Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài kì tố tụng HS người làm chứng trong tố tụng hình sự bài được 8đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.25 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

ĐỀ BÀI SỐ 05:
Người làm chứng trong tố tụng hình sự.

1

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Theo luật tố tụng hình sự nước ta, người làm chứng là người tham gia tố tụng.
Là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án, cho nên lời khai của người
làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ rất quan trọng trong việc xác định
tội phạm, người phạm tội và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết vụ
án. Vì vậy có thể nói người làm chứng có vai trò rất quan trọng trong việc thực
hiện các nhiệm tụ tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, kịp thời, xử lý công minh
tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên trong pháp luật hình sự nước ta vấn đề
người làm chứng còn chưa phù hợp, chưa khuyến khích được họ tham gia vào hoạt
động tố tụng, cũng như cơ chế bảo vệ vẫn còn mang tính nguyên tắc... Do vậy em
đã chọn đề tài: “Người làm chứng trong tố tụng hình sự..” để hiểu rõ hơn về chất
vấn trong cả lí luận và thực tiễn góp phần xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật
về người làm chứng.

2

2


B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận chung về người làm chứng trong tố tụng hình sự.


1. Khái niệm người làm chứng.
Khái niệm về ngừoi làm chứng có thể được hiểu theo các cách sau: Theo từ điển
tiếng Việt thuật ngữ người làm chứng (Eye – winness) dùng để chỉ người chứng
kiến một sự việc, hiện tượng đã xảy ra và có thể mô tả lại cho người khác về sự
việc đó. Còn theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học, người làm chứng là người
tham gia tố. Người biết được những tình tiết có liên quan đến vụ án đều có thể
được triệu tập làm chứng. Người làm chứng phải có có mặt theo giấy triệu tập của
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; có nghĩa vụ phải khai báo trung thực tất cả
những tình tiết mà mình biết về vụ án. Trên phương diện khái niệm pháp lý, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 tại Khoản 1, Điều 55 quy định: “Người nào biết
được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đền làm chứng”.
Như vậy, có thể hiểu người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan
đến vụ án và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập khai báo về những sự
việc cần xác minh trong vụ án.
3

3


2. Điều kiện trở thành người làm chứng.
Một người có thể trở thành người làm chứng khi có đủ điều kiện sau:
Thứ nhất, người đó phải biết các tình tiết liên quan đến vụ án, nhận thức này của
người làm chứng có thể là trực tiếp, gián tiếp. Những tình tiết của vụ án mà người
làm chứng biết được có thể liên quan đến đối tượng chứng minh hoặc có ý nghĩa
đến việc giải quyết vụ án. Việc người làm chứng biết được các tình tiết vủa vụ án
là một thực tế khách quan, vì vậy họ được triệu tập đến để trình bày về thực tế
khách quan đó. việc cung cấp chứng cứ cho người có trách nhiệm chứng minh. Từ
đây có thể khẳng định việc triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng thực chất
là ghi nhận về mặt tố tụng thực tế khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của cơ quan và người tiến hành tố tụng.

Thứ hai, người đó không thuộc những người đã được quy định tại Khoản 2 điều
55 BLTTHS quy định các trường hợp không được làm chứng bao gồm: Người bào
chữa của bị can, bị cáo; người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không
có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng
khai báo đúng đắn. Người bào chữa của bị can, bị cáo có nghĩa vụ làm sáng tỏ
những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo (điểm a Khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003) và có
nghĩa vụ không được làm tiết lộ bí mật mà họ biết được do tham gia bào chữa. Do
đó, nếu làm chứng, họ có thể vi phạm nghĩa vụ, không làm đúng thỏa thuận với bị
can, bị cáo. Đối với những trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và
khai báo đúng đắn với những tình tiết của vụ án cùa người làm chứng hoặc người
bị hại, cần xác định tình trạng giám định tình trạng tâm thần thì bắt buộc phải trưng
cầu giám định (Điểm c Khoản 3 Điều 155 BLTTHS năm 2003). Trong quy định
này cần phải chú ý tới một số điểm như sau:
-

Người đó phải có khả năng nhận thức được các tình tiết của vụ án, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình
tiết của vụ án thì không được làm chứng. Luật quy định rõ rằng người nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất nhưng nhược điểm đó mà không có khả năng nhận thức
được những tình tiết của vụ án mới không được làm người làm chứng. Do vậy,
4
4


người có nhược điểm về thể chất ( câm, điếc, mù....) nhưng có thể biết các tình tiết
của vụ án qua cách khác nhau ( người câm có thể biết được qua nhìn thấy; người
-

điếc có thể nhận biết được qua nhìn thấy...) thì vẫn có thể làm chứng.

