Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Chuyên đề NCKH sinh viên (đạo đức và lối sống của sinh viên hiện nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.4 KB, 41 trang )

Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

PHỤ LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................2
1. Lý do chọn chuyên đề....................................................................................2
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................3
2.1 Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................3
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................4
3.1 Đối tương nghiên cứu................................................................................4
3.2 Phạm vi nghiên cứu....................................................................................4
4.Phương pháp nghiên cứu.................................................................................4
5. Đóng góp của nghiên cứu..............................................................................4
6. Kết cấu chuyên đề.........................................................................................4
B. NỘI DUNG...........................................................................................................6
PHẦN 1: ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN.........................6
1.1 Đạo đức và chức năng đạo đức.................................................................6
1.2 Những nguyên tắc trong rèn luyện đạo đức..............................................9
1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức......................10
1.4 Đạo đức giả...............................................................................................16
PHẦN 2 : THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRÊN TOÀN
QUỐC LIÊN HỆ VỚI KHÓA D28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY
CHỮA CHÁY HIỆN NAY.....................................................................................21
2.1.Thực trạng của giới trẻ nói và sinh viên trên cả nước............................21
2.2 Nguyên nhân tha hóa đạo đức của giới trẻ hiện nay..............................23
2.3. Khắc phục vấn đề Đạo đức của giới trẻ hiện nay..................................25
2.4 Tình hình sinh viên khóa D28 trường Đại học PCCC............................27
PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO
ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC PCCC........................................32


3.1 Giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.................................................................32
3.2 Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh........................................................................................................................33
3.3 Rèn luyện bản lĩnh, nghị lực vượt qua mọi khó khăn............................35
3.4 Nghiêm chỉnh chấp hành những đường lối, chủ trương chính sách của
ngành và điều lệnh Công an nhân dân...................................................................36
1


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

3.5 Giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên thường thông qua việc giáo
dục các nội dung sau:.............................................................................................37
KẾT LUẬN.....................................................................................................39
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................40

2


Đại học Phòng cháy chữa cháy

A.

Đặng Quốc Nhàn - D28A

PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn chuyên đề
Sau hơn 25 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta, nhân dân ta
thu được những thành tựu vô cùng to lớn “có ý nghĩa lịch sử”. Những thành tựu ấy
đã và đang tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị mà cả đến văn hoá, đạo đức, lối sống của
con người Việt Nam nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng. Từ khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo
đức truyền thống cũng như việc xây dựng hệ giá trị đạo đức mới ở nước ta đã và
đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Thực tế cho thấy, trong đời sống
xã hội đã có những biểu hiện xem nhẹ những giá trị văn hoá truyền thống của dân
tộc, chạy theo thị hiếu không lành mạnh. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc
hậu, giữa lối sống lành mạnh trung thực, có lý tưởng… với lối sống ích kỷ, thực
dụng… đang diễn ra hàng ngày. Bên cạnh những hệ giá trị mới được hình thành
trong quá trình hội nhập, những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối
sống của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ sinh viên. Sinh viên là lực
lượng xã hội đặc thù, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội. Họ
là những trí thức tương lai của đất nước, không ai hết mà chính họ sẽ là những
người đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong “Thư gửi sinh viên và nhi đồng Toàn quốc nhân dịp Tết Nguyên đán năm
1946”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời
khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa Xuân của xã hội”. Sinh ra và lớn lên trong môi
trường thông tin đa chiều và xu thế hội nhập quốc tế, sinh viên Việt Nam hiện nay
là lớp người chịu nhiều ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực từ những biến đổi
của đất nước và thế giới. Ngoài những đặc điểm chung của con người Việt Nam,
sinh viên còn mang những đặc điểm riêng: trẻ, có tri thức, cảm với các dễ tiếp thu
cái mới, nhạy vấn đề chính trị xã hội, năng động sáng tạo, dễ thích nghi, có nhu cầu
và muốn được tự khẳng định mình. Đại bộ phận sinh viên Việt Nam phát huy được
những ưu điểm và truyền thống tốt đẹp của các thế hệ sinh viên đi trước, thi đua
học tập, rèn luyện, tiếp thu tiến bộ khoa học, công nghệ, chủ động tiếp thu những
nét đẹp của sinh viên thế giới, tạo nên lớp sinh viên những năm đầu thế kỉ XXI

mang tính cách truyền thống và hiện đại. Bên cạnh những mặt tích cực, sinh viên
cũng đang chịu sự tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế. Một bộ phận sinh viên chạy theo lối sống thực dụng, có biểu hiện xa
rời các giá trị đạo đức truyền thống, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức và
lối sống. Như Đảng ta khẳng định: “tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối
sống, sự gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, đáng lo ngại nhất là trong giới trẻ”.
Vì vậy, việc phát huy tính tích cực và điều chỉnh những hành vi lệch lạc trong đời
3


