Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

BÀN VỀ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.98 KB, 7 trang )

PHÁT HUY VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ThS. Nguyễn Thị Hồng Duyên*
TS. Phạm Thị Thúy∗

Giáo dục – đào tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng, quyết định trực tiếp
đến chất lượng nguồn nhân lực xã hội, tại Nghị quyết số 29/NQ-TW khóa XI một
lần nữa Đảng nhấn mạnh luận điểm “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu” trong sự nghiệp phát triển đất nước. Do đó, để đạt được mục tiêu, nhà nước
cần phát huy vai trò quản lý để đảm bảo hoạt động của nền giáo dục đạt hiệu quả
và tạo ra một nguồn nhân lực xã hội đạt các chỉ tiêu cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Bài viết chủ yếu phân tích vai trò
quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo, từ đó nêu lên một số kiến nghị,
nhằm phát huy hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
1. Đặt vấn đề
Nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của giáo dục và đào tạo, nhà nước tham
gia quản lý để điều chỉnh các quá trình hoạt động của đúng mục tiêu. Dưới sự phối
hợp đồng bộ, linh hoạt trong hoạt động quản lý nhà nước từ trung ương đến địa
phương, có thể nhận thấy trong mối quan hệ với việc giải quyết các vấn đề xã hội
như: xóa mù chữ, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn cho nhóm xã hội dễ bị
tổn thương; điều chỉnh sự chênh lệch giữa các loại hình đào tạo; xây dựng và hoàn
thiện hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị phục; nội dung chương trình đào tạo,
giảng dạy; xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên,… đã đạt được
những thành tựu đáng ghi nhận. Điều đó, góp phần khẳng định vai trò quan trọng
của hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động giáo dục và đào tạo trong mấy
thập niên qua.
∗ Giảng viên Bộ môn QLNN về Xã Hội Học viện Hành Chính Quốc Gia, Phân viện tại Thành phố

Hồ Chí Minh



Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động giáo dục và
đào tạo vẫn tồn tại nhiều bất cập từ thực tiễn hoạt động, xét về phương diện hoạt
động thì chất lượng giáo dục và đào tạo vẫn chưa mang lại hiệu quả từ bậc mầm
non đến bậc đại học và sau đại học; cơ sở vật chất xuống cấp, trong thiết bị phục
vụ giảng dạy lạc hậu; nội dung chương trình chậm đổi mới; đội ngũ giảng viên,
giáo viên chưa đạt về chất lượng và số lượng,… Xét về phương diện quản lý nhà
nước, từ công tac tổ chức bộ máy quản lý, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức, chế độ tiền lương và đãi ngộ, công tác tranh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm, thực thi chính sách xã hội hóa,… Do đó, nhà nước với tư cách là chủ thể
quản lý cần phát huy hơn nữa vai trò của mình nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả
hoạt động giáo dục và đào tạo.
2. Thực thi vai trò quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
Một là: Nhà nước là chủ thể duy nhất giữ vai trò tạo lập khung khổ pháp
lý làm công cụ quản lý đối về giáo dục - đào tạo
Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực nhà nước, trên cơ sở pháp luật đối với các hoạt động giáo
dục và đào tạo do các cơ qua nhà nước từ trung ương đến địa phương tiến hành để
thực hiện chức năng nhiệm vụ, do nhà nước ủy quyền nhằm phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn
và phẩm chất đạo đưc của nguồn nhân lực xã hội, thực hiền thành công các mục
tiêu phát triển giáo dục và đào tạo của quốc gia.
Để hướng tới xây dựng nền giáo dục – đào tạo có chất lượng, nhà nước là chủ
thể tạo lập khuôn khổ pháp luật nhằm quản lý các nội dung hoạt động của giáo dục
– đào tạo. Hệ thống pháp luật về giáo dục – đào tạo bao gồm các quy định về trách
nhiệm của nhà nước, trách nhiệm của hệ thống giáo dục – đào tạo; về tiêu chuẩn
giảng viên, giáo viên, người học, các quy định về bảo đảm chất lượng giáo dục –
đào tạo. Việc xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến hệ thống giáo dục đào tạo
về cơ bản một mặt tạo lập điều kiện cần thiết để các cơ sở giáo dục hoạt động có
chất lượng, mặt khác, cũng là sự phân định trách nhiệm của nhà nước, nhà trường



