp (gồm đất trồng cây hằng năm, đất trồng
cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng , đất
nuôi trồng thủy sản, đất làm muối,…) mà vợ, chồng hoặc cả hai được nhà
nước giao trong thời kì hôn nhân thì dù trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chỉ ghi tên một bên nhưng vẫn được xác định là tài sản chung
của vợ chồng.
- Đối với đất ở, đất nông nghiệp mà vợ chồng cùng được chuyển nhượng,
được tặng cho hoặc được thừa kế nhưng do một bên không có hộ khẩu tại
địa phương nơi được giap đất hoặc không thuộc diện được Nhà nước giao
đất thì đó vẫn là tài sản chung của vợ chồng, bên vợ hoặc chồng không có
tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn là chủ sở hữu đối với
phần giá trị là quyền sử dụng đất đó.
Đối với tài sản là các phương tiện giao thông:
Pháp luật về giao thông đường bộ, đường thủy quy định các phương tiện

giao thông là nguồn nguy hiểm cao độ, phải được đăng kí quyền sở hữu. Nếu
các phương tiện giao thông là tài sản chung của vợ chồng thì khi đăng kí
quyền sở hữu phải ghi tên cả vợ và chồng. Tuy nhiên, còn rất nhiều tài sản
chung của vợ chồng là phương tiện giao thông nhưng trong giấy đăng kí
quyền sở hữu chỉ ghỉ ghi tên vợ hoặc chồng. Tình trạng này có hai nguyên
8


nhân chính: Thứ nhất, trước khi có Nghị định 70/2001/NĐ-CP, chưa có quy
định cụ thể rõ ràng về việc ghi tên cả hai vợ chồng trong các giấy chứng nhận
quyền sở hữu nên cơ quan đăng kí các phương tiện giao thông không yêu cầu
người đăng kí quyền sở hữu các phương tiện giao thông phải khai rõ tài sản
đăng kí là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của một bên, do vậy
người đứng khai được ghi tên là chủ sở hữu tài sản đó. Thứ hai, dù Nghị định
số 70/2001/NĐ-CP đã quy định rõ ràng nhưng sau một thời gian thực hiện,
cơ quan đăng kí phương tiện giao thông nhận thấy việc chứng minh tài sản
chung, tài sản riêng, xác nhận tình trạng hôn nhân của người đi đăng kí các
phương tiện giao thông có quá nhiều vấn đề phức tạp, hệ thống pháp luật
không đồng bộ, đụng chạm đến nhiều cơ quan nhà nước, gây khó khăn cho
việc đăng kí quyền sở hữu. Từ thực tế đó, việc thực hiện quy định ghi tên cả
vợ và chồng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản đân không được
thực hiện. Bên cạnh đó còn có tình trạng phương tiện giao thông là do vợ
chồng mua lại của người khác nhưng làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nên
thực chất phương tiện giao thông đó là tài sản chung của vợ chồng nhưng lại
đứng tên đăng kí quyền sở hữu là một người khác. Đối với các trường hợp
này, khó có tranh chấp xảy ra, nếu bên không có tên trong giấy chứng nhận
quyền sở hữu chứng minh tài sản đó mua bằng thu nhập của vợ chồng trong
thời kì hôn nhân, thì tài sản đó vẫn được xác định là tài sản chung.
Đối với quyền sở hữu trí tuệ:
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ,

bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp và các quyền liên quan đến giống cây trồng. Quyền sở hữu trí
tuệ là quyền về tài sản (là quyền tài sản). Trong trường hợp vợ, chồng sáng
tạo ra các sản phẩm trong thời kì hôn nhân thì vấn đề đặt ra là phải xác định
rõ tái sản đó là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của người đã
sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ đó. Việc xác định quyền sở hữu trí tuệ là tài sản