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

sống đạo đức của sinh viên có tác dụng vô cùng to lớn trong việc phát triển và sử
dụng nguồn nhân lực quý giá này.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã chỉ rõ: việc chăm lo
giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp cho thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay để đội ngũ
này có điều kiện phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích
trong sự nghệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị và toàn xã hội; đồng thời là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Để tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong
việc xây dựng đạo đức cho sinh viên, cần phân tích một cách khách quan sự biến
đổi đạo đức của sinh viên trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, từ đó xác định những vấn đề chủ yếu nhất cần giải
quyết.
Sinh viên khóa D28 trường đại học phòng cháy chữa cháy nói riêng cũng
như sinh viên Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy nói chung cũng không năm
ngoài xu thế của sinh viên việt nam hiện nay, Từ những lý do trên nên tôi chọn vấn

đề “ Sinh viên khóa D28 với vấn đề đạo đức của giới trẻ hiện nay” làm chuyên
đề khoa học sinh viên.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Chuyên đề này sẽ đề cập đến vấn đề của sinh viên khóa D28 hội nhập và
thực trạng đạo đức của khóa D28. Trên cơ sở đó vận dụng vào việc bồi dưỡng, giáo
dục đạo đức của sinh viên khóa D28 trường Đại học PCCC hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đề ra, Chuyên đề tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề đạo đức của giới trẻ hiện nay.
- Làm rõ thực trạng vấn đề đạo đức của sinh viên khóa D28 trường Đại học PCCC
hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giáo dục, rèn luyện đạo đức sinh viên khóa D28
trường Đại học PCCC
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

3.1 Đối tương nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi là sinh viên khóa D28 đang học tập tại
Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy
3.2

Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu vấn đề đạo đức của sinh viên khóa D28- Trường Đại học Phòng

cháy chữa cháy năm học 2014- 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp
lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, phỏng vấn,
quan sát…
5. Đóng góp của nghiên cứu
- Chuyên đề góp phần làm rõ khái niệm lối sống, lối sống của sinh viên, xây
dựng lối sống sinh viên khóa D28 hiện nay.
- Chuyên đề góp phần xác định rõ tầm quan trọng của giá trị đạo đức truyền
thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên khóa D28 trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay.
- Luận án làm rõ thực trạng phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong việc
xây dựng lối sống mới cho sinh viên khóa D28 hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt các
giá trị đạo đức truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên khóa
D28 trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
6. Kết cấu chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Chuyên đề gồm 3 phần:
Phần 1: Đạo Đức Và Những Khái Niệm Cơ Bản.
Phần 2 : Thực Trạng Đạo Đức Của Sinh Viên Khóa D28 Hiện Nay
Trường Đại Học Phòng Cháy Chữa Cháy.
5


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

Phần 3 : Một Số Giải Pháp Nhằm Giáo Dục, Rèn Luyện Đạo Đức Của Sinh

Viên Trường Đại Học PCCC.

6


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

B. Phần Nội dung
PHẦN 1: ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN.
1.1Đạo đức và chức năng đạo đức.
1.1.1 Khái niệm đạo đức
Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:
Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc,
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội
trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân – xã hội.
Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và
quan hệ với tự nhiên.
Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự
giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội với tự
nhiên và với cả bản thân mình.
[trong hai nghĩa rộng này cái nào rộng hơn thì sếp sau]
1.1.2 Một số phạm trù cơ bản của đạo đức
A, Nghĩa vụ
Nghĩa vụ của đạo đức thể hiện ở chỗ khi con người tham gia vào hoạt động
sản xuất và hoạt động sống, anh ta ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với
người khác và đối với cộng đồng.Nghĩa vụ đạo đức đã xuất hiện rất sớm và nó tồn

tại với thời gian, tồn tại qua các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Điều
đáng chú ý là việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức bao giờ cũng mang tính tự giác và do
chính bản thân đã nhận thức rõ vấn đề. Do vậy, khi thực hiện nghĩa vụ đạo đức con
người luôn có cảm giác hạnh phúc, hài lòng vì tình cảm cao thượng, vì lòng tự
trọng và phẩm giá của con người. Nghĩa vụ đạo đức của con người có mối liên hệ
chặt chẽ với nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý của con người
đều có chung mục đích là nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với
qui tắc, chuẩn mực chung của xã hội.
7


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

Nghĩa vụ không hình thành một cách tự nhiên, nhất thời mà nó được hình thành và
hoàn thiện trong cả quá trình giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện trong hoạt động thực
tiễn của mỗi cá nhân, thậm chí qua quá trình đấu tranh, thử thách của cuộc sống.
B, Lương tâm
Lương tâm có thể được hiểu như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ dẫn,
thôi thúc con người ta làm những điều tốt, ngăn cản, chỉ trích làm những điều xấu.
Theo quan điểm biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức trách nhiệm và
tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của
mình trong đời sống xã hội. Sự hình thành lương tâm là quá trình phát triển lâu dài
từ thấp đến cao trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội. Có thể nêu ra
các mức độ phát triển của lương tâm như sau:
Ý thức về cái cần phải làm do sự sợ hãi bị trừng phạt bởi thiết chế xã hội
hoặc ý niệm tâm linh.
Ý thức về cái cần phải làm, cần phải tránh vì xấu hổ trước người khác và
trước dư luận xã hội.

