Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

BIỆN PHÁP GIÁO dục ý THỨC bảo vệ môi TRƯỜNG BIỂN CHO học SINH các TRƯỜNG THCS, HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ hải PHÒNG dựa vào CỘNG ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.77 KB, 68 trang )

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC Ý
THỨC BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG BIỂN CHO HỌC
SINH CÁC TRƯỜNG THCS,
HUYỆN KIẾN THỤY,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG


- Định hướng và nguyên tắc đề xuất biện pháp
- Định hướng đề xuất biện pháp
- Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước Việt Nam về bảo vệ môi trường biển.
Biển đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại, phát
triển của đất nước. Biển và vùng biển có tiềm năng rất lớn trong
chiến lược phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi
ích kinh tế thu được về hàng hải, du lịch, dịch vụ, khai thác thủy
hải sản, dầu khí..., Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều
vấn đề về môi trường biển, biển và các vùng ven biển đang có
nguy cơ ô nhiễm gia tăng. Trước thực trạng đó, việc bảo tồn và
phát huy nguồn tài nguyên biển giàu có, bảo vệ môi trường biển
Việt Nam có ý nghĩa quyết định. Việt Nam đã xây dựng, phát triển
hệ thống các chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường biển.
* Một số chính sách và định hướng về công tác bảo vệ môi
trường biển:
Quyền, nghĩa vụ công dân và cộng đồng trong việc tham gia
BVMTB đã được nêu rõ trong những văn bản qui phạm pháp luật
của nước ta.


Luật biển Việt Nam ngày 21 tháng 6 năm 2012[29] chỉ rõ:


Khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá
nhân phải tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế có liên quan đến việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên và
môi trường biển.[Khoản 1, điều 35]; Khi vận chuyển, bốc, dỡ các
loại hàng hóa, thiết bị có khả năng gây hại đối với tài nguyên, đời
sống của con người và ô nhiễm môi trường biển, tàu thuyền, tổ
chức, cá nhân phải sử dụng thiết bị và các biện pháp chuyên dụng
theo quy định để ngăn ngừa và hạn chế tối đa thiệt hại có thể xảy
ra cho người, tài nguyên và môi trường biển.[Khoản 1, điều 35];
Tàu thuyền, tổ chức, cá nhân không được thải, nhấn chìm hay
chôn lấp các loại chất thải công nghiệp, chất thải hạt nhân hoặc
các loại chất thải độc hại khác trong vùng biển Việt Nam. [Khoản
1, điều 35];
Nghị định Số: 25/2009/NĐ-CP,ngày 06 tháng 03 năm 2009
“Về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải
đảo”[12] chỉ rõ: Các chủ cơ sở sản xuất kinh doanh trên hải đảo,
chủ phương tiện nổi trên biển có trách nhiệm báo cáo về lượng
chất thải và phương án xử lý chất thải cho cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường; chủ phương tiện vận tải, kho lưu giữ hàng
hóa trên biển có nguy cơ gây ra sự cố môi trường cao phải có


phương án phòng tránh sự cố môi trường và phải thông báo cho
cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, Ủy ban Quốc gia Tìm
kiếm cứu nạn và Cảnh sát biển biết.[Mục a, khoản 1, điều 17];
Nước thải từ các dàn khoan thăm dò và khai thác dầu khí, phương
tiện nổi, nước dằn tàu của các tổ chức, cá nhân hoạt động tại các
vùng biển của Việt Nam chỉ được phép xả ra biển sau khi đã xử lý
đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường.[Mục b, khoản 1, điều 17];
Chất thải rắn phát sinh tại dàn khoan, các phương tiện nổi phải

được quản lý theo quy định của pháp luật.[Mục c, khoản 1, điều
17]; Hoạt động nuôi trồng thủy sản tại vùng biển của Việt Nam và
vùng ven biển phải tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi
trường và các quy định của pháp luật khác liên quan. [Mục d,
khoản 1, điều 17]; Nhà nước ưu tiên đẩy mạnh công tác tuyên
truyền để nâng cao nhận thức về bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc
gia trên biển; khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ
môi trường biển, hải đảo; khuyến khích các tổ chức, cá nhân chủ
động, tích cực tham gia các hình thức tuyên truyền trong cộng
đồng về việc thực hiện chính sách, pháp luật quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường biển, hải đảo. [Khoản 1, điều 23]; Tổ chức các
giải thưởng, các hình thức khen thưởng cho tổ chức, cá nhân có
thành tích xuất sắc trong việc đưa ra các sáng kiến, giải pháp kỹ
thuật nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài


nguyên biển hoặc đã thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường biển,
hải đảo; [Mục c, khoản 2, điều 23];
Quyết định số 1570/QĐ-TTg, ngày 06 tháng 09 năm 2013
củaThủ tướng Chính phủ “Phê duyệt chiến lược khai thác, sử dụng
bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030”[14] chỉ rõ: Tài nguyên và môi trường biển có
ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng, gắn liền với chủ quyền,
quyền chủ quyền quốc gia, đặc quyền kinh tế và an ninh quốc
phòng trên biển, là nền tảng vững chắc để tiến ra biển, là nguồn lực
đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển; Biển
Việt Nam là một phần không tách rời của Biển Đông, biển và các
đại dương trên thế giới; nỗ lực thúc đẩy khai thác, sử dụng tài
nguyên theo hướng phát triển bền vững, bảo vệ môi trường biển
của Việt Nam là một phần trong nỗ lực chung của toàn nhân loại

bảo vệ tài nguyên, môi trường biển vì mục tiêu phát triển bền vững.
Kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa các hoạt động điều tra, khai thác, sử
dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế
biển với quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền
quốc gia trên biển; Giảm nhẹ mức độ suy thoái, cạn kiệt tài nguyên
và kiềm chế tốc độ gia tăng ô nhiễm môi trường vùng ven biển,
vùng biển ven bờ và trên các đảo; Hiểu biết cơ bản về tiềm năng tài


nguyên - môi trường, những lợi thế và những tác động bất lợi từ
biển trên các vùng biển Việt Nam và vùng biển quốc tế liền kề đối
với phát triển bền vững kinh tế - xã hội; ngăn chặn, đẩy lùi xu
hướng gia tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên,
suy giảm đa dạng sinh học biển nhằm bảo đảm cân bằng sinh thái
biển ở mức ổn định; Kiểm soát các nguồn thải trực tiếp gây ô
nhiễm, suy thoái môi trường vùng biển ven bờ, đặc biệt là các khu
đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở nuôi trồng, chế biến
thủy sản, hoạt động thương mại, dịch vụ... dọc theo bờ biển, trên
các đảo, cụm đảo, bảo đảm nước thải phải được xử lý đạt quy
chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra biển; Tuyên truyền, nâng cao nhận
thức về biển, về khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ
môi trường biển, hải đảo; Đẩy mạnh giáo dục pháp luật nhằm nâng
cao hiểu biết, từ đó hình thành ý thức bảo vệ môi trường, trồng,
phục hồi và bảo vệ rừng ngập mặn, ý thức chấp hành pháp luật về
biển trong xã hội. Tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho cộng đồng
dân cư ven biển, trên các đảo về biến đổi khí hậu và kỹ năng thích
nghi để sống chung với biến đổi khí hậu. Vận động ngư dân không
sử dụng các biện pháp có tính hủy diệt, thiếu bền vững trong khai
thác hải sản, không khai thác hải sản trong các vùng cấm, không
đánh bắt các loài thủy sinh thuộc danh mục cấm khai thác và có

trách nhiệm bảo vệ các loài thủy sinh thuộc danh mục ưu tiên bảo


vệ; Đưa nội dung giáo dục về tài nguyên, môi trường, chủ quyền
biển vào chương trình giảng dạy ở các cấp học phổ thông, trung
cấp, cao đẳng, đại học nhằm cung cấp thông tin, kiến thức cơ bản
về biển, tài nguyên và môi trường biển nước ta, về sử dụng bền
vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển cho các tầng lớp học
sinh, sinh viên. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên trong tuyên truyền, giáo dục ý thức về khai
thác, sử dụng bền vững tài nguyên và BVMTB.
Hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường biển có thể
khái quát qua những bộ luật, chính sách sau:
- Luật Bảo vệ Môi trường 2005[28] có những quy định cơ bản
quan trọng về bảo vệ môi trường biển cùng với các luật khác có liên
quan cũng có những quy định về bảo vệ môi trường biển tạo ra một
khung pháp lý toàn diện về bảo vệ môi trường biển.
- Các quy định chính sách và pháp luật trên góp phần nội
luật hóa và thực hiện các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường
biển mà Việt Nam đã tham gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển kinh tế xã hội
biển và bảo vệ môi trường biển Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày
09/02/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương


Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020[1] đã
nêu rõ nội dung phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia
mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền,
quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định
và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã

hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có
chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực cho phát triển
kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế lớn vùng duyên hải
gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng đối
với sự phát triển của cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế
biển đóng góp khoảng 53 – 55% GDP, 55 – 60% kim ngạch xuất
khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một
bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển.”
Nhằm triển khai chủ trương trên của Đảng, Chính phủ thông
qua Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020.[1]
Tiếp đó, hầu hết các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương
ven biển đều ban hành Nghị quyết để triển khai Nghị quyết 09NQ/TW ngày 09/02/2007 về Chiến lược Biển 2020. Trong đó hầu


hết, các chương trình, kế hoạch đều đề cập đến việc thực hiện bảo
vệ môi trường biển.
Để xây dựng và thực hiện được các chiến lược nêu trên, một
loạt các chính sách hỗ trợ cũng được ban hành trước đó như: Đề
án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường
biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 phê duyệt bởi Quyết
định Số 47/2006/QĐ-TTg ngày 1/3/2006[8]. Trong đề án vấn đề
bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo rất được quan tâm và
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đề án này đã được kết hợp, lồng
ghép chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế biển theo quan
điểm sử dụng tổng hợp, hợp lý đi đôi với bảo vệ tài nguyên và
môi trường biển ven bờ.
Nghị định 101/2007/NĐ-CP ngày 13/ 6/2007 Về việc thu

thập, quản lý, khai thác và sử dụng dữ liệu tài nguyên, môi trường
biển[9], Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc
Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020 phê duyệt bởi Quyết định 158/2007/QĐ-TTg ngày
9/10/2007.[10]
Luật Bảo vệ Môi trường 2005 có những quy định cơ bản
quan trọng về bảo vệ môi trường biển cùng với các luật khác có


liên quan cũng có những quy định về bảo vệ môi trường biển tạo
ra một khung pháp lý toàn diện về bảo vệ môi trường biển.[28]
Luật bảo vệ Môi trường 2005 xác định hoạt động bảo vệ môi
trường biển gồm ba nội dung chính là:
- Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển.
- Kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển.
- Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển. Đây cũng
chính là 3 điều luật chính trong Mục 1, Chương VII, Luật Bảo vệ
môi trường 2005.[28]
Để điều chỉnh và đảm bảo hoạt động bảo vệ môi trường
biển, ngoài các quy định chung mang tính định hướng tại Mục 1,
Chương VII, Luật Bảo vệ môi trường 2005 còn có các văn bản
pháp luật liên quan điều chỉnh cụ thể như Luật Thủy sản 2003,
Nghị định 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9 về bảo vệ và phát triển bền
vững các vùng đất ngập nước [6] và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
Bên cạnh đó, Luật cũng đưa ra các nguyên tắc đối với bảo vệ
môi trường biển tại Điều 55, cụ thể:


- Bảo vệ môi trường là một nội dung của quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế biển nhằm giảm thiểu tác động xấu đối với môi
trường biển và tăng hiệu quả kinh tế biển.
- Phòng ngừa và hạn chế chất thải từ đất liền và từ các hoạt
động trên biển; chủ động, phối hợp ứng phó sự cố môi trường
biển.
- Bảo vệ môi trường biển phải trên cơ sở phân vùng chức
năng bảo vệ và sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
- Bảo vệ môi trường biển phải gắn với quản lý tổng hợp tài
nguyên và môi trường biển phục vụ phát triển bền vững.
Đây là các nguyên tắc mang tính định hướng cho hoạt động
bảo vệ môi trường biển. Có thể thấy rõ hoạt động bảo vệ môi
trường biển không tách rời hoạt động phát triển kinh tế biển và
hoạt động bảo vệ là nhằm tăng hiệu quả hoạt động kinh tế
biển. Nguyên tắc số một này yêu cầu phải được thực hiện ngay
chính trong giai đoạn quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển.
Một nguyên tắc định hướng nữa là phân vùng chức năng bảo vệ
và sử dụng tài nguyên biển là cơ sở cho hoạt động bảo vệ môi
trường biển và hoạt động này hướng tới phát triển bền vững.


Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển. Nội dung này
được quy định tại Điều 56, Luật bảo vệ môi trường 2005 với các
hoạt động cụ thể:
- Các nguồn tài nguyên biển phải được điều tra, đánh giá về
trữ lượng, khả năng tái sinh và giá trị kinh tế phục vụ việc quản lý
và bảo vệ môi trường biển.
- Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, khai thác nguồn lợi, tài
nguyên biển và hoạt động khác liên quan đến khai thác, sử dụng
tài nguyên biển phải được thực hiện theo quy hoạch sử dụng tài
nguyên thiên nhiên đã được phê duyệt.

- Hoạt động trong khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng ngập
mặn, di sản tự nhiên biển phải tuân theo quy chế của ban quản lý,
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.
- Nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp, phương tiện,
công cụ có tính huỷ diệt trong khai thác tài nguyên và nguồn lợi
biển”
Đối với quy định về “Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, khai
thác nguồn lợi, tài nguyên biển và hoạt động khác liên quan đến
khai thác, sử dụng tài nguyên biển”, hiện nay Nhà nước đã ban


hành Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến
năm 2010 theo Quyết định số 131/2004/QĐ-TTg ngày
16/7/2004[7]. Mục tiêu của chương trình là bảo vệ, bảo tồn đa
dạng thuỷ sinh vật, đặc biệt là các loài thủy sản quý, hiếm, có giá
trị khoa học và kinh tế; giữ gìn tính đa dạng, độc đáo của hệ sinh
thái thuỷ sinh vật Việt Nam cho hiện tại và tương lai; phục hồi
nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ, nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng, giá trị các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng
sinh học, đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm của ngư dân
trong việc tham gia bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tăng cường năng
lực quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản
của các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp.
Ngoài Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản
đến năm 2010 được triển khai chung trên toàn quốc, tại từng khu
vực cụ thể còn xây dựng chương trình quản lý dải tổng hợp ven
biển như Chương trình quản lý tổng hợp dải ven biển vùng Bắc
Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020 theo Quyết định 158/2007/QĐ-TTg ngày

9/10/2007.[10]
Đối với hoạt động trong khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng
ngập mặn, di sản tự nhiên biển phải tuân theo quy chế của ban


quản lý, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và các quy
định khác của pháp luật có liên quan. Những quy định pháp luật
có liên quan đến khu bảo tồn biển trước hết phải kể đến quy định
của Luật Thủy sản 2003 và Nghị định 27/2005/NĐ-CP ngày
08/3/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Thuỷ sản với quy định về định nghĩa khu bảo tồn biển, tiêu
chuẩn phân loại, phân cấp tổ chức và quản lý khu bảo tồn biển.
Đối với khu bảo tồn vùng nước nội địa được Nghị định 27 của
Chính phủ coi là nơi được khoanh vùng các vùng đất ngập
nước và chịu sự điều chỉnh của Nghị định số 109/2003/NĐ-CP
ngày 23/9/2003 của Chính phủ về bảo tồn và khai thác bền vững
các vùng đất ngập nước[6]. Những nội dung của Nghị định
109/2003/NĐ-CP điều chỉnh các hoạt động về bảo tồn và phát
triển bền vững các vùng đất ngập nước trên phạm vi lãnh thổ Việt
Nam bao gồm vùng đất ngập nước có hệ sinh thái đặc thù, đa dạng
sinh học cao, có chức năng duy trì nguồn nước và cân bằng sinh
thái, có tầm quan trọng quốc tế, quốc gia.
Gần đây nhất, Chính Phủ đã ban hành Quy chế quản lý các
Khu bảo tồn biển Việt Nam có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế
ban hành kèm theo Nghị định 57/2008/NĐ-CP ngày 2/5/2008, ban
hành Quy chế quản lý các Khu bảo tồn biển Việt Nam có tầm quan


trọng quốc gia và quốc tế [11], quy định rõ về tiêu chuẩn phân loại,
việc tổ chức quản lý, bảo vệ và phát triển các Khu bảo tồn biển Việt

