Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tại sao nói luật hành chính là ngành luật độc lập,khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.94 KB, 7 trang )

Luật hành chính là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam
Luật hành chính là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp
luật Việt Nam bởi luật hành chính có đối tượng điều chỉnh riêng, phương
pháp điều chỉnh riêng, nguyên tắc hoạt động riêng và nguồn luật riêng.
Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính
Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính gồm ba nhóm lớm:
Nhóm thứ nhất: Nhóm quan hệ phát sinh trong quan trình cơ quan hành
chính thực hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
+ Giữa cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới
theo hệ thống dọc.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan
hành chính Nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp ( Chính phủ
với các bộ, cơ quan ngang bộ); giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền
chung với cơ quan chuyên môn trực thuộc nó ( Chính phủ với các cơ
quan chuyên môn của nó như: ban quản lý lăng chủ tịch Hồ Chí
Minh;mbảo hiểm xã hội Việt Nam; thông tấn xã Việt Nam; học
viện chính trị – hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; viện khoa học và
công nghệ Việt Nam; viện khoa học xã hội Việt Nam; đài tiếng nói Việt
Nam; đài truyền hình Việt Nam hoặc giữa ủy ban nhân dântỉnh các cơ sở
nội vụ, tài chính, lao động thương binh xã hội…)
+ Giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương với
cơ quan hành chính có thẩm quyền chung ở cấp tình: bộ với ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
+ Giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương
khác nhau: các bộ, cơ quan ngang bộ với nhau.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương với các đơn vị trực
thuộc cơ quan hành chính ở trung ương đóng tại địa phương đó. Trong
quan hệ này thì không có quan hệ về tổ chức nhưng có quan hệ về hoạt
động.



+ Giữa cơ quan hành chính với các đơn vị cơ sở trực thuộc.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước với các tổ chức kinh tế thuộcc các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế này phải đặt
dưới sự quản lý thường xuyên của cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
phương nơi đóng trụ sở.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước với các tổ chức xã hội.
+ Giữa cơ quan hành chính Nhà nước với công dân, người nước ngoài,
người không quốc tịch.
Nhóm thứ hai: Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình các cơ quan
Nhà nước xây dựng và củng cố chế dộ công tác nội bộ: kiểm tra, nâng
cấp trình độ nghiệp vụ, khen thưởng, kỉ luật, sắp xếp nhân sự, tổ chức…
Nhóm thứ ba: Quan hệ được phát sinh trong quá trình cá nhân, tổ chức
được Nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước trong một số trường hợp cụ thể.
+ Trao quyền cho các nhân, tổ chức trong bộ máy Nhà nước như: tòa
án nhân dân, thẩm phán chủ tọa phiên tòa…
+ Trao quyền cho cá nhân, tổ chức không phải trong bộ máy Nhà nước:
chỉ huy tàu bay, tàu biển khi rời sân bay, bến cảng…
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính
Phương pháp điều chỉnh của Luật Hành chính là cách thức Nhà nước
áp dụng trong việc điều chỉnh bằng pháp luật để tác động vào các quan
hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lí hành chính Nhà nước
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mệnh
lệnh được hình thành từ quan hệ “quyền lực – phục tùng” giữa một bên
có quyền nhân danh Nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên
kia là cơ quan, tổ chức hoậc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh
lệnh đó.
Chính môi quan hệ “quyền lực – phục tùng” thể hiện sự không bình
đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính Nhà nước. Sự

không bình đảng đó là sự không bình đẳng về ý chí và thê hiện rõ nét ở
những điểm sau:


– Trước hết, sự không bình đẳng trong quan hệ quản lí hành chính Nhà
nước thể hiện ỏ chỗ chủ thểquản lí có quyền nhân danh Nhà nước để áp
đặt ý chí của mình lên đối tượng quản lí. Các quan hộ này rất đa dạng
nên việc áp đạt ý chí của chủ thể quản lí lên đôi tượng quản lí trong
những trường hợp khác nhau được thực hiện dưới những hinh thức khác
nhau:
+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy
định bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực hiện chúng. Phía bên
kia có nghĩa vụ thực hiện các quy định, mệnh lệnh của cơ quan có thẩm
quyền.
Ví dụ điển hình cho trường hợp này là quan hệ giữa cấp trên với cấp
dưới, giữa thủ trưởng với nhân viên.
+ Hoặc một bên có quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có
quyền xem xét, giải quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ yôu cầu, kiến
nghị đó.
Ví dụ. Công dân có quyển yêu cầu (cùng vói những giấy tờ nhất
định) công an quận, huyện giải quyết cho di chuyển hộ khẩu. Công an
quận, huyện xem xét và có thể chấp nhận yôu cầu (nếu hổ sơ của cồng
dân đó là hợp lộ) hoặc khổng chấp nhận (nếu hổ sơ không đầy đủ,
không hợp lệ).
+ Hoặc cả hai bên đều có quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết
định điều gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phôi
hợp quvết định.
Ví dụ: Quan hộ giữa Bộ giáo dục và đào tạo và các bộ khác về việc
quyết định hình thức, quy mồ đào tạo. Việc các bộ khác quvết định hình
thức, quy mô đào tạo phải được Bộ giáo dục và đào tạo cho phép hay

phê chuẩn.
– Biểu hiện thứ hai của sự không bình đẳng thể hiện ứ chỗ một bên có
thổ áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lí phải
thực hiện mệnh lệnh của mình. Các trường hợp này được pháp luật quy
định cụ thể nội dung và giới hạn.
Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quan lí hành chính
Nhà nước luôn thể hiộn rõ nét, xuất phát từ quy định pháp luật, hoàn


toàn khống phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia vào quan
hệ đó.
Sự không bình đẳng giữa các bên là các cơ quan trong bộ máy Nhà nước
bắt nguồn từ quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong tổ chức của bộ máy
Nhà nước. Sự khống bình đẳng giữa các cơ quan hành chính Nhà nước
với các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế. các tổ chức và cá nhân khác
không bắt nguồn từ quan hệ lổ chức mà từ quan hệ “quyền lực – phục
tùng”. Trong các quan hệ đó, cơ quan hành chính Nhà nước nhân danh
Nhà nước để thực hiện chức năng chấp hành – điều hành trong lĩnh vực
được phân công phụ trách. Do vậy, các đôi lượng kể trên phải phục tùng
ý chí của Nhà nước mà người đại diện là cơ quan hành chính Nhà nước.
– Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính
Nhà nước còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc
của các quyết định hành chính.
Các cơ quan hành chính Nhà nước và các chủ thể quản lí hành chính
khác, dựa vào thẩm quyền của mình, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình có quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lí
thích hợp đối với từng đối tượng cụ thể. Những quyết định ấy có tính
chất đơn phương vì chúng thế hiện ý chí cúa chủ thể quản lí hành chính
Nhà nước trên cơ .sờ quyển lực đã dược pháp luật quy định.
Trong thực tiẽn quản lí có những trường hợp cơ quan hành chính Nhà

nước ra quyết định do yêu cầu của cơ quan cấp dưới, đơn vị trực thuộc
hav của cá nhân. Cũng có nhiều trường hợp trước khi ra quvốt định các
chủ thể quản lí hành chính Nhà nước tổ chức trao đổi. thảo luận vổ nội
dung quyết dịnh với sự tham gia của đại diện cho cơ quan cấp dưới, đơn
vị trực thuộc hoặc những đối tượng có liên quan. Ngay cả trong những
trường hợp này quvết định của cơ quan có thẩm quỵền vẫn có tính chất
dơn phương hởi vì yêu cầu của các đối tưọng có liên quan, của cấp dưới
hoặc V kiến đóng góp trong các cuộc thảo luận không có tính chất quyết
dịnh mà chỉ là những ý kiến để chủ thể quan lí hành chính Nhà nước
nghicn cứu, xem xét, tham khảo trước khi ra quyết định.
Những quyết định hành chính đơn phương đều mang tính chất bắt buộc
dối với các đối tượng quản lí. Tính chất bắt buộc thi hành của các quyết