Ý thức về cái cần phải làm vì xấu hổ với bản thân. Khi cá nhân xấu hổ với
bản thân, với những hành vi của mình là bước đầu của cảm giác lương tâm. Từ cảm
giác đó đến sự phán xét các suy nghĩ, hành vi của mình thì đó chính là lương tâm.
Vì thế lương tâm có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghĩa vụ của con người.
Khi con người làm những điều xấu, độc ác thì lương tâm cắn rứt. Trái lại khi
cá nhân làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thản. Do vậy, trong cấu
trúc của lương tâm tồn tại khái niệm xấu hổ, hối hận. Giữ cho lương tâm trong sạch
là một tiêu chí hạnh phúc và tiêu chí sống của con người.
C, Thiện và Ác
Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là thước đo đời
sống đạo đức của mọi cá nhân. Thiện và Ác cũng là phạm trù cơ bản làm thước đo
đời sống đạo đức của con người.
Cái Thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc
sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu
cầu và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua việc góp phần thúc đẩy
sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích cho mọi người trong xã hội. Hồ Chí Minh đã nói:
"Việc thiện thì dù nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh"
8


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

(Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr. 55). Là cái
thiện là phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên cao thượng hơn,
tốt đẹp hơn và giàu tính nhân văn hơn.
Cái Ác là cái đáng ghét, ghê tởm, cái cần phải gạt bỏ trong đời sống cá nhân
và xã hội. Cái ác làm mất đi cái văn minh, cao thượng của cuộc sống con người.
Quan điểm về thiện và ác mang tính lịch sử và có thể hoán đổi cho nhau. Cái thiện

và ác được chúng ta đánh giá tuỳ vào nó có thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của
xã hội, hạnh phúc của con người.
1.1.3 Các loại đạo đức

Đạo đức rất nhiều vô kể mà con người cần có:
 Lịch sự
 Biết ơn
 Lễ độ
 Tự trọng
 Tôn trọng
 Thật thà
 Giản dị
 Tiết kiệm
 Trung thực
 Tôn sư trọng đạo
 Tự tin
 Đoàn kết
 Dũng cảm
 Khoan dung
9


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

 Siêng năng
 Tương trợ
 Liêm khiết
 Tự lập

 Giữ chữ tín
 Chí công vô tư
 Tự chủ
 Lí tưởng
 Năng động, sáng tạo
 Danh dự
 Hạnh phúc
 Lương tâm
1.2 Những nguyên tắc trong rèn luyện đạo đức
Nguyên tắc thứ nhất: Muốn có đạo đức trước hết nói phải đi đôi với làm và
luôn nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người đều nói nhiều mà làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói
một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại hậu quả phản tác dụng. Việc nêu gương thì
không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra như trong lĩnh vực đạo
đức. Trong gia đình: Đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối
với các em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy, cô giáo đối với học
sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm gương của những người đứng
đầu, phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm
gương của người này đối với người khác. Một bài diễn văn hay không bằng một
tấm gương sống.
Nguyên tắc thứ hai: Để rèn luyện đạo đức là xây đi đôi với chống.
10


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

Trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo
đức và cái vô đạo đức vẫn còn đan xen nhau, đối chọi nhau, thông qua hành vi của

mỗi một con người khác nhau. Thậm chí, những đan xen và đối chọi ấy còn diễn ra
ngay trong bản thân mỗi một con người. Do đó việc xây và chống trong lĩnh vực
đạo đức hoàn toàn là điều không đơn giản. Để xây và chống có hiệu quả phải tạo
thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Nguyên tắc thứ ba là: Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Bởi mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức hàng ngày, đó
là công việc kiên trì, bền bỉ suốt đời. Trong thực tiễn, có người trong lúc đấu tranh
thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ gian khổ, hy sinh, nhưng
đến khi có ít quyền hạn thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí,
quan liêu, biến thành người có tội.
Đối với mỗi con người việc rèn luyện đạo đức cách mạng phải được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong đời công, sinh hoạt, học
tập, lao động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến
lớn, từ gia đình đến nhà trường, đoàn thể, xã hội; từ quan hệ bạn bè đến đồng chí,
anh em, cấp trên, cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân và cả trong quan hệ quốc
tế.
1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.3.1 Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con
người, nhưgốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng như sông thì
có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
- Làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp
rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, “Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ xa rời cuộc
sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái hóa biến chất của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí

Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người nhắc lại ý của Lênin:
Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời
11


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

đại. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”.
- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả
thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài
năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người
nói: “hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc
không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.
- Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm
chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó: đức là gốc của tài; hồng là gốc của
chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu
quả hành động.
Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội trước hết thể hiện ở những giá trị đạo đức
cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và
hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định
vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách
mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng
sản trở thành sức mạnh vô địch.