Nam có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế; trách nhiệm của các
Bộ, ngành và các địa phương.
Đối với việc nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp,
phương tiện, công cụ có tính huỷ diệt trong khai thác tài nguyên
và nguồn lợi biển, điều này cũng đã được quy định tại Luật Thủy
sản, 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Điều 8, Luật
Thủy sản, Bộ Thủy sản (hiện nay là Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn) có trách nhiệm định kỳ công bố các phương pháp khai
thác, loại nghề khai thác, ngụ cư bị cấm sử dụng hoặc bị hạn chế
sử dụng; Chủng loại, kích cỡ tối thiếu các loài thủy sản được phép
khai thác, mùa vụ khai thác; Khu vực cấm khai thác và khu vực
cấm khai thác có thời hạn là căn cứ để xác định biện pháp, phương
tiện, công cụ có tính huỷ diệt trong khai thác tài nguyên và nguồn
lợi biển.
Kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển, nội dung này
được quy định tại điều 57. Theo đó, để kiểm soát và xử lý ô nhiễm
môi trường biển Luật Bảo vệ môi trường 2005 yêu cầu:
- Nguồn thải từ đất liền, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
đô thị, khu dân cư ven biển, trên biển, trên đảo phải được điều tra,


thống kê, đánh giá và có giải pháp ngăn ngừa, hạn chế tác động
xấu đối với môi trường biển” [Khoản1, Điều 57]
- Chất thải và các yếu tố gây ô nhiễm khác từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, xây dựng, giao thông, vận tải, khai thác
trên biển phải được kiểm soát và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường.
Bộ Luật hàng hải Việt Nam ngày 14 tháng 6 năm 2005[4],
Thông tư 2592/Mtg ngày 12/11/1996 của Bộ khoa học, công nghệ
và môi trường về kiểm soát ô nhiễm biển do tàu thuyền và phương
tiện vận chuyển đường sông[2], có nêu rõ:

- Dầu, mỡ, dung dịch khoan, hoá chất và các chất độc hại
khác được sử dụng trong các hoạt động thăm dò, khai thác tài
nguyên biển sau khi sử dụng phải được thu gom, lưu giữ trong
thiết bị chuyên dụng và phải được xử lý theo quy định về quản lý
chất thải nguy hại.
- Nghiêm cấm mọi hình thức đổ chất thải trong vùng biển
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tổ chức phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển, do
mức độ nghiêm trọng của sự cố môi trường trên biển, nên ngoài
Mục 1, Chương 9 điều chỉnh về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi
trường nói chung, Luật Bảo vệ môi trường tiếp tục giành Điều


58 để quy định về Tổ chức phòng ngừa, ứng phó sự cố môi
trường trên biển với các nội dung cụ thể như sau:
- Tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng sản, chủ phương
tiện vận chuyển xăng, dầu, hoá chất, chất phóng xạ và các chất độc
hại khác trên biển phải có kế hoạch, nhân lực, trang thiết bị bảo đảm
phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường.
Riêng đối với hoạt động dầu khí là hoạt động diễn ra phổ
biến trên biển và nguy cơ sự cố môi trường do hoạt động dầu khí
gây ra rất lớn nên Nghị định 48/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 Quy
định chi tiết thi hành Luật Dầu khí có những quy định rất cụ thể
nhằm phòng ngừa sự cố do hoạt động dầu khí.
Đối với các hoạt động khác, Bộ Luật Hàng Hải và các Nghị
định hướng dẫn thi hành quy định rất cụ thể đối với các loại hình
vận chuyển hoá chất, chất phóng xạ và các chất độc hại khác trên
biển phải đảm bảo an toàn, phòng ngừa sự cố xảy ra.
- Lực lượng cứu nạn, cứu hộ quốc gia, lực lượng cảnh sát
biển phải được đào tạo, huấn luyện, trang bị phương tiện, thiết bị

bảo đảm ứng phó sự cố môi trường trên biển.
- Chủ phương tiện vận tải, kho lưu giữ hàng hoá trên biển có
nguy cơ gây ra sự cố môi trường phải có hình thức thông báo cho


