Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Nghiên cứu manh mún đất đai và dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện việt yên, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.74 MB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG - LÂM BẮC GIANG

THÂN NGỌC HƯNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGHIÊN CỨU MANH MÚN ĐẤT ĐAI VÀ DỒN ĐIỀN
ĐỔI THỬA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VIỆT YÊN,
TỈNH BẮC GIANG

Ngành: Quản lý kinh tế
Mã ngành: 8340410

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Quang Hà
2. TS. Nguyễn Thực Huy

Bắc Giang, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan, các thông tin
trích dẫn trong luận văn này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Bắc Giang, ngày…… tháng…… năm 2018
Tác giả luận văn

Thân Ngọc Hưng

2
2



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PSG.TS. Nguyễn Quang Hà, TS. Nguyễn Thực
Huy, trường Đại học Nông - Lâm Bắc Giang đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi
trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Tài chính đã luôn giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Giang, Uỷ
ban nhân dân huyện Việt Yên, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Phòng Thống kê huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang
cùng cán bộ, xã viên và nhân dân tại 3 xã Tự Lạn, Thượng Lan, Quảng Minh,
huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, khích lệ, giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Thân Ngọc Hưng

3
3


MỤC LỤC

Từ viết tắt
Bộ NN&PTNT
CP
CT
ĐBSH
DĐĐT
GCNQSDĐ

HĐND
HTX
KCN
KH
LMLM
MTQG

NN
NQ
NSNN
NXB
PCTT

QSDĐ
THT
TNMT
TW
UB
UBMTTQ
UBND

Nghĩa tiếng Việt
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Chính phủ
Chỉ thị
Đồng bằng sống hồng
Dồn điền đổi thửa
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã

Khu công nghiệp
Kế hoạch
Lở mồm long móng
Mặt trận Quốc gia
Nghị định
Nông nghiệp
Nghị quyết
Ngân sách nhà nước
Nhà xuất bản
Phòng chống thiên tai
Quyết định
Quyền sử dụng đất
Tụ huyết trùng
Tài nguyên môi trường
Trung ương
Ủy ban
Ủy ban Mặt trận tổ quốc
Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

4
4


DANH MỤC CÁC HÌNH

5
5



MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là thành phần quan trọng hàng
đầu của môi trường sống, nơi phân bố các khu dân cư, các cơ sở kinh tế, xã hội và Quốc
phòng - An ninh... Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay
thế. Đất nông nghiệp vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động.
Sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị năm 1988, nền kinh tế nông nghiệp, nông
thôn của cả nước nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng đã có nhiều sự thay đổi mạnh
mẽ. Thực hiện Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định 64/CP của Chính phủ về giao đất
nông nghiệp, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng
ổn định, lâu dài, đã tạo điều kiện cho người sử dụng đất an tâm và có kế hoạch đầu tư,
cải tạo nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Đó là động lực cho sự phát triển vượt bậc của
nền nông nghiệp nước ta, từ một nước hàng năm phải nhập khẩu lượng lớn lương thực,
Việt Nam vươn lên thành quốc gia xuất khẩu lúa gạo đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Thái
Lan. Tuy nhiên sau quá trình phân chia ruộng đất cho hộ nông dân đã phát sinh tình
trạng manh mún ruộng. Ruộng đất manh mún là nguyên nhân không thể đầu tư thâm
canh, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; không áp dụng được cơ giới hóa vào sản
xuất, gây lãng phí lao động rất lớn.
Nhận thức được những ảnh hưởng bất lợi của tình trạng manh mún ruộng đất
trong sản xuất nông nghiệp, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg
ngày 20 tháng 02 năm 1998 nhằm khuyến khích nông dân và chính quyền địa
phương các cấp thực hiện chuyển đổi ruộng đất từ thửa ruộng nhỏ thành thửa ruộng
lớn, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn sản xuất, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc giang đã
tiến hành triển khai Chính sách “Dồn điền đổi thửa” từ năm 2004 theo tinh thần Chỉ
thị số 06-CT/TU ngày 02 tháng 01 năm 2004 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc
Giang. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách trong quá trình phát triển nông nghiệp,
nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc dồn điền đổi thửa đã
thành công ở nhiều nơi nhưng cũng có nhiều địa phương không thành công. Ngay

trong một huyện có những xã thành công, xã không thành công, thậm chí ngay
trong một xã có thôn làm được có thôn không làm được. Mặt khác, mức độ thành
công ở các địa phương cũng khác nhau. Như vậy cần phải có những nghiên cứu