Tấm gương đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp
dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam, mà còn cả với nhân dân thế giới.
Tấm gương đó từ lâu đã là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với
nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
1.3.2 Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
- Trung với nước, hiếu với dân
“Trung” và “hiếu” là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm
chất đạo đức bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
Hồ Chí Minh mượn khái niệm đạo đức “trung”, “hiếu” trong tư tưởng đạo
đức truyền thống dân tộc và đưa vào đó một nội dung mới: “Trung với nước, hiếu
với dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan hệ về đạo đức. Người nói “Đạo
12


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như
người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là
nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đày tớ của dân chứ
không phải là “quan cách mạng”.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho
Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ
nhân dân hết lòng. Để làm được như vậy phải gần dân, kính trọng và học tập nhân

dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh
yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là những khái niệm đạo đức cũ được Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc và
đưa vào đó những yêu cầu và nội dung mới. Người chỉ ra rằng trong chế độ phong
kiến có nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ thực hiện, ngày nay ta
đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện, làm gương cho nhân dân để đem
lại hạnh phúc cho dân.Đây là biểu hiện sinh động của phẩm chất “trung với nước,
hiếu với dân”.
- Cần: siêng năng, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất
cao với tinh thần tự lực cánh sinh.
- Kiệm: tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, công sức, của cải) của nước, của dân,
không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức, không
liên hoan, không chè chén lu bù.
- Liêm: luôn tôn trọng của công và của dân. Phải “trong sạch, không tham
lam” tiền của, địa vị, danh tiếng.
- Chính: thẳng thắn, đứng đắn, không gian tà. Được thể hiện thông qua ba
mối quan hệ: với mình, với người, với việc.
Mối quan hệ và sự cần thiết phải có các đức tính trên:
- Các đức tính đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song
cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân.

13


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A


- Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, nó rất cần thiết cho mọi người. Đặc
biệt là đối với cán bộ, đảng viên vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến công việc chung của
cách mạng.
- Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về
tinh thần, văn minh tiến bộ của dân tộc, là nền tảng của đời sống mới, thi đua yêu
nước, là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Tổ quốc”.
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
- Chí công vô tư: là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị, làm việc
gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”. Thực hành chí công vô tư là nêu chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân.
- Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp
nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc
cho con người.
Tình yêu thương đó là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những
người nghèo khổ, những người bị mất quyền, bị áp bức, bị bóc lột, không phân biệt
màu da, dân tộc. Người cho rằng nếu không có tình yêu thương như vậy thì không
thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Tình yêu thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công
nhân, thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em... Nó đòi
hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng, giàu
lòng vị tha với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng những quyền của con

người, nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc chứ không phải là
thái độ dĩ hòa vi quý, không phải hạ thấp càng không phải vùi dập con người.
14


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

Người dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu
chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Phải có tình đồng
chí thương yêu lẫn nhau”.
- Có tinh thần quốc tế trong sáng
Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào
mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi phạm vi quốc gia dân tộc.
Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu
sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn
thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên
toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc;
chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá
quyền… Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình.
Đoàn kết quốc tế nhằm thực hiện những mục tiêu lớn của thời đại là hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh
thần: bốn phương vô sản, bốn bể đều là anh em. Trong suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân
dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối
thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền văn hóa hòa bình cho nhân loại.
1.3.3 Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.

- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một
nền đạo đức mới.
Nói đi đôi với làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng. Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của
giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hoá phương
Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh đã
có lần chỉ rõ:“Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối
với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền”. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt
Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng tiên phong, mà còn bằng chính tấm gương
đạo đức cao cả của mình.
15


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

Đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng đến “đạo làm gương”. Phải chú ý
phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi trong đời
thường, trong mọi lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong học tập… bởi
theo Người, từng giọt nước chảy về một hướng mới thành suối, thành sông, thành
biển cả. Không nhận thức được điều này là “chỉ thấy ngọn mà quên mất gốc”.
Người nói: “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có. Ngành nào, giới nào,
địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền
rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hàng
ngày của toàn xã hội.
- Xây đi đôi với chống

Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Trong đời sống hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, đạo đức
và cái vô đạo thường đen xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của những con
người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người. Vì vậy, việc xây và chống trong
lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây
phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành
bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo
dục đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp
với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác
nhau; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Hồ Chí Minh chỉ
ra rằng: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần
tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó
là thái độ của người cách mạng”. Bản thân sự tự giác cũng là một phẩm chất cao
quý đối với mỗi người và mỗi tổ chức trước hết là Đảng.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức
trong đời sống hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và
cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục
tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập quán lạc hậu và loại
trừ chủ nghĩa cá nhân. Đây thực sự là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” giữa tiến bộ
và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng. Để giành được thắng lợi trong cuộc
chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động
hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch
về đạo đức.
- Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
16