và xã hội đối với chất lượng giáo dục. Nhà nước xây dựng khung thể chế để có
công cụ quản lý chất lượng. Nhà trường trên cơ sở khuôn khổ pháp lý phát huy
năng lực trong thực hiện đào tạo, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào
tạo. Xã hội thông qua các công cụ pháp lý để giám sát, đánh giá về hiệu quả quản
lý nhà nước về chất lượng giáo dục – đào tạo, đánh giá về chất lượng cả hệ thống
giáo dục, đào tạo.
Hai là: Nhà nước là chủ thể quản lý chất lượng giáo dục – đào tạo
Chất lượng giáo dục là vấn đề quan tâm của cộng đồng xã hội, của nhà nước
và của các cơ sở đào tạo. Chính vì vậy, trong định hướng quản lý của mình, nhà
nước luôn quan tâm đến vấn đề bảo đảm chất lượng giáo dục. Vai trò của nhà nước
đối với chất lượng giáo dục – đào tạo ở mỗi quốc gia có thể được thể hiện ở những
phương diện, những mặt hoạt động khác nhau nhưng điểm mấu chốt trong vai trò
của nhà nước đối với chất lượng giáo dục thể hiện ở vai trò chủ thể quản lý nhà
nước đối với chất lượng giáo dục. Nhà nước xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục đào tọa bảo đảm nền
giáo dục có chất lượng; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
về giáo dục – đào tạo; nhà nước ban hành các quy định về khối lượng, cấu trúc
chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra tối thiểu của người học; tiêu chuẩn giảng viên;
tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị của cơ sở giáo dục – đào tọa; quản lý việc bảo
đảm chất lượng giáo dục – đào tạo; quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
giáo dục – đào tạo, chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục – đào tạo, chuẩn đối với
chương trình đào tạo tại các bậc đào tạo và yêu cầu tối thiểu để chương trình đào
tạo được thực hiện, quy trình, chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục, quản lý nhà
nước về kiểm định chất lượng giáo dục; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục – đào
tạo; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý giảng viên và cán bộ quản lý
giáo dục – đào tạo; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo
dục đào tạo; tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ,
sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đào tạo; tổ chức, quản lý hoạt động



hợp tác quốc tế về giáo dục – đào tạo; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật,
bảo đảm sự phát triển lành mạnh của nền giáo dục đào tạo.
Thứ ba: Nhà nước giao quyền tự chủ, phát huy năng lực của các cơ sở
giáo dục – đào tạo
Với vai trò chủ thể quản lý, nhà nước quyết định trao quyền tự chủ phù hợp
với năng lực thực hiện quyền tự chủ của các cơ sở đào tạo – đào tạo. Theo trình độ
quản lý và yêu cầu thực tiễn, nhà nước xác lập quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục
và đào tạo trong các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa
học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục – đào tạo; tự chủ
quyết định phương thức tuyển sinh, chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh; xác
định chỉ tiêu tuyển sinh, chịu trách nhiệm công bố công khai chỉ tiêu tuyển sinh,
chất lượng đào tạo và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục
– đào tạo; tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc xây dựng, thẩm định, ban hành
chương trình đào tạo từ mầm non đến đại học và sau đại học. Việc giao quyền tự
chủ nhằm tạo điều kiện phát huy năng lực, nâng cao trách nhiệm xã hội của mỗi cơ
sở đào tạo - đào tạo, nhằm khẳng định uy tín, năng lực và chất lượng đào tạo. Bởi
lẽ, khi được giao quyền tự chủ, chất lượng là yếu tố sống còn đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi cơ sở giáo dục và đào tạo.
Thứ tư: Nhà nước xây dựng tiêu chí đánh giá cho phù hợp và tổ chức
kiểm định chất lượng
Nhà nước là chủ thể tổ chức xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo
dục nhằm đánh giá mặt bằng chất lượng giáo dục – đào tạo. Trên cơ sở các tiêu chí
về chất lượng giáo dục - đào tạo, các cơ sở đào tạo có thể đánh giá về mặt bằng
chất lượng của mình. Việc xác định được những phương diện chất lượng giáo dục
còn hạn chế sẽ giúp cho các cơ sở có kế hoạch, có định hướng để khắc phục, từng
bước đạt chuẩn và nâng cao chất lượng. Các tiêu chí về chất lượng giáo – đào tạo
chính là đích phấn đấu của các cơ sở đào tạo. Các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo
dục – đào tạo nhằm bảo đảm các cơ sở giáo dục - đào tạo không ngừng nâng cao
chất lượng. Điều này, tạo nên một hiệu ứng đặc biệt đối với sự phát triển giáo dục