66


nhằm đánh giá và tổng kết lại các kinh nghiệm, những vấn đề tồn tại của địa
phương khi thực hiện dồn điền đổi thửa, từ đó đề ra các giải pháp dồn điền đổi thửa
hợp lý.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu manh mún
đất đai và dồn điền đổi thửa trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang”
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng manh mún đất đai và quá trình dồn điền đổi thửa làm cơ
sở cho đề xuất giải pháp dồn điền đổi thửa hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá lý luận và thực tiễn manh mún đất đai trong nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng manh mún đất đai trước khi thực hiện công tác dồn điền
đổi thửa ở huyện Việt Yên.
- Đánh giá việc thực trạng dồn điền đổi thửa tại Việt Yên. Từ đó đánh giá tác
động của DĐĐT đến hiệu quả kinh tế một số loại hình sử dụng đất nông nghiệp.
- Phân tích những thuận lợi, khó khăn trong dồn điển đổi thửa từ đó đề ra một
số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy dồn điền đổi thửa và tích tụ đất đai trên địa bàn
huyện Việt Yên.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác dồn điền đổi thửa ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang
3.2. Phạm vi nghiên cứu

3.2.1. Về nội dung
Các loại đất nông nghiệp (bao gồm đất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản của
hộ gia đình)
3.2.2. Về không gian
Đề tài được nghiên cứu thực hiện trong phạm vi huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
3.2.3. Về thời gian

77


Nghiên cứu công tác dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp trên địa bàn huyện
Việt Yên từ năm 2004-2017, Số liệu sơ cấp được thu thập năm 2018 đồng thời đưa
ra các giải pháp áp dụng, thực hiện từ năm 2018-2019.

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MANH MÚN ĐẤT ĐAI VÀ DỒN ĐIỀN ĐỔI
THỬA
1.1.1. Manh mún đất đai
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 là
bước ngoặt cơ bản. Nội dung chính của chính sách này là công nhận hộ nông dân là
một đơn vị kinh tế tự chủ, tự do hoá thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất cũng
như các tư liệu sản xuất khác (ngoại trừ đất đai) và giao đất sử dụng ổn định, lâu dài
cho người dân. Nông dân được giao đất nông nghiệp trong 15 năm. Từ đó, nông
nghiệp Việt Nam bước vào một giai đoạn mới tương đối ổn định. Tuy nhiên, thời
gian giao đất còn quá ngắn và một số quyền sử dụng đất khác chưa được luật pháp
hoá. Điều này dẫn đến nông dân có thể ít có động cơ đầu tư dài hạn trên đất.
Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 về đất nông nghiệp đã giải quyết được những
vấn đề nêu trên. Theo luật này nông dân được giao đất ổn định và lâu dài. Họ được
giao 5 quyền sử dụng đất bao gồm: Quyền chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thừa
kế và thế chấp. Nguyên tắc quan trọng nhất trong việc giao đất là duy trì sự công

bằng.
Thông thường ở nhiều nơi trên miền Bắc, đất đai được chia bình quân theo
định suất (hoặc bình quân theo nhân khẩu). Những tiêu chuẩn khác cũng được xem
xét khi giao đất là các chính sách xã hội, chất lượng đất, tình hình thuỷ lợi, khoảng
cách đến thửa ruộng và khả năng luân canh cây trồng. Đất cây hàng năm ở Việt
Nam được chia thành 6 hạng. Do đó, để duy trì nguyên tắc công bằng mỗi hộ
thường được giao nhiều mảnh với nhiều hạng đất khác nhau, ở các cánh đồng khác
nhau với chất lượng đất khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo
ra tình trạng manh mún đất đai ở Việt Nam. Như vậy, lần đầu tiên, hộ nông dân
được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ, có quyền bình đẳng với các đơn vị
kinh tế khác trước pháp luật. Đất đai được giao ổn định và lâu dài.