Người làm chứng và người bào chữa của bị can, bị cáo loại trừ nhau, đã là người
làm chứng thì không thể là người bão chữa và ngược lại. Vấn đề quyết định ở đây
là cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập người đó với tư cách nào trước, nếu người đó
đã được triệu tập với tư cách là người làm chứng thì không thể được cấp giấy
chứng nhận người bào chữa; hoặc nếu người đó đã được cấp giấy chứng nhận
người bào chữa trong vụ án thì không thể tham gia tố tụng với tư cách người làm
chứng (mặc dù người đó biết được các tình tiết liên quan đến vụ án).
Thứ ba, người biết được tình tiết liên quan đến vụ án chỉ có thể trở thành ngừoi
làm chứng khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập. Ngừoi làm chứng tham
gia vào vụ án trên cơ sở quyết định triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng (Điều
133 BLTTHS), người làm chứng có thể trực tiếp nhìn thấy, trực tiếp nghe thấy
hoặc biết được qua người khác, qua nguồn thông tin khác những tình tiết liên quan
đến vụ án và phải chứng minh được các nguồn thông tin và cách thức làm sao họ
biết được các thông tin đó. Các cơ quan tiến hành tố tụng “Không được dùng làm
chứng cứ những tiết do người làm chứng trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao
biết được tình tiết đó” (Khoản 2 Điều 67 BLTTHS). Hiện nay trong lý luận cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật chưa có nhận thức thống nhất thế nào là triệu tập
người làm chứng trong vụ án; việc triệu tập người làm chứng là quyền hay nghĩa
vụ của cơ quan tiến hành tố tụng. Nhiều người cho rằng một người có thể làm
chứng tại phiên tòa khi trước đó trong giai đoạn điều tra người đó đã được triệu tập
và lấy lời khai. Vì vậy, có những trường hợp tại phiên tòa Luật sư hay bị cáo đề
nghị Hội đồng xét xử triệu tập hoặc xét hỏi thêm nhân chứng ngoài những người
đã được triệu tập trước đó đã không được cấp nhận. Theo cách hiểu như vậy là trái
với quy định của pháp luật về người làm chứng. Mộtr khi đã xác định được rằng
một người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án và có đủ điều kiện để khai
báo thì cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải triệu tập gnuwfoi đó với tư cách
là ngừoi làm chứng. Việc triệu tập ở đây cần hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả việc
5

5



đưa giấy triệu tập đến để lấy lời khai, và cả việc các cơ quan tiến hành tố tụng chấp
nhận cho ngừoi đó khai báo và lời khai đó được thể hiện vào biên bản hoạt động tố
tụng. Không nên hiểu một cách máy móc rằng người làm chứng phải được triệu tập
bằng giấy của cơ quan tiến hành tố tụng. Cách hiểu như vậy sẽ thu hẹp phạm vi
của người làm chứng trong vụ án, ảnh hưởng tới việc xác định sự thật khách quan
của vụ án.
3. Vai trò của người làm chứng.
Người làm chứng có vai trò rất quan trọng trong vụ án hình sự, họ là người biết
các tình tiết có liên quan đến vụ án nhưng bởi vì không phải là người cso các
quyền lợi ích pháp lý liên quan đến vụ án nên lời khai của họ thường trung thực
khách quan, có ý nghĩa lớn trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Là người chứng kiến vụ việc xảy ra, là người góp phần vào làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án, người làm chứng là người không thể thay thế trong TTHS.
Người làm chứng tham gia tố tụng không phụ thuộc vào ý chí của họ hay ý chí của
người tiến hành tố tụng mà do chính họ biết được những tình tiết của vụ án qua
việc nhìn thấy, nghe thấy được. Qua việc khai báo, người làm chứng sẽ cung cấp
các tình tiết mà họ biết được về vụ án, có thể cung cấp những tài liệu, tình tiết mới
từ đó là căn cứ làm sáng tỏ vụ án. Sự phát triển của khóa học kỹ thuật ngày một
nâng cao, tuy nhiên vẫn không thể phủ nhận được vai trò to lớn của người làm
chứng bởi những gì họ đã thấy, biết được trong vụ án.
Người làm chứng giúp cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định tố tụng quan
trọng trong quá trình giải quyết vụ án; góp phần xác định sự thật khách quan của
vụ án nhằm bảo vệ pháp chế XHCN, đem lại công bằng cho nhân dân. Qua lời khai
của mình, người làm chứng giúp cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định quan
trọng trong quá trình giải quyết vụ án.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về người làm chứng trong tố tụng hình
sự.
1. Quy định về quyền của người làm chứng trong BLTTHS 2003.


