Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Học kỳ luật hình sự module 2 bài 3 k là chủ kiêm lái xe thường xuyên được công ty x thuê chở hàng từ kho của công ty giao cho hợp tác xã m trong một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.25 KB, 8 trang )

Luật Hình Sự Việt Nam Module 2
1. Anh (chị) hãy bác bỏ các ý kiến sai; Xác định ý kiến đúng và giải
thích rõ tại sao? (3 điểm)
Xác định ý kiến đúng và giải thích rõ tại sao?
Các hành vi của K đã thỏa mãn các dấu hiệu định tội trong cấu thành tội
phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Mặt khách quan: Là hành vi chiếm đoạt tài sản đang có chủ, nhưng
chiếm đoạt ở đây là chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng
sơ hở, mất cảnh giác của người của người quản lý tài sản không trông giữ
cẩn thận hoặc không có mặt ở nơi để tài sản, hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh
khách quan như chen lấn, xô đẩy nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi
chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết. Trong tình huống đã đưa ra,
“K vào kho tự bốc và xếp hàng lên xe, mỗi chuyến là 30 bao hàng ra cổng
thủ kho mới kiểm tra số hàng vận chuyển và ký vào phiếu xuất hàng” K đã
lợi dụng việc thủ kho không có ở trong kho lén lút tự xếp thêm hai bao hàng
lên xe. Ý thức lén lút, che giấu của người phạm tội có thể là che giấu toàn bộ
hành vi phạm tội như che giấu đối với chủ tài sản hoặc chỉ che giấu tính chất
phi pháp của hành vi. Trong trường hợp này, K chỉ che giấu tính chất phi
pháp của hành vi, không che giấu hành vi thực tế. Người quản lí tài sản (thủ
kho) vẫn biết sự việc xảy ra nhưng không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản.
Hậu quả của tội trộm cắp tài sản là thiệt hại về tài sản được xác định trên giá
trị tài sản bị chiếm đoạt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự
đã được sửa đổi, bổ sung thì trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai
triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội
chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành
tội phạm. Trong tình huống trên, hai bao hàng của Công ty X trị giá là năm
Bài Tập Lớn Học Kỳ

Page 1



Luật Hình Sự Việt Nam Module 2
triệu đồng, như vậy hậu quả của hành vi phạm tội của K đã thỏa mãn điều
kiện về giá trị tài sản.
Mặt chủ quan chủa tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
Mục đích chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan của tội trộm
cắp tài sản. Những hành vi đó chỉ trở thành hành vi phạm tội của tội trộm
cắp tài sản nếu việc thực hiện những hành vi đó nhằm mục đích chiếm đoạt
tài sản. Rõ ràng trong tình huống này mục đích của K là chiếm đoạt hai bao
hàng của công ty X.
Khách thể: Tội trộm cắp tài sản được quy định tại chương XIV nhóm các
tội phạm xâm phạm sở hữu nên trộm cắp tài sản cũng xâm phạm đến quan
hệ sở hữu thuộc khách thể được Luật Hình sự bảo vệ.
Chủ thể: Chủ thể của tội trộm cắp tài sản phải đảm bảo những điều kiện
về tuổi, phải có năng lực trách nhiệm hình. Vì đề bài ra K là chủ kiêm lái xe
thường xuyên được Công ty X thuê chở hàng từ kho của công ty giao cho
Hợp tác xã M, mà Luật giao thông đường bộ Việt Nam quy định thì người
lái xe phải có bằng lái xe và độ tuổi được cấp bằng lái xe là đủ 18 tuổi. Do
đó, theo khoản 1 Điều 12 BLHS: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” K thỏa mãn độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự theo luật định. Và vì K có thể điều khiển xe và được công ty X thuê
chở hàng nên có thể khẳng định K có năng lực trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên có thể thấy được, hành vi của K đã cấu thành tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS.
Anh (chị) hãy bác bỏ các ý kiến sai.
_ Trong trường hợp trên khi tiến hành định tội danh có ý kiến cho rằng K
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Xác định tội danh như vậy đối với hành
Bài Tập Lớn Học Kỳ