– đào tạo. Các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục – đào tạo được xác định rõ


ràng cũng chính là công cụ để cộng đồng xã hội giám sát, đánh giá về các cơ sở
đào tạo. Cơ chế quản lý của nhà nước cùng việc giám sát của xã hội sẽ góp phần
nâng cao trách nhiệm của các cơ sở đào tạo về chất lượng đào tạo của mình.
Thứ năm: Nhà nước thiết lập cơ chế hợp tác quốc tế để phát triển giáo
dục – đào tạo
Hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá đã trở thành một xu thế chung của thời đại.
Nền giáo dục của mỗi quốc gia đều đứng trước những áp lực về chất lượng, sự tụt
hậu về chất lượng, áp lực thực hiện các cam kết quốc tế về giáo dục. Nhà nước với
vai trò của chủ thể quản lý thiết lập cơ chế bảo đảm lộ trình hội nhập của nền giáo
dục, xây dựng giải pháp bảo đảm hiệu quả của quá trình hợp tác quốc tế về giáo
dục. Nhà nước xây dựng thiết chế hợp tác quốc tế nhằm huy động mạnh mẽ các
nguồn lực để phát triển giáo dục, từng bước chuyển sang mô hình giáo dục mở, với
ưu tiên hàng đầu trong đào tạo nhân lực, nhân tài và nâng cao chất lượng, xây dựng
nền giáo dục hiện đại, tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Thông
qua hợp tác quốc tế, nhà nước tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục – đào tạo tiếp
nhận công nghệ giáo dục tiên tiến, xây dựng mô hình đào tạo chất lượng, có khả
năng nhân rộng ra cả nước; tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học trong một số
lĩnh vực then chốt; đào tạo một lực lượng lao động giỏi cả về chuyên môn và ngoại
ngữ; giúp học sinh, sinh viên có cơ hội tiếp cận với phương tiện, giáo trình và
phương pháp giảng dạy tiên tiến… từ đó tạo nền tảng chuyển biến về chất lượng.

3. Một số ý kiến nhằm phát huy vai trò quản lý nhà nước đối với giáo
dục – đào tạo
Thứ nhất: Tạo khuôn khổ pháp lý về phân cấp quản lý cho các cơ sở giáo
dục - đào tạo
Việc tăng cường phân cấp quản lý trong giáo dục – đào tạo nhằm phát huy
tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội của hệ thống trường



giáo dục – đào tạo, trên cơ sở xác định rõ sứ mệnh, tầm nhìn, chức năng và các
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể đảm bảo một mặt sự quản lý tập trung,
thống nhất, thông suốt của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, mặt khác tạo điều kiện tốt hơn cho các cơ sở giáo dục – đào tạo phát
triển nhanh, mạnh đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, chất
lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội từng địa phương, cũng như trong cả nước
trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá.
Hai là: Thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở giáo dục – đào
tạo
Phân cấp quản lý, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục từ kiểm soát sang giám sát
đòi hỏi cần phải thực hiện đồng bộ cơ chế kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở giáo
dục – đào tao. Cơ chế giám sát này một mặt là thiết chế nhằm bảo đảm các cơ sở
đào tạo tuân thủ các quy định trong quản lý giáo dục, mặt khác, là cơ chế nhằm
đánh giá lại hệ thống chính sách, pháp luật quản lý giáo dục. Những thông tin từ
quá trình giám sát là một kênh thông tin để cơ quan quản lý nhà nước điều chỉnh,
đổi mới chính sách, tạo ra khung chính sách phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của hệ
thống giáo dục – đào tạo.
Ba là: Đổi mới cơ chế tài chính đầu tư cho giáo dục - đào tạo
Đổi mới chính sách tài chính nhằm tăng hiệu quả đầu tư từ ngân sách và khai
thác các nguồn đầu tư khác cho giáo dục – đào tạo. Xây dựng và triển khai quy
trình phân bổ công quỹ và quản lý tài chính giáo dục công khai, minh bạch và hiệu
quả. Thường xuyên tổ chức đánh giá hiệu quả kinh tế của giáo dục – đào tạo; Xây
dựng chính sách ưu đãi đối với tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển cơ sở
giáo dục – đào tạo.\.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chiến lược
phát triển giáo dục Việt Nam 2001 - 2010 (2002), NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ hai (khóa VIII) về định hướng phát triển chiến lược
phát triển giáo dục Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(1998), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Minh Hạc (2002), Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Vũ Ngọc Hải, Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức (2007), Giáo dục Việt
Nam đổi mới và phát triển hiện đại hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Vũ Ngọc Hải - Trần Khánh Đức (2003), Hệ thống giáo dục hiện đại
trong những năm đầu thế kỷ XXI - Việt Nam và Thế giới, NXB Giáo dục, Hà
Nội.



×