88


Khái niệm manh mún ruộng đất được hiểu trên hai khía cạnh: một là sự manh
mún về mặt ô thửa, trong đó một đơn vị sản xuất (thường là nông hộ) có quá nhiều
mảnh ruộng với kích thước quá nhỏ và bị phân tán ở nhiều xứ đồng. Hai là sự manh
mún thể hiện trên quy mô đất đai của các đơn vị sản xuất, số lượng ruộng đất quá
nhỏ không tương thích với số lượng lao động và các yếu tố sản xuất khác (Luật đất
đai, 2003).
Manh mún đất đai có tác động tích cực cũng như tiêu cực đối với sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam. Đất đai manh mún, phân tán trong một số trường hợp có
ưu điểm là làm giảm các rủi ro như mất mùa, lũ lụt… Khi sản xuất tập trung ở một
điểm, nếu xảy ra thiên tai hay dịch bệnh thì năng suất sẽ giảm rất nhiều (thậm trí
mất trắng).
Diện tích thửa đất nhỏ, hộ nông dân có nhiều thửa đất tạo điều kiện cho các hộ
sản xuất linh hoạt hơn trong vấn đề luân canh cây trồng. Việc canh tác trên nhiều thửa
ruộng giúp nông dân đa dạng hóa cây trồng với nhiều loại giống khác nhau.
Phân tán đất đai tạo điều kiện cho việc bố trí lao động theo mùa vụ dễ dàng

hơn. Khi canh tác trên nhiều thửa ruộng sẽ tạo ra sự giãn cách về mặt thời gian thu
hoạch, vì vậy sẽ giảm áp lực về lao động.
Manh mún đất đai có mặt tích cực như trên nhưng đó chỉ là tạm thời khi nền nông
nghiệp nhỏ lẻ và mang tính tự cung tự cấp. Khi nông nghiệp chuyển sang sản xuất hàng
hóa, thì manh mún đất đai là yếu tố ngăn cản sự phát triển như:
Quy mô ruộng đất nhỏ gây nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất, phát
triển cơ giới hoá nông nghiệp, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, thực hành thâm canh và
chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá.
Gây lãng phí diện tích canh tác do phải làm nhiều bờ ngăn, tính trung bình
phải mất từ 3 - 5% diện tích đất canh tác dùng để làm bờ vùng, bờ thửa.
Gây cản trở cho quy hoạch giao thông, thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng khác phục vụ
sản xuất nông nghiệp.
Gây khó khăn, phức tạp và tốn kém cho công tác quản lý đất đai, hoàn thiện
hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Việt Nam là một trong những nước có mức độ manh mún đất đai rất cao theo tiêu
chuẩn của thế giới. Số liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2003 cho thấy
nước ta có khoảng 75 triệu thửa, trung bình một hộ nông dân có khoảng 7-8 thửa, bình

99


quân mỗi mảnh 300-400 m2 và khoảng 10% số mảnh đất có diện tích nhỏ hơn 100m2.
(Báo cáo Bộ NN&PTNT, 2003) (Hội khoa học đất, 2005).
Sự manh mún ruộng đất cấp nông hộ tại một số tỉnh ở Đồng bằng sông Hồng
được thể hiện tại bảng 1.1 như sau:
Bảng 1.1. Manh mún ruộng đất tại Đồng bằng sông Hồng năm 2003
TT
1
2
3