6

6


1.1. Quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham
gia tố tụng.
Quy định này xuất phát từ sự nhận thức tính nguy hiểm của các hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm, mà người làm chứng có thể gặp nguy hiểm hoặc chịu
những hậu quả bất lợi do việc họ tham gia tố tụng, khai báo về những tình tiết của
vụ án, cũng như là sự cụ thể hóa một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng hình sự đó là nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏa, danh dự, nhân phẩm, tài
sản của công dân (Điều 7 Luật TTHS).. Sự nguy hiểm về tính mạng hoặc hậu quả
bất lợi có thể do bị can, bị cáo, người bị hại trong vụ án hoặc những người khác
đem lại (thường là những người chịu bất lợi do lời khai của nhân chứng); những
hậu quả bất lợi đó còn có thể do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.
Các chủ thể khi tham gia tố tụng trong vụ án hình sự với các tư cách pháp lí
khác nhau quan tâm đến sự tham gia của người làm chứng với mục đích khác
nhau. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, nguồn tin có được từ người làm
chứng có ý nghĩa trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự. Các
chủ thể như người bị hại, nguyên đơn dân sự cũng cần sự có mặt của người làm
chứng để xác định những thiệt hại do người phạm tội gây ra cho họ, làm căn cứ để
xác định bồi thường thiệt hại. Đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội, nếu người làm chứng là người biết các thông tin có thể giúp gỡ tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho họ thì sự hiện diện của người làm
chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự sẽ có lợi cho họ. Trong trường hợp
này, khả năng người làm chứng gặp nguy hiểm do người phạm tội gây ra nhằm che
giấu hành vi mình đã thực hiện hầu như là không có. Ngược lại, nếu một người biết

các tình tiết trong vụ án hình sự là những thông tin có tính chất khẳng định sự việc,
hành vi phạm tội, lỗi, các tình tiết có tính chất tăng nặng trách nhiệm hình sự... thì
khi đó sự hiện diện của người đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đối với
người phạm tội là không có lợi. Chính vì vậy, người đã thực hiện hành vi phạm tội
có thể có những hành vi gây nguy hiểm cho người làm chứng (có thể trực tiếp với
người làm chứng hoặc gây nguy hiểm cho người khác để tác động đến người làm
7
7


chứng).
Vì vậy, Nhà nước phải có các biện pháp bảo vệ người làm chứng để họ cũng như
những người thân của họ không bị xâm hại về tính mạng, sức khoẻ hay tài sản.
Việc Nhà nước áp dụng các biện pháp đó chính là bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân không bị xâm hại. Điều đó phù hợp với những cam kết mà Việt Nam đã
kí kết trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948: “Mọi người đều có
quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”;(1) “Mọi người đều có quyền được
các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống
lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật
pháp quy định”.(2)
Một người tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng khi được các cơ quan
tiến hành tố tụng triệu tập. Với tư cách đó, họ không có quyền và lợi ích pháp lí
liên quan đến vụ án hình sự đang được giải quyết. Người làm chứng là chủ thể
tham gia tố tụng không có sự quan tâm pháp lí về kết cục của vụ án. Lí do tham gia
của họ trong vụ án hình sự không phải lợi ích cá nhân của họ mà là lợi ích chung
của xã hội: Làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.(3) Vì vậy, người làm chứng
có những yếu tố tâm lí xã hội riêng, mang tính chất đặc thù(4) không giống như
những người tham gia tố tụng khác. Họ có thể hoàn toàn không quan tâm đến vụ
án đang được giải quyết do không có lợi ích trực tiếp; họ có thể sợ ảnh hưởng đến
uy tín, danh dự của bản thân do có mối quan hệvớingườiphạmtội;họcóthểsợbịxửlí