đinh hành chính được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
Tuy nhiên, các quyết định hành chính đơn phương không phải bao giờ
cũng được thực hiện trên cơ sở cưỡng chế mà được thục hiện chủ yếu
thông qua phương pháp thuyết phục.
Tóm lại, phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp
mệnh lệnh đơn phương. Phương pháp này được xây dựng trên nguyên
tắc:
– Xác nhận sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí
hành chính Nhà nước: một bên được nhân danh Nhà nước, sử dụng
quyền lực Nhà nước để đưa ra các quyết định hành chính, còn bcn kia
phải phục tùng những quyết định ấy.
– Bên nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước có quyền dơn
phương Va quyết định trong phạm vi thẩm quyền của mình vì lợi ích của
Nhà nước, của xã hội.
– Quyết định đơn phương của bên có quyền sử dụng quyền lực Nhà
nước có hiệu lực bắt buộc thi hành đối vói các bên hữu quan và được

bảo đảm thi hành bằng cưỡng chế Nhà nước.

Các tìm kiếm liên quan đến tại sao nói luật hành chính là ngành luật độc
lập: chứng minh luật hành chính là một ngành luật độc lập trong hệ
thống pháp luật việt nam, tại sao nói luật hành chính là ngành luật về
quản lý hành chính Nhà nước, phương pháp mệnh lệnh phục tùng trong
luật hành chính, ngành luật độc lập là gì, khái niệm luật hành chínhm
mệnh lệnh hành chính là gì, các nhóm đối tượng điều chỉnh của luật
hành chính, phương pháp điều chỉnh của luật hình sự, tính mệnh lệnh
đơn phương trong quan hệ hành chính, ngành luật hành chính là gì, pháp
luật hành chính là gì, luật hành chính việt nam


Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng hành chính:
Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng hành chính là những quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ án hành chính được
quy phạm pháp luật Luật Tố tụng hành chính điều chỉnh.
Trong lĩnh vực tố tụng hành chính, khi Tòa án giải quyết các vụ án hành
chính thì phát sinh các quan hệ giữa Tòa án với Viện kiểm sát, các
đương sự và với những người tham gia tố tụng khác. Các quan hệ này
xuất hiện từ khi có cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức (tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,
tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân) gọi chung là người khởi
kiện nộp đơn kiện đến Tòa án có thẩm quyền và được Tòa án thụ lý giải
quyết, và quan hệ này tồn tại cho đến khi việc giải quyết vụ án kết thúc.
Ở mỗi giai đoạn tố tụng, quyền và nghĩa vụ của Tòa án và của các chủ
thể khác được Luật Tố tụng hành chính xác định. Ðiều này có nghĩa là
bằng các quy phạm pháp luật, Luật Tố tụng hành chính đã tác động đến
các hành vi tố tụng của Tòa án và những người tham gia tố tụng, buộc
các chủ thể này phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhất định.

Như vậy, đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng hành chính là các quan
hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân,
các cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức trong quá trình Tòa án giải
quyết các vụ án hành chính để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức này.
Phương pháp điều chỉnh của Luật Tố tụng hành chính
Mỗi ngành luật có phương pháp điều chỉnh khác nhau, đó là cách thức
tác động lên các quan hệ xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội đó
trong khuôn khổ của pháp luật, bảo đảm cho các chủ thể trong quan hệ
đó thực hiện được các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định, ví dụ
như:
– Luật hành chính điều chỉnh bằng phương pháp mệnh lệnh;
– Luật dân sự điều chỉnh bằng phương pháp bình đẳng;
– Luật hình sự điều chỉnh bằng phương pháp quyền uy.
Luật Tố tụng hành chính có hai phương pháp điều chỉnh:


(1) Thứ nhất, phương pháp quyền uy, phụ thuộc thể hiện trong mối quan
hệ giữa Tòa án với các chủ thể khác;
(2) Thứ hai, phương pháp bình đẳng thể hiện trong mối quan hệ giữa các
đương sự trong cùng một vụ án. Các đương sự hoàn toàn bình đẳng khi
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, mà Tòa án nhân dân là chủ thể
bảo đảm thực hiện sự bình đẳng đó.
Các tìm kiếm liên quan đến đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng hành
chính: giáo trình Luật Tố tụng hành chính, Luật Tố tụng hành
chính 2010 thuvienphapluat, ví dụ về tố tụng hành chính, điều 120 Luật
Tố tụng hành chính, mục lục Luật Tố tụng hành chính 2015, điều 153
bộ Luật Tố tụng hành chính, Luật Tố tụng hành chính năm 2017, vụ
án hành chính là gì




×