4
5
6
7

Tổng số thửa/hộ
Ít
Nhiều
Trung
nhất
nhất
bình
9,5
5,0
18
6-8
9,0
17
11
7,1
47
9,0
3,1
19
5,7
7,0
37
8,2
3,3
24

8,0

Tỉnh
Hà Tây
Hải Phòng
Hải Dương
Vĩnh Phúc
Nam Định
Hà Nam
Ninh Bình

Diện tích bình quân/thửa (m2)
Nhỏ
Trung
Lớn nhất
nhất
bình
20
700
216
20
10
10
5968
228
10
1000
288
14
1265

5
3224
-

Nguồn: Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, Bộ NN&PTNT (2003)

Số liệu ở bảng 1.1 cho thấy mức độ manh mún ruộng đất thuộc một số tỉnh
Đồng Bằng Sông Hồng rất khác nhau, các tỉnh đông dân, diện tích đất nông nghiệp
ít thì mức độ manh mún càng cao; trung bình số thửa/hộ thấp nhất 5,7 thửa (Nam
Định) và cao nhất là 11 thửa/hộ (Hải Dương), cá biệt có hộ quản lý 47 thửa/hộ
(Vĩnh Phúc); về diện tích sử dụng cũng có sự khác nhau, diện tích thửa lớn nhất là
5.968 m2 (Vĩnh Phúc), thửa nhỏ nhất là 5m2 (Ninh Bình) đây cũng là yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến sản lượng các loại cây trồng.
1.1.2. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Mọi hoạt động sản xuất của con người đều có mục tiêu chủ yếu là kinh tế. Tuy
nhiên, kết quả hoạt động đó không chỉ duy nhất đạt được về mặt kinh tế mà đồng
thời tạo ra nhiều kết quả liên quan đến đời sống kinh tế xã hội của con người
(Nguyễn Đình Bồng, 2002).
Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp bao gồm:
Hiệu quả kinh tế;
Hiệu quả xã hội;
Hiệu quả môi trường.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế được phân tích, đánh giá trên các góc độ, khía cạnh khác
10


nhau, do đó, có rất nhiều chỉ tiêu có thể được sử dụng. Trong đó, các chỉ tiêu được
sử dụng phổ biến nhất là:

+ Giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được
tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là 01 năm). Trên một đơn vị diện tích
GO phản ánh năng suất trên khía cạnh lượng giá trị thu được.
GO =



Qi*Pi

Trong đó: - Qi là sản lượng của sản phẩm thứ i được tạo ra
- Pi là giá của đơn vị sản phẩm thứ i
+ Chi phí trung gian (IC): là toàn bộ khoản chi phí vật chất thường xuyên
bằng tiền mà chủ thể bỏ ra thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử dụng trong
quá trình sản xuất, như: chi phí về giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực
vật, làm đất, vận chuyển, chi phí khác.
+ Giá trị gia tăng (VA): là hiệu số giữa GO và chi phí trung gian IC; là giá trị
sản phẩm xã hội được tạo thêm trong một thời kỳ sản xuất đó. Chỉ tiêu này phản
ánh hiệu quả sử dụng đất ở khía cạnh giá trị sản phẩm mới tạo gia trên một đơn vị
diện tích.
VA = GO - IC
+ Thu nhập hỗn hợp (MI): là tổng thu nhập của hộ gia đình nhận được từ sử
dụng đất, bao gồm phần thù lao cho lao động gia đình và lợi nhuận từ sản xuất nông
nghiệp cùng tiền lãi thu được của việc sử dụng đất.
MI = VA - KHTS (D)- Thuế (T) - Thuê lao động
1.1.3. Tích tụ, tập trung ruộng đất
Tích tụ, tập trung ruộng đất được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
FAO (2003) cho rằng tích tụ và tập trung ruộng đất chính là quá trình phân bổ
và sắp xếp lại các mảnh nhằm loại bỏ hạn chế của tình trạng manh mún đất đai.
Manh mún ruộng đất bao gồm tình trạng manh mún về ô thửa và sự phân tàn quy
mô ruộng đất của nông hộ. Để khắc phục tình trạng manh mún, có hai phương thức

thực hiện phổ biến là tích tụ ruộng đất và tập trung đất đai.
Tích tụ ruộng đất là sự tăng quy mô ruộng đất của đơn vị sản xuất (hộ nông
dân, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp...) theo thời gian do khai hoang, thừa kế,
mua, thuê, nhận cầm cố,... để tiến hành sản xuất nông nghiệp.
11