trước pháp luật do có hành vi liên quan ở mức độ nhất định đến sự việc phạm tội;
họ có thể sợ bị trả thù từ phía người phạm tội hoặc gia đình người phạm tội...
Trước pháp luật, việc người đó đứng ra làm chứng là thực hiện trách nhiệm của
công dân. Không thể cho rằng việc họ làm chứng hay không là quyền tự do của
công dân bởi vì bên cạnh quyền của mỗi cá nhân thì “Mọi người đều có những
nghĩa vụ đối với cộng đồng...”.(5) Để người làm chứng thực hiện nghĩa vụ công
dân thì trong trường hợp này phải giải quyết được yếu tố tâm lí để họ yên tâm hợp
tác với cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy cần thiết phải có chương trình bảo vệ
người làm chứng nhằm chống lại sự xâm hại hoặc đe doạ xâm hại từ phía người
phạm tội.
8

8


1.2. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng (điểm b Khoản 3 Điều 55 BLTTHS).
Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng là sự cụ thể hóa quy định về quyền khiếu nại – quyền hiến định
cơ bản của công dân được quy định trong điều 74, Hiến pháp 1992; là sự cụ thể
nguyên tắc cơ bản của luật TTHS – Điều 31 BLTTHS quy định: “Công dân, cơ
quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.”.
Người làm chứng nếu nhận thấy các quyết định, hành vi của cơ quan, người tiến
hành tố tụng là sai trái, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của bản thân thì có quyền khiếu nại đến cơ quân có thẩm quyền yêu cầu bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình như: Khiếu nại quyết định dẫn giải;
khiếu nại việc lấy lời khai; khiếu nại hành vi của người tiến hành tố tụng có hành
vi dụ dỗ, mua chuộc, đe dọa...

Ngừoi làm chứng là một trong những chủ thể tham gia tố tụng, việc họ có quyền
khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng, thể
hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, phù hợp với nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật ( Điều 5 BLTTHS). Việc
quy định về quyền khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, ngừoi
tiến hành tố tụng của người làm chứng còn thể hiện bản chất dân chủ của pháp luật
TTHS, vừa có ý nghãi bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân vừa
góp phần khắc phục những sai phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngừoi tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Quy định như vậy nhằm làm cho
người làm chứng quan tâm hơn tới các quyết định, hành vi của cơ quan, ngừoi tiến
hành tố tụng liên quan tới các quyền lợi chợp pháp của mìnhd để họ có thể bảo vệ
quyền lợi của mình khi tham gia TTHS.
1.3. Quyền được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi
phí khác theo quy định của pháp luật ( Điểm c Khoản 3 Điều 55 BLTTHS).
9

9


Theo quy định tại điểm c khoản 3 điều 55 BLTTHS thì người làm chứng có thể
liệt kê các chi phí liên quan tới việc đi lại, ăn ở và các chi phí khác, yêu cầu cơ
quan tiến hành tố tụng thanh toán chi phí đó. Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn bản
nào quy định cụ thể “chi phí khác” được thanh toán trong quá trình người làm
chứng thực hiện nghĩa vụ tổ tụng. Ngoài ra đối với người làm chứng dưới 16 tuổi,
khi lấy lời khai phải có mặt của cha, mẹ hoặc ngừoi đại diện hợp pháp hoặc thầy,
cô giáo của người đó tham dự, nhưng BLTTHS không quy định những chủ thể này
được thanh toán các chi phí. Thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng thanh
toán chi phí đi lại cho người làm chứng theo hóa đơn hoặc giấy xác nhận. Giả sử
để kịp thời gian trong giấy triệu tập, người làm chứng phải mua vé máy bay với giá
cao hơn thì có được thanh toán không hay là chỉ theo mức quy định của pháp luật,

điều này cũng chưa có hướng dẫn cụ thể.
Quy định người làm chứng được thanh toán các chi phí theo quy định pháp luật
là hợp lý, khuyết khích nhân dân tham gia vào công việc phòng chống, tố giác tội
phạm. Tuy nhiên quy định này lại chưa đầy đủ và cụ thể để có thể thực hiện thống
nhất trên thực tế. Chưa thực sự đảm bảo được quyền lợi cho người làm chứng,
khuyến khích họ thực hiện nghĩa vụ của mình, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết
vụ án.
2. Quy định của BLTTHS về nghĩa vụ của người làm chứng.
2.1. Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
Điểm a Khoản 4 Điều 55 BLTTHS quy định: “Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong trường hợp cố ý không đến mà không
có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố,
xét xử thì có thể bị dẫn giải” . Nghĩa vụ phòng, chống tội phạm là nghĩa vụ của
mọi công dân với nhà nước, do vậy người làm chứng khi nhận được giấy triệu tập
của cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu họ thực hiện nghĩa vụ công dân của mình để
giải quyết một vụ án cụ thể, phải có mặt theo giấy triệu tập đó. Sự có mặt của
người làm chứng phải đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy triệu tập là cần thiệt,
có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án/ Qua hoạt động lấy lời khai, đối chất,
nhận dạng, thực nghiệm điều tra các tình tiết của vụ án sẽ được làm rõ. Tại phiên
10
10