9


chung hay tài sản riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng pháp luật. Pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện nay quy
định việc xác định tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng phải căn cứ
vào thời kì hôn nhân và nguồn gốc tài sản (bao gồm cả tính hợp pháp của tài
sản). Xuất phát từ quy định tại điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000,
có ý kiến cho rằng quyền sở hữu trí tuệ đối với tất cả các sản phẩm trí tuệ do
vợ, chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân phải là tài sản chung của vợ chồng.
Tuy nhiên lại có ý kiến khác cho rằng vợ hoặc chồng là người trực tiếp sáng
tạo hoặc sử dụng thời gian, đầu tư tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật của mình
để tạo ra các sản phẩm trí tuệ nên được ghi tên là tác giả trong giấy chứng
nhận đăng kí quyền tác giả, giấy chứng nhận đăng kí quyền liên quan và văn
bằng bảo hộ (gồm bằng độc quyền sáng chế, bằng độc quyền giải pháp hữu
ích, bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp,…). Quyền tác giả là quyền gắn
với nhân thân mà không thể chuyển giao nên quyền sở hữu trí tuệ phải là tài
sản riêng của tác giả. Việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng
đối với quyền sở hữu trí tuệ cẩn phải xem xét một số vấn đề sau:
- Cấn phân biệt rõ tác giả và chủ sở hữu sản phẩm trí tuệ. Có thể tác giả lại
không phải là chủ sở hữu tác phẩm, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế, bố trí hoặc giống cây trồng.
- Cần hiểu rõ quyền tác giả đối với các sản phẩm trí tuệ quyền nhân thân và

quyền tài sản. Quyền nhân thân luôn gắm với tác giả - người trực tiếp
sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ và được ghi tên trong các giấy chứng
nhận hoặc văn bằng bào hộ. Quyền nhấn thân không phải là tài sản, chỉ có
quyền tài sản mới là tài sản ( Điều 163 bộ Luật dân sự năm 2005). Do đó,
vấn đề còn lại chỉ là xem xét quyền tài sản do một một bên vợ hoặc chồng
được hưởng từ quyền tác gi đối với các sản phẩm trong thời kì hôn nhân
có phải là tài sản chung của vợ chồng hay không. Theo quy định tại điều
27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có thể khẳng định quyền tài sản
phát sinh trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Tức là khi
10


quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp hay quyền đối với giống cây
trồng được chuyển giao thì thù lao mà tác giả nhận được được xác định là
tài sản chung của vợ chồng, nếu thời điểm tác giả nhận được thù lao thuộc
thời kì hôn nhân. Tuy nhieenm thực tế có không ít trường hợp tác giả sáng
tạo ra sản phẩm trí tuệ trong thời kì hôn nhân nhưng khi hôn nhân chấm
dứt họ mới được nhận thù lao do quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp
và quyền đối với giống cây trồng được chuyển giao hoặc có trường hợp
tác giả sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ trong thời kì hôn nhân này nhưng lại
được nhân thù lao trong thời kì hôn nhân sau. Vấn đề đặt ra là thù lao mà
tác giả được hưởng xác định như thế nào? Một trong những xăn cứ để xác
định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng là dựa vào thời kì hôn nhân.
Theo đó, nếu tác giả được nhân thù lao khi hôn nhân đã chấm dứt thì tài
sản đó không là tài sản chung của vợ chồng. Hoặc tác giả được nhân thù
lao trong thời kì hôn nhân sau thì thù lao đó được xác định là tài sản
chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân sau. Việc xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng không đặt trong mối quan hệ nhân quả.
Trên đây là những phân tích từ thực tiễn khách quan nhằm đưa ra các giải
pháp để hoàn thiện hơn pháp luật về vấn đề xác định tài sản chung, tài sản

riêng của vợ chồng. Tuy nhiên, từ thực tế khách quan cho thấy, để có thể
áp dụng tốt và tránh được các tranh chấp trong việc xác định và phân chia
tài sản còn cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ và ý thức của
người dân trong việc thực hiện pháp luật một cách chính xác và hiệu quả.

C. KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, việc đăng kí quyền sở hữu tài sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của gia đình.
Xác định rõ quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản sẽ dẫn đến xác định rõ
quyền của vợ chồng trong các giao dịch dân sự, thương mại liên quan đếntài
11


sản chung. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ lợi ích của gia đình,
mỗi bên vợ, chồng trong bối cảnh phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam, nxb Công An nhân dân, năm 2012.
2. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005;
3. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000;
4. Nghị định của Chính phủ số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định
chi tiết thi hành Luật HNGĐ năm 2000;
5. Nghị quyết của Quốc hội số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 về việc
thi hành Luật HNGĐ năm 2000;
6. TS. Ngô Thị Hường, Đăng kí quyền sở hữu tài sản, và việc xác định tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, Tạp chí Luật học số 10/2008.
7. Thực tế việc đăng kí quyền sở hữu tài sản của vợ chồng, Bộ Tư Pháp,
< />ItemID=5947>


12



×