Tích tụ là quá trình tích tụ tư bản với đất đai là tư liệu sản xuất chính để mở
rộng sản xuất và phát huy được lợi thế kinh tế theo quy mô. Hoạt động tích tụ ruộng
đất được thực hiện trên thị trường đất đai. Để có đất đai đáp ứng yêu cầu sản xuất,
kinh doanh, nhà đầu tư có thể mua quyền sở hữu hay thuê quyền sử dụng đất
(QSDĐ) theo nguyên tắc “thuận mua, vừa bán” hoặc thuê lại đất và trả địa tô cho
người cho thuê đất.
Mặc dù có nhiều cách tiếp cận và quan điểm khác nhau liên quan đến tích tụ
ruộng đất, nhưng tất cả đều có những điểm chung là:
Tích tụ ruộng đất làm tăng quy mô ruộng đất của một chủ sở hữu;
Tích tụ ruộng đất sẽ khắc phục được tình trạng manh mún đất đai khi tăng quy
mô diện tích canh tác của hộ gia đình;
Hoạt động tích tụ không thể tách rời với thị trường đất đai mà cụ thể bao gồm
thị trường chuyển nhượng QSDĐ và thị trường thuê đất;
Tích tụ và tập trung ruộng đất đều nhằm mục đích giảm manh mún, nhưng tích
tụ ruộng đất gắn trực tiếp đến sự phân tầng về diện tích đất và mức sống ở khu vực
nông thôn.
Tập trung ruộng đất có thể được hiểu là “gom” nhiều mảnh đất hiện có thành
mảnh đất, khu đất, cánh đồng có quy mô lớn, liền vùng, liền thửa, phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ, bằng con đường thuê mướn hoặc liên kết
sản xuất, kinh doanh, góp vốn QSDĐ vào doanh nghiệp...
Theo một cách hiểu khác, tập trung ruộng đất là một sự điều chỉnh và sắp xếp
lại các thửa ruộng, thường được áp dụng để hình thành những vùng đất rộng lớn và
hợp lý hơn. Tập trung ruộng đất bên cạnh tạo thuận lợi cho thay đổi phương thức

sản xuất nông nghiệp còn có thể được sử dụng để cải thiện kết cấu hạ tầng nông
thôn và thực hiện các chính sách bảo đảm tính bền vững của môi trường và nông
nghiệp.
Từ các cách hiểu trên, có thể đưa ra nhận xét;
Tập trung ruộng đất là sự mở rộng quy mô diện tích ruộng đất do hợp nhất
nhiều thửa đất lại, chủ sở hữu không thay đổi;
Tập trung ruộng đất cần có sự hỗ trợ của tín dụng;
Tập trung ruộng đất không chỉ đơn giản là phân bổ lại các lô đất để loại bỏ
những ảnh hưởng của sự phân mảnh mà còn gắn liền với cải cách kinh tế và xã hội

12


rộng lớn hơn.
Hình thức tập trung ruộng đất liên quan đến các mô hình giúp tăng diện tích
mảnh ruộng hoặc tạo ra các quy trình canh tác đồng nhất mà không làm thay đổi
QSDĐ nông nghiệp của cá nhân, tổ chức kinh tế.
Theo lý luận về sản xuất tư bản của C.Mác (2002), quá trình qui mô tư bản
tăng lên được thực hiện bằng hai phương thức là tích tụ tư bản và tập trung tư bản.
Hai phương thức này có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện và thúc đẩy
nhau. Tích tụ tư bản là tập trung vốn đủ lớn vào một đơn vị kinh doanh dưới nhiều
hình thức khác nhau để có thể đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị kỹ
thuật, áp dụng công nghệ cao trong sản xuất và quản lý và tận dụng lợi thế kinh tế
theo qui mô. Tích tụ ruộng đất có thể coi là một dạng tích tụ tư bản.
Ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra các hình thức tích tụ tập, tập trung ruộng
đất chính như sau:
-