tòa, lời khai trước đó của người làm chứng sẽ được thẩm định lại, được làm rõ để
sử dụng làm căn cứ xác định tội phạm, quyền được bào chữa của bị cáo cũng được
đảm bảo. Nếu người làm chứng vắng mặt không có lý do chính đáng và việc vắng
mặt của họ gây khó khăn, trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn
giải. Quy định này có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm sự có mặt của người làm
chứng khi được triệu tập, hạn chế được việc họ lẩn tránh, thoái thác trách nhiệm
không chịu hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình xác định sự thật

khác quan của vụ án. Việc người làm chứng đến đúng thời gian và địa điểm còn
tránh được sự tốn kém nhất định về kinh phí trong quá trình giải quyết vụ án.
Khoản 2 điều 133 BLTTHS cũng quy định khi “Các cơ quan, tổ chức đó có trách
nhiệm tạo tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện nghĩa vụ”. Tuy nhiên quy
định này thực tế khó thực hiện bởi trong các luật chuyên nghành không quy định
về quyền của người lao động được nghỉ viwwcj để tham gia làm chứng trong vụ án
hình sự. Trong bộ luật lao động chỉ quy định thời gian nghỉ hưởng nguyên lương là
nghỉ hàng năm; nghỉ về việc riêng; nghỉ ngày lễ... Luật cán bộ, công chức cũng
không có quy định nào về nghỉ đối với người làm chứng.
2.2. Nghĩa vụ khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án
(điểm b Khoản 4 điều 55 BLTTHS).
Người làm chứng tham gia tố tụng với chức năng hỗ trợ cơ quan tiến hành tố
tụng làm sáng tỏ vụ án. Lời khai gian dối của người làm chứng có thể làm tăng
nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Người làm chứng tham
gia vào quá trình giải quyết vụ án do họ biết được những tình tiết liên quan đến vụ
án; là người không chịu ảnh hưởng bởi quyết định của vụ án, lời khai của họ là
nguồn chứng cứ quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, người làm chứng phải có nghĩa vụ
khai báo tất cả, khai báo trung thực, không che dấu những gì mà họ biết về vụ án.
Việc người làm chứng cam đoan không khai gian đối quy định tại khoản 1 Điều
204 BLTTHS là một biện pháp giúp người làm chứng thấy được rõ hơn trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình tại tòa, đối với người làm chứng là người chưa thành
niên thì không phải cam đoan.
11

11


Pháp luật TTHS còn quy định: Nếu người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh
việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo

điều 309 BLHS; khai báo gian dối thì chịu trách nhiệm hình sự theo điều 307
BLHS. Trong khi đó tại điều 314 BLHS quy định về hành vi không tố giác tội
phạm của nhữg người là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc
chồng của kẻ phạm tội không phạm tội (trừ không tố giác đối với tội đặc biệt
nghiêm trọng và tội về an ninh quốc gia). Quy định này đã thể hiện sự quan tâm
của Nhà nước đối với khía cạnh đạo đức trong quá trình giải quyết mối quan hệ
giữa Nhà nước và công dân đảm bảo quy định pháp luật phù hợp với đạo đức dân
tộc.
3. Một số quy định khác về người làm chứng.
- Quy định của BLTTHS về trường hợp không được làm chứng: Để đảm bảo
tính khách quan của vụ án, tại khoản 2 Điều 5 BLTTHS năm 2003 quy định rõ
trường hợp không được làm chứng, gồm người bào chữa của bị can, bị cáo; người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được
những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn. Người bão
chữa của bị can, bị cáo có nghĩa vụ làm sang tỏ những tình tiết xác định bị can, bị
cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và có nghịa vụ không làm
tiết lộ bí mật mà họ biết được do tham gia bão chữa; nếu làm chứng họ có thể vi
phạm nghĩa vụ, không làm đúng thỏa thuận với bị can, bị cáo. Đối với những
trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn với những
tình tiết của vụ án cùa người làm chứng hoặc người bị hại, cần xác định tình trạng
giám định tình trạng tâm thần thì bắt buộc phải trưng cầu giám định (Điểm c
Khoản 3 Điều 155 BLTTHS năm 2003).
- Quy định của BLTTTHS năm 2003 về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng đảm bảo các quyền, lợi ích và nghĩa vụ cho người
làm chứng.
+ Quy định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản của người làm chứng và người thân thích của họ theo quy
định của pháp luật. Điều 7, Điều 12, Khoản 5 điều 211 BLTTHS.
12
12



+ Phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho người làm chứng và đảm bảo cho họ
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Điều 62 BLTTHS chỉ rõ: “Cơ quan, người
tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này. Việc giải thích
phải được ghi vào biên bản”. Đó là một sự đảm bảo cần thiết cho người làm chứng
biết về quyền và nghĩa vụ của mình, để họ tự bảo vệ quyền lợi cho mình và thực
hiện nghĩa vụ tố tụng, cũng như đảm bảo cho cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành
đúng trình tự, thủ tục pháp luật TTHS.
+ Phải giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan: BLTTHS năm 2003 quy định về
trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện
trưởng VKS, Chánh án Tòa án tại các Điều 34, Điều 36, Điều 38 và chương
XXXV cũng như được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT –
VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 10/08.2005), thực hiện rõ mục tiêu và trách
nhiệm bảo đảm thực hiện dân chủ trong hoạt động TTHS, bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
Ngoài ra trong quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009 thì tại điều 313 quy định: Người không tố giác tội phạm là ông, bà, cha,
mẹ,con, cháu, canh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác tội phạm đối với các tội xâm
phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
điều 313 của BLHS (Khoản 2 Điều 22 BLHS). Về tội từ chối khai báo theo BLHS
thì người nào từ chối khai báo nếu không thuộc trường hợp tại khoản 2 điều 22 của
BLHS mới phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 308 BLHS). Vì vậu, nếu người
làm chứng từ chối khai bảo thuộc trường hợp tại khoản 2 Điều 22 BLHS thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự.
III. Những thành tựu và hạn chế của quy định pháp luật về người làm chứng.
1. Những kết quả đạt được.
- Đa số người làm chứng đã thực hiện đúng nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập

của cơ quan tiến hành tố tụng và nghĩa vụ khai báo.
13

13


- Người làm chứng đã nhận thức được và thực hiện các quyền tố tụng: Người
làm chứng nhận thức được các quyền của mình và yêu cầu các cơ quan tiến hành
tố tụng có những biện pháp để bảo đảm thực hiện các quyền đó. Như yêu cầu cơ
quan tiến hành tố tụng có biện pháp bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe trước
nguy cơ bị xâm hại từ nguiowf phạm tội và thân nhân cảu họ khi người làm chứng
cung cấp lời khai có tính buộc tội hay tăng nặng TNHS. Vì dụ về vụ án xảy ra ngày
17/03/2013 tại phường Hội Hợp, Tp Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, nạn nhân là
Nguyễn Tuấn Anh (27 tuổi) – thi thể được phát hiện ở dứoi cống nước trong tình
trạng đang phân hủy. Kết quả điều tra bước đầu xác định nguyên nhân sự việc do
mâu thuẫn bột phát giữa nạn nhân, Nguyễn Văn Hiệp với 6 đối tượng đang ngồi ăn
uống tại Quán Tiên. Sau khi lời qua tiếng lại, nhóm đối tượng đã dùng gạch đá
ném, đánh, đuổi Tuấn Anh và Hiệp. hiệp chạy thoát còn Tuấn Anh bị sát hại. Quá
trình điều tra, Hiệp được cơ quan điều tra triệu tập đến, sau khi khai báo xong, sợ
bị trả thù nên Hiệp tự viết đơn xin được ở lại cơ quan công an để bảo đảm sự an
toàn của tính mạng. Và sau khi tời khỏi Trụ sở Công an Hiệp không dám về nhà
mà đến ở tạm ở một gia đình họ hàng.
Trong quá trình điều tra, nếu cơ quan điều tra tự xét thấy người làm chứng trên
thực tế bị đe dọa thì tùy theo khả năng của mình mà áp dụng một số biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn như tiến hành tổ chức bảo vệ người làm chứng, truy tìm kẻ
đe dọa... Trường hợp đã có hành vi trả thù thì tiến hành xem xét khởi tố vụ án. Một
số ít trường hợp xét thấy nguy cơ đe dọa, xâm hại có thể xảy ra đối với nhân chứng
nên Tòa không mời nhân chứng tham gia phiên tòa, khi công bố lời khia, Tòa
không nêu họ, tên của nhân chứng mà chỉ nêu nội dung lời khai, ngày giờ lấy lời
khai, số bút lục trong hồ sơ... nhằm bảo vệ nhân chứng khỏi sự trả thù của đối