Page 2



Luật Hình Sự Việt Nam Module 2
vi của K là không đúng. Bởi lẽ, người đưa ra ý kiến trên đã nhận thức không
chính xác về hành vi khách quan trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản cũng như hành vi khách quan trong cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Việc nhầm lẫn hành vi khách quan dẫn đến việc định
không đúng tội. Cần phải xác định rõ rằng: Nếu trong tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, hành vi khách quan của người phạm tội gồm hai hành vi khác nhau,
đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Người phạm tội cố ý đưa ra
thông tin không đúng sự thật nhằm làm cho người khác tin đó là sự thật
nhằm chiếm đoạt tài sản (xuất hiện trước hành vi chiếm đoạt), thủ đoạn gian
dối xuất hiện ngay từ đầu. Trong tình huống này, K không hề đưa ra thông
tin không đúng sự thật nhằm làm cho người thủ kho tin đó là sự thật nhằm
chiếm đoạt tài sản; việc giao và nhận hàng giữa K và công ty X là hoàn toàn
ngay thẳng dựa trên hợp đồng và sự tín nhiệm, còn hành vi K tự động xếp
thêm hai bao hàng lên xe là hành vi lén lút nhằm chiếm đoạt tài sản, không
phải hành vi gian dối.
_ Tương tự như trên, ý kiến cho rằng K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản là không chính xác. Người đưa ra nhận định đã nhận thức không
đúng về hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản cũng như nhận thức
không đúng về hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản. Hành vi khách quan trong tội trộm cắp tài sản là lén lút chiếm đoạt
tài sản. Hành vi khách quan trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
là tài sản được giao cho người phạm tội một cách ngay thẳng thông qua hợp
đồng, khi có tài sản trong tay thì mới nảy sinh ý định chiếm đoạt và chiếm
đoạt bằng các thủ đoạn như bỏ trốn; giao hàng không đúng số lượng, chủng
loại... Hai bao hàng K dùng thủ đoạn lén lút để chiếm đoạt, không phải có
được một cách ngay thẳng thông qua hợp đồng và sự tín nhiệm.
Bài Tập Lớn Học Kỳ


Page 3


Luật Hình Sự Việt Nam Module 2
2. Mở rộng điều tra, cơ quan điều tra còn xác định được ngoài hành vi
chiếm đoạt tài sản nói trên, K còn rút bớt mỗi chuyến một số hàng hóa
của Hợp tác xã M tổng giá trị là 10 triệu đồng. Hãy định tội cho hành vi
này. (2 điểm)
Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hoá
hình phạt một cách công minh, chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn, … góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Việc định tội danh sai sẽ dẫn đến hậu
quả rất lớn, đặc biệt là không đảm bảo được tính có căn cứ của hình phạt
được tuyên, xét xử không đúng người, đúng tội, không đúng pháp luật. Đây
cũng là một nguyên nhân của tình trạng oan, sai đang tồn tại.
Muốn xác định tội danh và định khung hình phạt ta dựa vào cấu thành tội
phạm mà K đã thực hiện, xem hành vi đó có thỏa mãn cấu thành tội phạm cụ
thể nào mà luật quy định trong Bộ luật Hình sự.
Trong trường hợp này, K phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
theo Điều 140 Bộ luật Hình sự.
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi vay, mượn, thuê tài sản
của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức
hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó,
hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả
năng trả lại tài sản.
Mặt khách quan: Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành
vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản trên cơ sở hợp đồng giữa chủ sở

Bài Tập Lớn Học Kỳ

Page 4


Luật Hình Sự Việt Nam Module 2
hữu tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản với người chiếm đoạt
tài sản. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, người phạm tội đã vi phạm
nghĩa vụ cam kết, chiếm đoạt tài sản đã nhận bằng thủ đoạn gian dối hoặc có
hành vi bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản đã nhận vào mục đích bất hợp pháp dẫn
đến không có khả năng trả lại tài sản.
Thủ đoạn gian dối trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong
thực tiễn rất đa dạng và phong phú, được biểu hiện như: Đánh tráo tài sản,
rút bớt tài sản, tẩy xoá giấy tờ, giả tạo bị mất tài sản... và một dạng biểu hiện
thường gặp trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm là người nhận
tài sản thông qua hợp đồng (thông thường là hợp đồng gửi giữ tài sản) đã
thông đồng với người khác để chiếm đoạt tài sản do mình trông giữ.
Trong trường hợp này, K đã vi phạm cam kết, không chở đúng số lượng
hàng được công ty X thuê chở cho hợp tác xã M, mà thay vào đó đã rút bớt
mỗi chuyến một số hàng hóa của hợp tác xã M.
Theo khoản 1 của điều 140 Bộ luật Hình sự, quy định giá trị tài sản bị chiếm
đoạt từ 4.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm. Tổng giá trị số hàng
hóa mà K đã rút bớt của mỗi chuyến hàng là 10.000.000 đồng . Hậu quả của
hành vi phạm tội của K đã thỏa mãn điều kiện về giá trị tài sản
Mặt chủ quan: Lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp.
+ Về lý trí: K biết việc lén lút rút bớt mỗi chuyến một số hàng hóa là vi
phạm cam kết, vi phạm pháp luật. K có thể thấy được hành động của mình
sẽ gây thiệt hại về tài sản cho hợp tác xã M. K đủ để nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội và cũng thấy trước hậu quả hành vi của
bản thân nhưng K vẫn thực hiện.