Đại học Phòng cháy chữa cháy


Đặng Quốc Nhàn - D28A

Một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo
đức của mỗi người.
Hồ Chí Minh nhắc lại luận điểm của Khổng Tử “chính tâm, tu thân…” và chỉ
rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó
là cuộc cách mạng trong bản thân mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh
thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới không
phải là một công việc dễ dàng… Dù khó khăn gian khổ nhưng muốn cải tạo thì
nhất định thành công”.
Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt
động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng
vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của
mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải
kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày. Hồ Chí
Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “đạo đức cách mạng không phải trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
1.4 Đạo đức giả
1.4.1 Khái niệm
Ngược lại với Đạo đức là Đạo đức giả. Cùng với những thói ích kỷ, đố kị, xu
nịnh, a dua, thói đạo đức giả là một thói xấu đang hoành hành mối quan hệ giữa
con người và con người. Nó làm mất dần vẻ chân thực vốn có của đời sống xã hội.
Nạn đạo đức giả sẽ làm suy yếu nền văn hóa của một đất nước.
Dân gian đã có rất nhiều thành ngữ, ca dao… để vạch mặt kẻ đạo đức giả:
"Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm", hoặc
"Bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao".
"ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa"
Thói đạo đức giả có mặt ở khắp mọi nơi, mọi chốn, nhưng rất khó bị phát giác.
Thói đạo đức giả luôn đi cùng với tâm lý cả tin. Ở đâu có sự cả tin thì ở đó có

thói đạo đức giả. Đạo đức Xã hội chủ nghĩa (chân chính) hướng con người tới
tinh thần cao cả của tâm hồn, văn hóa. Bởi vậy, trong cuộc sống luôn đòi hỏi sự
rèn luyện. Cảnh giác và tẩy trừ thói đạo đức giả là điều vô cùng cần thiết, trước
hết là sự cảnh giác với chính bản thân mình.
17


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

1.4.2 Nguyên nhân


Do chủ nghĩa cá nhân, người nói dối trá vì quyền lợi của mình.



Thiếu những tấm gương đạo đức thực sự xung quanh người nói (chứ không
phải trong sách vở), hoặc tâm lí ỉ lại vào những tấm gương mà không chịu làm
gương trước do sợ thiệt.



Do áp lực (người quyền trên, từ lãnh đạo, từ đồng nghiệp...) đè nặng lên vai
người nói,mà năng lực thì có hạn, người nói phải đối phó với sự thật có thể gây
thất vọng cho người khác (bệnh thành tích). Muốn thật có khi cũng không được,
bởi điều đó ảnh hưởng tới những người khác.




Do tâm lý sống chung với tiêu cực của các thành viên trong xã hội, coi đạo
đức giả là chuyện bình thường trong thời buổi hiện nay; thờ ơ, ngại va chạm,
thiếu đấu tranh để bảo vệ lẽ phải.



Do tâm lí đám đông, thấy người khách hô khẩu hiệu thì cũng chỉ hô khẩu
hiệu theo chứ chưa nghĩ tới những khó khăn khi làm (tính chất phong trào).



Đây là vấn đề rộng lớn, liên quan đến nhiều người, nhiều Bộ ngành, đia
phương.... Một cá nhân hoặc ít người không thể thay đổi được. Mà đòi hỏi cả xã
hội, các ngành nghề, mỗi người đều phải vào cuộc, tạo nên một sự thay
đổi đồng bộ.



Đôi khi đạo đức giả lại là công cụ bất đắc dĩ của một người, một nhóm
người...để tự vệ trước thói đạo đức giả của một người, một nhóm người...khác
(có khi bị cho là ngụy biện)
1.4.3 Tác hại



Sự mất uy tín của cá nhân (tổ chức...) do người đó (người trong tổ chức đó...)
có thói đạo đức giả, ảnh hưởng ở trong nước và có thể đối với cả quốc tế.




Tạo ra một hệ thống cổ xúy lừa đảo và tham nhũng, bởi trong những hệ
thống đàng hoàng hơn, chân chính hơn thì người đạo đức giả khó có chỗ đứng.



Những người sống đúng với đạo đức truyền thống, người làm khoa học
nghiêm chỉnh bị o ép, coi thường, dẫn đến chán nản, khó phát huy khả năng do
có nhiều bất công.
18


Đại học Phòng cháy chữa cháy



Đặng Quốc Nhàn - D28A

Sự lây truyền căn bệnh thành tích từ các em học sinh từ khi ngồi trên ghế nhà
trường, bệnh lừa đảo... đến các thế hệ tiếp sau.



Các giá trị xã hội bị đảo lộn.



v.v.
1.4.4 Một số quan điểm về Đạo đức giả
Một lần vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu:




“ Muốn nước giàu dân mạnh, điều quan trọng là phải biết nghe lời can gián
của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc
làm. Thuốc đắng khó uống nhưng chữa được bệnh...Phải xem quyền hành là
một thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự
mình tu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh. Dân bắt trước người trên
thì nhanh hơn pháp luật. Muốn nước mạnh hoàng đế phải nhân từ với muôn
dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những
điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch.