-


Dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp là chủ trương của chính quyền Việt Nam tiến
hành xây dựng nông thôn mới, quy hoạch lại đồng ruộng theo hướng quy vùng sản
xuất hàng hoá. DĐĐT giúp tăng diện tích trên một thửa ruộng, tạo thuận lợi cho hộ
canh tác, áp dụng cơ giới hóa nông nghiệp. Biện pháp thực hiện còn có quy hoạch
lại giao thông, thuỷ lợi nội đồng, đưa cơ giới hoá và ứng dụng khoa học công nghệ
tiên tiến vào sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từng bước phân công lao động trong từng địa
bàn, nhằm tăng năng suất lao động, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích
sản xuất. Theo chủ trương này, các hộ nông dân được chia lại đất, đồng thời nhà
nước cấp mới cho họ Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất để có thể vay vốn ngân
hàng, ngoài ra họ còn được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí.
Hợp tác xã Nông nghiệp: Ở nhiều địa phương, các hộ gia đình tự nguyện liên kết
thành lập hợp tác xã nông nghiệp để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã
viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế
hộ gia đình của xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản
phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh doanh các ngành nghề khác ở
nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Thực tế tại nhiều địa phương đã hình
thành các hợp tác xã sản xuất rau, hoa quả …theo hình thức này và mang lại hiệu
quả tích cực.
- Các hộ mua, nhận chuyển nhượng QSDĐ của các hộ khác để mở rộng sản
xuất, trở thành trang trại hoặc các hộ quy mô lớn. Hình thức này diễn ra nhiều ở các
13


tỉnh phía Nam, đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việc mua lại QSDĐ giúp
hộ yên tâm đầu tư phát triển lâu dài.
- Hình thức hộ thuê đất của các hộ khác để mở rộng sản xuất. Đây là một cách
thức giúp tăng quy mô, đưa ruộng đất đến tay người sử dụng hiệu quả nhất, và qua đó
giúp tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Người nông dân
cho thuê ruộng vẫn giữ được QSDĐ của mình mà đất nông nghiệp lại không bị bỏ

hoang, tránh lãng phí tài nguyên của xã hội. Đây là một hình thức mang đến cả hiệu
quả về mặt kinh tế và xã hội đồng thời khả năng áp dụng và nhân rộng lại cao vì khung
pháp lý cho hoạt động này cũng đã tương đối hoàn thiện.
- Hình thức doanh nghiệp mua, nhận chuyển nhượng QSDĐ của hộ để mở rộng
sản xuất. Hình thức này chưa thực sự phổ biến bởi doanh nghiệp thường không chủ
động mua đất nông nghiệp của hộ để sản xuất quy mô lớn vì giá mua đất nông nghiệp
cao nên khó tạo ra lợi nhuận đủ hấp dẫn so với số vốn bỏ ra ban đầu để mua đất nếu chỉ
sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, việc thỏa thuận giá với người dân để hình thành quy
mô ruộng đất lớn cũng rất khó khăn và tốn thời gian.
- Hình thức doanh nghiệp thuê đất của hộ nông dân. Ở một số địa phương
nhiều doanh nghiệp đã thuê hàng nghìn hecta đất của hộ gia đình, đất công ích của
thôn, xã để sản xuất nông nghiệp, như Vincom, TH* True Milk,...
Doanh nghiệp sẽ đứng ra ký hợp đồng thuê đất với các hộ nông dân không có
nhu cầu sản xuất nông nghiệp để tập trung thành vùng sản xuất nông nghiệp tập trung.
Chi phí của hình thức này tương đối thấp. Thủ tục để thuê đất của người dân đơn giản,
người nông dân vừa giữ được QSDĐ của mình, vừa có thêm thu nhập.
- Hình thức hộ gia đình góp đất, chuyển giá trị đất thành cổ phần của doanh
nghiệp. Mô hình góp đất trồng cao su ở các tỉnh Sơn La, Lai Châu; mô hình góp đất
của nông dân xã Vân Sơn thuộc huyện Triệu Sơn (tỉnh Thanh Hóa). Theo mô hình
này, người nông dân vừa giữ được QSDĐ của mình, vừa được tăng thêm thu nhập
từ tiền cổ tức hằng năm theo cổ phần quy đổi về giá trị QSDĐ của người nông dân
khi doanh nghiệp có lãi.
1.1.4. Dồn điền đổi thửa
1.1.4.1. Khái niệm DĐĐT
DĐĐT là việc chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành lớn
giữa các hộ nông dân, đẩy mạnh quá trình tích tụ ruộng đất để đưa nền nông
nghiệp vốn manh mún, nhỏ lẻ phát triển thành sản xuất hàng hóa qui mô lớn.
14