các lực lượng quy định tại khoản 2 Điều này và tổ chức, cá nhân
liên quan khác được biết và có phương án phòng tránh sự cố môi
trường.
- Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh ven biển trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm phát hiện, cảnh báo, thông
báo kịp thời về tai biến thiên nhiên, sự cố môi trường trên biển và
tổ chức ứng phó, khắc phục hậu quả.
Đặc biệt, Quyết định số 129/2001/QĐ-TTg ngày 29/8 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch quốc gia ứng phó sự cố
tràn dầu giai đoạn 2001- 2020[5], và quy chế hoạt động ứng phó
sự cố tràn dầu kèm theo quyết định 103/2005/QĐ-TTg ngày
12/5/2005, quy định rõ nội dung hoạt động, trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong việc ứng phó, khắc phục hậu quả sự cố tràn
dầu trên phạm vi cả nước.
Các quy định chính sách và pháp luật trên góp phần nội luật
hóa và thực hiện các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường biển
mà Việt Nam đã tham gia.
Để ngăn chặn ô nhiễm thực hiện bảo vệ môi trường biển
chung, rất nhiều các văn bản pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường


hoặc liên quan đến bảo vệ môi trường được cộng đồng quốc tế xây
dựng và được các quốc gia ký kết, Việt Nam đã phê chuẩn các điều
ước quốc tế khác nhau nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường biển,

như:
- Công ước Marpol 73/78 về ngăn chặn ô nhiễm biển do tàu
gây ra (Việt Nam tham gia ngày 29/8/1991).[21]
- Công ước quốc tế về an toàn tính mạng trên biển SOLAS
1974 (Việt Nam tham gia ngày 18/3/1991).[22]
- Công ước về Luật biển 1982 (Việt Nam tham gia ngày
16/11/1994).[23]
- Công ước quốc tế về sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với ô
nhiễm dầu (OPRC).[25]
- Chương trình hành động toàn cầu bảo vệ môi trường biển
từ các hoạt động có nguồn gốc đất liền (GPA).[26]
Nhà nước ta có những chính sách về tài nguyên, môi trường
biển và hải đảo cụ thể như sau:
- Nhà nước bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo được quản lý,
bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, bền vững theo chiến


lược, quy hoạch, kế hoạch phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ
chủ quyền quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Điều 4, Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
2015[30] của Nhà nước có quy định:
- Nhà nước huy động các nguồn lực, khuyến khích đẩy mạnh
công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo; ưu tiên cho vùng biển sâu, biển xa, hải
đảo, vùng biển quốc tế liền kề và các tài nguyên mới có tầm quan
trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh; có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia khai
thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải
đảo.
- Tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo;

nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong việc kiểm soát ô
nhiễm, phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường biển và hải đảo,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng; quản lý chặt chẽ hoạt động nhận
chìm ở biển.
- Đầu tư nâng cao năng lực quan trắc, giám sát, dự báo về tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo; thiết lập hệ thống thông tin,


cơ sở dữ liệu tổng hợp, đồng bộ về tài nguyên, môi trường biển và
hải đảo phục vụ phát triển kinh tế biển, quốc phòng, an ninh.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong quản
lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải
đảo trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
Về việc tham gia của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có
liên quan trong quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường
biển và hải đảo có quy định như sau:
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm bảo đảm
sự tham gia thuận lợi, có hiệu quả của cộng đồng dân cư, tổ chức,
cá nhân có liên quan trong quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ
môi trường biển và hải đảo.
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm lấy ý kiến
của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá
trình lập chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo
vệ môi trường biển và hải đảo, quy hoạch tổng thể khai thác, sử
dụng bền vững tài nguyên vùng bờ, chương trình quản lý tổng hợp
tài nguyên vùng bờ và thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển; tiếp thu,
giải trình các ý kiến tham gia của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá
nhân có liên quan.



- Việc lấy ý kiến của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có
liên quan được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp, bằng văn
bản hoặc các phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện
tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc tiếp thu, giải trình
phải được công khai trên trang thông tin điện tử của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Như vậy, việc tham gia của cộng đồng dân cư, các tổ chức,
cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo đảm sự thuận
lợi, công bằng, có hiệu quả khi tham gia vào các hoạt động đó.
Thêm vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền lấy ý kiến của
cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân để lập chiến lược khai thác, sử
dụng tài nguyên bền vững, bảo vệ môi trường biển và hải đảo, qua
đó tiếp thu, giải trình các ý kiến tham gia của cộng đồng dân cư, tổ
chức, cá nhân có liên quan thông qua hình thức trực tiếp, bằng văn
bản hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định
tại Luật tài nguyên môi trường biển và hải đảo 2015.
- Văn bản chỉ đạo của Bộ GD-ĐT về bảo vệ môi trường
biển.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Chỉ thị
02/2005/CT-BGDĐT ngày 31 tháng 01 năm 2005 về việc “Tăng
cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường”. Theo đó, Bộ Giáo