Ỷ Lan


Theo Hồ Chí Minh:

" Hãy làm theo tôi nói, đừng làm theo tôi làm", đó là thói đạo đức giả của
các giai cấp bóc lột. Chúng ta phải phấn đấu để trong xã hội ta không còn
những kẻ đạo đức giả, càng không cho phép những kẻ đạo đức giả vẫn đi dạy
dỗ người khác về đạo đức”.

Hồ Chí Minh


Theo Giáo sư Trần Hữu Dũng:

19



Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

“Tôi phải nhìn nhận rằng trong những năm gần đây, khi cơn lốc "thị trường"
bao phủ lên đất nước ta thì (cùng với sự phồn vinh vật chất mà nó đem lại)
một bộ phận không nhỏ chúng tôi, nhất là giới được xem là "trí thức", đã tha
hóa.Chúng tôi đã góp phần không nhỏ vào sự "chụp giật" của cuộc sống ngày
nay, một số không ít chúng tôi đã co cụm lại, chỉ lo cho gia đình, con cháu
mình mà không nghĩ đến các bạn, thái độ đạo đức giả của một số chúng tôi
hẳn đã làm nhiều bạn chán ngán, buồn phiền.Một số chúng tôi đã có quyền,
có lợi, nhưng chưa làm đầy đủ bổn phận với các bạn. Bởi vậy, trước hết, tôi
có lời xin lỗi bạn, thế hệ trẻ. Tôi không dám thay mặt ai để xin lỗi, chỉ xin lỗi
cho cá nhân tôi, song tôi nghĩ nhiều người ở thế hệ tôi cũng cùng một tâm
trạng.”

Trần Hữu Dũng


Nhà sử học Dương Trung Quốc phê phán thói đạo đức giả và đưa ra đề xuất
"cần có một dự án luật để điều chỉnh vấn đề mại dâm":

“Cần bắt đầu bằng việc nhìn thẳng vào sự thật, dù vẫn phải giữ gìn truyền
thống. Cần bớt đi thói đạo đức giả. Bởi không thể nói bản chất xã hội chúng ta
là không có chuyện đó. Đừng nói mình là biệt lập, là đặc thù. Tôi cho rằng
nên coi đó là một hiện thực. Cần có một bộ luật để công nhận và quản lý mại
dân”.

Dương Trung Quốc



Giáo sư Ngô Bảo Châu:

“Người Đức có lẽ hiểu rất rõ rằng thức ăn cho tâm hồn con người chính là
sự thật. Những dân tộc quen nấu sự dối trá cho mình ăn, sẽ dần dần quen với
sự bạc nhược, sự đớn hèn của chính mình. Thế nhưng người ta vẫn thích nấu
sự dối trá cho mình ăn. Vì sự thật nhiều khi không có lợi, hoặc là cứng quá,
20


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

không tốt cho lợi”.



Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần:

“ Không gì bằng những hành động mà người dân nào cũng mong đợi: xử lý
nghiêm, công minh và minh bạch các vụ án tham nhũng, bảo vệ triệt để những
người đứng ra tố cáo tham nhũng. Người dân phải nghe, thấy, sờ được những
hành động này của Chính phủ”

Nguyễn Khắc Thuần


Nhưng Bill Gates thì cho rằng:


“Cuộc sống vốn không công bằng - Hãy tập quen dần với điều đó”

Bill Gates
1.4.5 Phân loại Đạo đức giả và nói dối
Nói dối có nhiều mục đích khác nhau:


Nói dối mà có lợi cho cả người nói và người nghe: là một biểu hiện của trêu
đùa, bông đùa...Nhiều khi là liệu pháp tâm lí giúp người nghe, được ứng dụng
trong Tâm lý trị liệu.(ám thị)



Nói dối mà có lợi cho người nói, không có lợi (hoặc có hại) cho người nghe,
được gọi là dối trá, là một biểu hiện của lợi dụng, tham nhũng, bệnh thành tích,
đạo đức giả, nịnh hót, mị dân...Trong chiến đấu thì nói dối có thể là chiến
thuật, mưu kế...(ám thị)



Nói dối mà không có lợi cho người nói, có lợi cho người nghe là một biểu
hiện của lòng cao thượng.
21


Đại học Phòng cháy chữa cháy



Đặng Quốc Nhàn - D28A


Nói dối mà có hại cho cả người nói và người nghe là khi thói đối trá bị lật
tẩy, đôi khi là hậu quả của lời nói dối tưởng như vô hại.