tượng phạm tội, đồng bọn thân nhân của chúng.
- Trong quy định về bảo vệ người làm chứng khi tham gia tố tụng hình sự, quy
định của BLTTHS năm 2003 đã có những thay đổi cơ bản khi quy định về người
làm chứng so với BLTTHS năm 1988. Các quy định xác định người làm chứng
không phải thuần túy tham gia tố tụng theo nghĩa vụ, thể hiện tỏng quy định nội
dung mới, quan trọng vào nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏa, danh dự, nhân
14
14


phẩm, tài sản của công dân. Quy định bảo vệ người làm chứng không chỉ được quy
định trong Luật TTHS mà còn ở nhiều văn bản pháp luật khác: Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự; Luật an ninh quốc gia 2004; Luật phòng chống ma túy 2000...
2. Những hạn chế của quy định pháp luật TTHS về người làm chứng.
Thứ nhất, quy định về trường hợp người không được làm người làm chứng.
Khoản 2 điều 55 BLTTHS quy định các trường hợp không được làm chứng còn
nhiều điểm chưa hợp lý như: Có trường hợp một người tham gia tố tụng với 2 tư
cách trong cùng một vụ án. Ở giai đoạn điều tra, truy tố họ được triệu tập với tư
cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự và người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng đến giai đoạn xét xử họ lại được
Tòa án triệu tập tham gia với vai trò người làm chứng. Có thể thấy việc một người
có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong cùng một vun án như vậy sẽ không đảm bảo
được sự vô tư khách quan khi khai báo, gây khó khăn trong việc xác định sự thật
khách quan của vụ án.
Thứ hai, một số quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật khác liên quan
chưa có sự đồng bộ: BLTTHS quy định khi triệu tập người làm chứng: “Các cơ
quan, tổ chức đó có trách nhiệm tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện
nghĩa vụ - Điều 133”, nhưng quy định này dường như không thực hiện được bởi
trong Bộ luật lao động không quy định có thời gian cho nghỉ có hưởng lương để
tham gia làm chứng; Luật cán bộ, công chức cũng không có quy định này.

Thứ ba, quy định của BLTTHS về bảo vệ người làm chứng. Vấn đề bảo vệ
người làm chứng hiện này được quy định rải rác trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật khác nhau. Các văn bản đó đều xác định người làm chứng có quyền được
bảo vệ đồng thời xác định trách nhiệm của của các cơ quan nhà nước có liên quan.
Tuy nhiên các quy định này mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, thiếu hướng dẫn cụ thể,
nhất là biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, lực lượng bảo vệ, kinh phí
bảo vệ người làm chứng, người thân thích của họ...
Thứ tư, pháp luật hiện hành không có quy định biện pháp cụ thể đảm bảo thực
hiện quyền của người làm chứng, không có chế độ khuyến khích vật chất hay tinh
thần cho người làm chứng; việc thanh toán các chi phí cho người làm chứng theo
15
15


quy định tại điểm c khoản 3 Điều 55 BLTTHS chưa đầy đủ, theo hướng dẫn tại
Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 thì quy định này còn một số điểm chưa rõ như
các chi phí khác theo quy định của pháp luật chi trả cho người làm chứng là những
chi phí gì? thanh toán như thế nào?... vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể.
III. Một số giải pháp điều chỉnh quy định pháp luật về người làm chứng.
Thứ nhất cẩn thay đổi quy định tại Khoản 2 điều 55 BLTTHS theo hướng :
Điều 55. Người làm chứng
2. Nhữg người không được làm chứng:
a) Người bào chữa của bị can, bị cáo; người đại diện hợp pháp của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa cụ liên quan đến vụ
án hình sự; người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dấn sự, bị đơn
dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự, người đã tham
gia vào vụ án với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán.
Thứ hai, cần kiện toàn hệ thống pháp luật liên quan về người làm chứng. Tạo
điều kiện áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm quyền lợi của người làm chứng
được thực hiện trong thực tiễn. Tránh tình trạng quy định đưa ra mang tính hình