dục và Đào tạo đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục trong cả nước tổ
chức triển khai các nhiệm vụ về giáo dục bảo vệ môi trường, đưa
nội dung giáo dục môi trường vào trường học. Từ đó, hướng dẫn
xây dựng chương trình, tài liệu giảng dạy, học tập và tài liệu tham
khảo về Giáo dục bảo vệ môi trường (GDBVMT) của các cấp học,
trình độ đào tạo làm cơ sở cho việc thực hiện thống nhất mục tiêu,
nội dung và phương pháp GDBVMT trong các cơ sở giáo dục,

đào tạo; tổ chức tập huấn cho giáo viên cốt cán các cấp học từ
mầm non đến trung học phổ thông về các phương pháp tích
hợp/lồng ghép nội dung giáo dục môi trường vào các môn liên
quan trực tiếp đến môi trường, môi trường biển như sinh học, địa
lý, giáo dục công dân.., qua đó đã xây dựng được mạng lưới đội
ngũ giáo viên cốt cán triển khai nhiệm vụ tập huấn, tuyên truyền
về giáo dục bảo vệ môi trường tại cơ sở. Đội ngũ giáo viên cốt cán
này phải phát huy hiệu quả vai trò của mình trong việc triển khai
nhiệm vụ GDBVMT, MTB tại địa phương.
Công văn 2029/BGDĐT-KHCNMT ngày 27 tháng 04 năm
2015của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn xây dựng kế
hoạch bảo vệ môi trường năm 2016 trong đó có nội dung: Tổ chức
các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi
trường; tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Môi trường Thế


giới, Ngày Đại dương thế giới, Tuần lễ biển và hải đảo Việt Nam,
Ngày Đa dạng sinh học quốc tế, Tuần lễ quốc gia nước sạch và vệ
sinh môi trường, Chiến dịch làm cho Thế giới sạch hơn.
- Văn bản chỉ đạo của thành phố Hải Phòng và huyện Kiến
Thụy về bảo vệ môi trường biển.
Quyết địnhsố 800/2015/QĐ-UBND về việc ban hành quy
chế phối hợp quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường
biển, hải đảo thành phố Hải Phòng[35,36] qui định Sở Tài nguyên
và Môi trường có trách nhiệm chủ trì:
- Phối hợp Ủy ban nhân dân các quận, huyện ven biển và các
huyện đảo trên địa bàn thành phố hàng năm xây dựng kế hoạch
diễn tập và hướng dẫn thực hiện các quy định về quản lý chất thải
và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, hải đảo;[ Điểm g, mục 1,
điều 12]

- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tuyên truyền, phổ
biến chính sách, pháp luật về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo
vệ môi trường biển, hải đảo; về khai thác, sử dụng bền vững tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; phòng ngừa, ứng phó,
kiểm soát và khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố môi trường biển,
hải đảo;[ Điểm a, mục 1, điều 13]


- Phối hợp với Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam trong
việc trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến chương
trình đào tạo, tuyên truyền về biển, hải đảo ;[ Điểm b, mục 1, điều
13]
- Hỗ trợ, trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu cho các Sở,
ngành và Ủy ban nhân dân các quận, huyện ven biển, các huyện
đảo trên địa bàn thành phố để phục vụ công tác tuyên truyền nhằm
nâng cao nhận thức cho các tổ chức, cá nhân về khai thác, sử dụng
bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo; phòng
ngừa, ứng phó, kiểm soát và khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố
môi trường biển, hải đảo; [ Điểm c, mục 1, điều 13]
- Phối hợp với các Sở, ngành và Ủy ban nhân dân các quận,
huyện ven biển, các huyện đảo trên địa bàn thành phố xây dựng kế
hoạch và tổ chức thực iện các sự kiện của Tuần lễ biển và hải đảo
Việt Nam; [ Điểm d, mục 1, điều 13]
- Phối hợp với Ban Tuyên giáo Thành ủy, tuyên truyền phổ
biến chính sách, pháp luật về tài nguyên và bảo vệ môi trường biển,
hải đảo;[ Điểm đ, mục 1, điều 13]
- Các nguyên tắc đề xuất các biện pháp tổ chức giáo dục ý
thức bảo vệ môi trường biển.



×