22


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

PHẦN 2 : THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRÊN TOÀN
QUỐC LIÊN HỆ VỚI KHÓA D28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG
CHÁY CHỮA CHÁY HIỆN NAY
2.1.Thực trạng của giới trẻ nói và sinh viên trên cả nước.
Chúng ta đang sống trong thời đại mới - thời đại văn minh, khoa học, nhất là
sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin; nó đã làm cho cuộc sống con
người ngày được nâng cao. Đáng tiếc thay giá trị đạo đức đang bị xói mòn bởi chủ
nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Hơn nữa, giới trẻ ngày
nay chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua
những giá trị đạo đức là nền tảng cốt yếu của con người. Vấn đề này đang là thách
đố cho các nhà giáo dục cũng như những người có trách nhiệm.
Đạo đức là một trong những phẩm chất cần có của mỗi con người nói chung
và của sinh viên nói riêng. Đạo đức vừa là thước đo để mỗi người nhận xét, đánh
giá, phê bình và tự phê bình mình và người khác đồng thời là yếu tố hình thành nên
nhân cách con người. Trong những năm vừa qua, cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam
học tập và làm theo lời Bác” được thực hiện sáng tạo và hiệu quả, trở thành nội dung
xuyên suốt, định hướng công tác giáo dục của Đoàn. Nội dung “5 xây, 5 chống”
được cụ thể hóa thành các tiêu chí chuẩn mực đạo đức phù hợp với các đối tượng
đoàn viên, sinh viên, với địa phương, đơn vị. Các cấp bộ đoàn kịp thời phát hiện,

tuyên dương những tấm gương tiêu biểu trong học tập, rèn luyện, làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thông qua Cuộc vận động, nhận thức và hành động
của đội ngũ cán bộ, đoàn viên có chuyển biến tích cực, tạo ra phong trào thi đua sâu
rộng, nội dung phong phú, hình thức đa dạng, có ý nghĩa thực tiễn cao.
Các giá trị đạo đức truyền thống, cốt lõi của con người Việt Nam vẫn được
đa số sinh viên hiện nay quan tâm. Phần lớn sinh viên nhận biết được tầm quan
trọng của các chuẩn mực đạo đức. Những giá trị đạo đức truyền thống như: lòng
yêu quê hương đất nước, lao động cần cù, sáng tạo, tôn sư trọng đạo, tinh thần đoàn
kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, kính trên nhường dưới, đức tính khiêm tốn, tính
trung thực… vẫn được sinh viên đề cao và phát huy. Đồng thời tiếp cận nhiều giá
trị đạo đức của xã hội hiện đại, thiết thực, thực tế hơn.
Về lối sống, sinh viên hiện nay cơ bản vẫn phù hợp với truyền thống tốt đẹp
của dân tộc như: lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, tiết kiệm, tinh thần đoàn
kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau…Bên cạnh đó hình thành lối sống năng động,
sáng tạo, nhạy bén với cái mới. Điều này giúp cho sinh viên thích nghi với cuộc
sống và sự phát triển của xã hội.
23


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

“Giới trẻ là tương lai của Giáo hội và nhân loại”. Đó là câu khẳng định nhiều người
đã biết. Nhưng đối diện với thực tế thì ai cũng thấy lo lắng cho tương lai ấy. Liệu
nó có tốt đẹp như người ta tưởng không? Cứ như thực tế hiện nay thì nhân loại sẽ
đi tới đâu, khi giới trẻ sống thực dụng chỉ chạy theo những giá trị vật chất mà bỏ
quên những giá trị tinh thần.
Tình trạng giới trẻ sống buông thả, không coi trọng những giá trị đạo đức đã
và đang diễn ra ở nhiều nơi. Bằng chứng là các phương tiện truyền thông đã liên

tiếp đăng tải các bài viết phản ánh về thực trạng này. Chúng lôi kéo bè cánh để
đánh nhau (cả trai lẫn gái), thậm trí hành hung cả thầy cô giáo, rồi con giết cha, anh
giết em; trẻ vị thành niên cũng gây ra nhiều vụ án mạng. Những hành vi tàn bạo
này được đăng trên mặt báo chỉ là tảng băng nổi, thực tế còn nhiều hơn nữa. Cách
đây không lâu người ta choáng váng vì một đoạn video clip nữ sinh đánh bạn đăng
tải trên Internet. Trong clip này, một cô bé đang bị một nữ sinh tóc ngắn vừa đánh
tới tấp vào mặt vừa chửi tục với kiểu "dạy dỗ" rất “anh chị”. Trong khi đó, nhiều
học sinh khác ngồi chễm chệ ở ghế đá và thản nhiên nhìn vụ đánh hội đồng này.
Một thái độ vô cảm không thể ngờ được! Sau đó, dư luận lại đau lòng và kinh hãi
trước tình trạng gia tăng bạo lực học đường của nữ sinh Việt Nam được phản ánh
liên tục trên các phương tiện truyền thông . Đáng báo động hơn nữa, hiện tượng
sinh viên, học sinh đánh giáo viên cũng gia tăng. Có những giáo viên đang giảng
bài, bất ngờ bị học trò lấy mã tấu trong cặp xông lên bục giảng chém trọng thương.
Bên cạnh đó, tình trạng sống thử và quan hệ tình dục trước hôn nhân ngày
càng tăng cao. Theo Tiến sĩ Tâm lý Huỳnh Văn Sơn, Đại học Sư phạm Tp. HCM,
việc các bạn trẻ quan hệ trước hôn nhân không chỉ ảnh hưởng của văn hóa Phương
Tây mà còn do lối sống quá dễ dãi, đánh mất truyền thống tốt đẹp của người Á
Đông, đó là: tôn trọng lễ nghĩa gia phong, nam nữ thọ thọ bất tương thân, nét đẹp
của người con gái là thùy mị nết na…. Đồng thời, tình trạng nạo pha thai cũng đang
ở mức báo động. Theo GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng - giám đốc Bệnh viện Phụ
sản Từ Dũ, TP.HCM - cho biết: thực trạng nạo phá thai rất đáng lo ngại. Mỗi năm,
tại Việt Nam, có khoảng 700.000 phụ nữ nạo phá thai. Riêng ở TP.HCM, với
khoảng 7 triệu dân, mỗi năm có khoảng hơn 100.000 ca sinh nhưng số ca nạo phá
thai cũng tương đương. Tại BV Từ Dũ, mỗi năm tổng số sinh khoảng 45.000 người
nhưng nạo phá thai hơn 30.000 người và tổng số 1,2-1,6 triệu ca mỗi năm. Cả nước
có 5% em gái sinh con trước 18 tuổi và 15% sinh con trước 20 tuổi”
Hơn nữa, một số đông bạn trẻ đang chạy theo vòng xoáy của “văn hóa tốc
độ”. Từ những sách báo không lành mạnh, đến những băng đĩa phim sex được trao
cho nhau cách dễ dàng, từ những quán Karaoke buổi tối đến những vũ trường, quán
bar thâu đêm, rồi vào những ngôi nhà nghỉ. Mặt khác, tình trạng đua xe diễn ra ở