thức, không áp dụng vào thực tế được. VD: cần quy định trong bộ luật Lao động,
Luật cán bộ công chức thời gian nghỉ hưởng đủ lương trong thời gian thực hiện
nghĩa vụ của người làm chứng.
Thứ ba, trong việc bảo vệ người làm chứng:
- Cần phải có những sửa đổi, bổ sung nhất định trong BLTTHS để người làm
chứng hoàn toàn có thể yên tâm khi tham gia làm chứng trong các vụ án hình sự.
Những sửa đổi này sẽ đề cập những biện pháp khả thi nhất, dễ áp dụng nhất nhưng
vẫn có thể mang lại tác dụng bảo vệ cần thiết đối với người làm chứng: VD: Cho
phép người làm chứng được quyền yêu cầu giữ bí mật cá nhân khi thực hiện nghĩa
vụ làm chứng tại phiên tòa. Nếu thấy cần thiết tòa án có thể không cho báo chí đưa
tin, hình ảnh của người làm chứng; Quy định cho phép Tòa án có thể thẩm phấn
người làm chứng trong phiên tòa công khai hoặc phiên tòa kín; Quy định tòa án có
thể thẩm vấn người làm chứng qua phương tiện nghe, nhìn... mà không cần sự hiện
diện của họ để đảm bảo an toàn cho họ; Quy định được hưởng thù lao tương xứng
16
16


với giá trị chứng minh mà họ cung cấp, hợp tác...
- Cần thiết phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật riêng, pháp điển hóa các
quy định pháp luật về bảo vệ nhân chứng. Trong đó không chỉ còn là nguyên tắc
mà cụ thể về biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, lực lượng bảo vệ,
kinh phí bảo vệ người làm chứng, người thân thích của họ...
Thứ ba, cần thiết phải ban hành các quy định nhằm tăng quyền cho người
làm chứng, góp phần khuyến khích họ tích cực tham gia vào hoạt động, phòng
chống, tố giác tội phạm. Đồng thời giải quyết quyền lợi của những người là đại
diện hợp pháp của người làm chứng chưa thành niên (Họ cũng phải được thanh
toán các chi phí đi lại, thu nhập khác trong thời gian giám hộ cho người làm chứng
dưới 16 tuổi). VD: biện pháp cụ thể đảm bảo thực hiện quyền của người làm
chứng, không có chế độ khuyến khích vật chất hay tinh thần cho người làm chứng;

tăng chế độ bồi dưỡng trợ cấp cho người làm chứng....

C. KẾT LUẬN.
Chế định người làm chứng được quy định trong bộ luật TTHS năm 2003 quy
định tiết tục hoàn thiện các chế độ về ngừoi làm chứng, mở rộng quyền của họ và
những biện pháp đảm bảo tố tụng cho các quyền đó. Chế định là cơ sở pháp lý
quan trọng để bảo vệ người làm chứng – chủ thể góp phần làm rõ sự thật khách
quan của vụ án. Tuy nhiên quy định về người làm chứng vẫn chưa tạo cơ sở pháp
lý phù hợp để khuyến khích người làm chứng tính cực thực hiện nghĩa vụ công dân
của mình, chưa thực sự đảm bảo các quyền lợi chính đáng của họ. Do vậy cùng với
quá trình hội nhập kinh tế thế giới, sự hoàn thiện chế định người làm chứng sẽ có ý
nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ quyền lợi của con người, quyền lợi của toàn xã
hội nói chung cũng như quyền lợi của người làm chứng nói riêng; góp phần củng
cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật, của Nhà nước và đồng
thời góp phần quan trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa vững
17

17


mạnh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự/ Trường Đại học luật Hà Nội – NXB Công
an nhân dân, 2001.
2. Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.
3. Luận án thạc sỹ luật học: “Địa vị pháp lý cuả người làm chứng trong tố tụng
hình sự Việt Nam” – Nguyễn Thị Vân, 2006.
4. Một số vấn đề về người làm chứng trong tố tụng hình sự/T.S. Trần Văn Độ Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và pháp luật, Số 9/1998.
5. Một số vấn đề về người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam/

Phạm Quang Định – Tạp chí Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 7/2008.

18

18



×