Bài Tập Lớn Học Kỳ

Page 5


Luật Hình Sự Việt Nam Module 2
+ Về ý chí: Hậu quả của hành vi phạm tội trong trường hợp này chính là hợp
tác xã M bị thiệt hại tổng tài sản trị giá mười triệu đồng. Hậu quả này là điều
mà K hoàn toàn có thể nhận thức được và K vẫn để hậu quả này xảy ra.
_ Mục đích phạm tội: Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của
cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này,
rõ ràng mục đích của K là chiếm đoạt số hàng hóa thuộc sở hữu của hợp tác
xã M. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội
còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp
nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội
cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản.
Khách thể: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại
chương XIV nhóm các tội phạm xâm phạm sở hữu nên tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng xâm phạm đến quan hệ sở hữu thuộc khách
thể được Luật Hình sự bảo vệ.
Trong tình huống này, K đã lợi dụng sự tín nhiệm thông qua viêc được công
ty X thuê chở hàng đến hợp tác xã M để rút bớt mỗi chuyến một số lương
hàng hóa. Hành vi đó của K đã trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu được
Luật Hình sự bảo vệ.
Chủ thể: Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải đảm
bảo những điều kiện về tuổi, phải có năng lực trách nhiệm hình sự và phải là
người được chủ sở hữu tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản tín
nhiệm giao cho một tài sản nhất định.

Vì đề bài ra K là chủ kiêm lái xe thường xuyên được Công ty X thuê chở
hàng từ kho của công ty giao cho Hợp tác xã M, mà Luật giao thông đường
bộ Việt Nam quy định thì người lái xe phải có bằng lái xe và độ tuổi được
Bài Tập Lớn Học Kỳ

Page 6


Luật Hình Sự Việt Nam Module 2
cấp bằng lái xe là đủ 18 tuổi. Do đó, theo khoản 1 Điều 12 BLHS: “Người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” K thỏa
mãn độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Và vì K có thể điều
khiển xe và được công ty X thuê chở hàng nên có thể khẳng định K có năng
lực trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên có thể thấy được, hành vi của K đã cấu thành tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS.
3. Toàn bộ số tài sản chiếm đoạt được K đã bán lại cho N. Theo anh
(chị) N có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?
(2 điểm).
Đề bài đã không đề cập đến quan hệ xã hội giữa K và N cũng như việc
K và N có hứa hẹn trước hay không, N có biết hai bao hàng đó là K phạm tội
mà có hay không…Vì vậy ta phải xét từng trường hợp cụ thể để có thể làm
rõ được vấn đề này.


K và N không có sự hứa hẹn, thỏa thuận từ trước.

Liệu N có biết tài sản mình tiêu thụ có phải do K phạm tội mà có hay
không? Để xác định được điều đó, chúng ta phải căn cứ vào các tình tiết
khách quan đặc biệt là nhân thân và mối quan hệ giữa họ với người có tài

sản do phạm tội mà có.
Nếu N không biết mình đang tiêu thụ tài sản do K phạm tội mà có thì hành
vi đó không có lỗi nên không coi là hành vi phạm tội. Do đó, N không phải
chịu trách nhiệm về hành vi tiêu thụ hai bao hàng do K phạm tội mà có.
Nếu N biết số hàng đó là do K phạm tội mà có thì N phải chịu trách nhiệm
về hành vi tiêu số hàng của K. Và tội danh cho N là tội tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có được quy định tại khoản 1 Điều 250 BLHS:
Bài Tập Lớn Học Kỳ

Page 7


Luật Hình Sự Việt Nam Module 2
“Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà
có.
1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ
là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến
năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Hành vi tiêu thụ là hành vi sử dụng, mua bán, trao đổi, nhận để bán lại, hoặc
giới thiệu người khác mua, chuyển tải sản đó cho người khác theo yêu cầu
của người phạm tội. Như vậy N đã tiêu thụ giúp K số hàng mà K phạm tội
chiếm dụng được.


N và K có sự hứa hẹn từ trước.

Theo điều 20 BLHS thì N đóng vai trò là người giúp sức cho K, giúp K chứa
chấp tiêu thụ số hàng mà K đã chiếm dụng được để thu lợi nhuận. Người
giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực

hiện tội phạm. Trong tình huống này N đã có thỏa thuận hứa hẹn trước với K
về việc chiếm đoạt và tiêu thụ hàng. Rõ ràng giữa N và K đã có sự câu kết
chặt chẽ, kế hoạch đã được bàn sẵn và thực hiện y như kế hoạch. Trong
trường hợp này, N và K là đồng phạm.
Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là
nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm. Vì thế, N không
phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác
phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 BLHS, mà N phải chịu trách
nhiệm với hành vi giúp sức – tạo điều kiện cho K thực hiện việc phạm tội.
Khi đó, hành vi của N cũng bị khép vào tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản Điều 140 BLHS giống như K.
Bài Tập Lớn Học Kỳ

Page 8



×