24


Đại học Phòng cháy chữa cháy

Đặng Quốc Nhàn - D28A

nhiều nơi. Ngay tại Thị xã Thủ Dầu Một, vào những đêm cuối tuần, khoảng 200
bạn trẻ tụ tập đua xe làm cho Cảnh sát Giao thông cũng phải “bó tay”.
Chính những tình trạng trên là con đường dễ dàng đưa giới trẻ vào những
sai phạm, nhúng sâu vào vũng lầy tội lỗi. Đây là một hồi chuông báo động cho
chúng ta.
2.2 Nguyên nhân tha hóa đạo đức của giới trẻ hiện nay
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tha hoá đạo đức của giới trẻ,
nhưng chỉ xin đơn cử một vài nguyên nhân sau:
2.2.1 Nguyên nhân bản thân
Do lối sống thiếu ý thức, sống buông thả, đua đòi; đặc biệt là các bạn lạm
dụng tự do để làm những chuyện phi đạo đức. Và các bạn đã hiểu sai cái tự do đó,
tự do không phải là làm những gì mình thích, tự do phải là một giá trị để đảm bảo
hạnh phúc của mình và người khác. Nói như Jean Cocteau: “Cái thảm kịch của giới
trẻ, chính là giới trẻ bị đặt vào tình trạng không thể không vâng lời vì sự tự do quá
đáng.”
2.2.2 Nguyên nhân từ gia đình
“Gia đình chính là một phần tử của xã hội, gia đình mà tốt đẹp thì xã hội mới
tốt đẹp được”. Đây chính là bài học giáo dục công dân của cấp II. Thế mà gia đình
trong xã hội chúng ta ngày nay có những “lỗ hổng” rất lớn, hầu như người nào sống
biết người đó: cha có việc cha, mẹ có việc mẹ, ai cũng phải vật lộn với cuộc sống,
với đồng tiền. Sau giờ làm, cha bận “tiếp khách” ở quán nhậu, mẹ bận việc nhà, thế
là cha mẹ không có thời gian dành cho con cái, bữa cơm gia đình thường không có
đủ mặt, chưa kể cha mẹ còn xích mích cãi vã, thế là sự “quan tâm” của cha mẹ với

con cái chỉ là có tiền cho con đi học, học chính quy, học thêm, học đàn, học nhạc,
học võ... Và thay vì khuyên bào thì chỉ là quở trách và la mắng. Dần dà con cái
không biết nương tựa vào ai, không biết tâm sự cùng ai. Một số sinh ra cách sống
đơn độc, nhút nhát, khó gần; số khác sẽ tụ tập với những kẻ “cùng tâm trạng” để
quậy phá xưng hùng xưng bá, sống bất cần đời. Và để lấy “số má” với bạn bè,
chúng sẽ làm bất cứ gì, chơi bất cứ thứ chi để chứng tỏ “đẳng cấp”, “thua trời một
vạn không bằng kém bạn một li”.
Đúc kết kinh nghiệm giáo dục con cái, ông cha ta đã từng khẳng định: “Dạy
con từ thuở còn thơ”, cũng tựa như uốn cây tre, phải uốn từ lúc tre còn non. Nhưng
xem ra nhiều gia đình ngày nay không coi trọng điều này, không quan tâm đến việc
xây dựng nếp sống có văn hóa trong gia đình, cha mẹ thiếu gương mẫu về đạo đức,
25


×