Dưới sự chỉ đạo thống nhất của các cán bộ Đảng viên từ cấp Trung Ương đến
địa phương. 3mới
1.1.4.2. Ý nghĩa của DĐĐT
Hiệu quả sau dồn điền đổi thửa đã khắc phục được tình trạng manh mún ruộng
đất, tạo được ô thửa lớn. Việc này tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung, tạo
bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng
hóa.
DĐĐT đã giúp nông dân đầu tư thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi, bố trí lại cơ cấu mùa vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đồng thời
làm thay đổi cách nghĩ, cách làm, tập quán canh tác, phát triển ngành nghề dịch vụ
tại nông thôn...
DĐĐT giúp cho công tác cơ giới hóa đồng ruộng, hỗ trợ nâng cao năng suất
cây trồng, vật nuôi từ đó giải phóng sức lao động, nâng cao thu nhập của người
nông dân và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp.
Việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, cho năng suất vượt trội, giá trị
cao, đảm bảo an toàn thực phẩm như: Sử dụng giống mới có năng suất, chất lượng
cao; các trang trại trồng trọt sử dụng giống nuôi cấy mô, giống sạch bệnh, hệ thống
tưới tiết kiệm, canh tác cây trồng trong nhà màng, nhà lưới…từ đó tăng thu nhập
cho người dân.
Mặt khác, việc dồn điền đổi thửa còn gắn với công tác quản lý Nhà nước về
đất đai. Chuyển đổi ruộng đất là dịp để tổng kiểm tra lại diện tích đất nông nghiệp,
hoàn thiện công tác lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy Chứng nhận QSD đất, rà soát, bổ
sung, xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông thôn, góp phần
tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng đất trên địa bàn.
1.1.4.3. Trình tự các bước DĐĐT
* Phương pháp dồn điền đổi thửa gắn xây dựng, điều chỉnh, bổ sung lại
quy hoạch sử dụng đất của xã, quy hoạch thiết kế lại đồng ruộng của thôn, dồn
diền đổi thửa theo phương pháp này gồm các nội dung sau:
a. Tổ chức quán triệt chủ trương dồn điền đổi thửa:

- Các xã, thị trấn căn cứ vào các văn bản của Nhà nước, các nghị quyết…
tổ chức các hội nghị quán triệt trong Đảng uỷ, HĐND, UBND, các đoàn thể, mặt
trận tổ quốc, bí thư chi bộ, trưởng, phó thôn, chủ nhiệm HTX dịch vụ… để thống
nhất chủ trương nâng cao nhận thức, thống nhất biện pháp, nội dung và cách
15


thực hiện. Từ đó, xác định những thuận lợi, khó khăn khi tổ chức triển khai tới
nông dân; xác định trách nhiệm, nhiệm vụ của cán bộ Đảng và chính quyền trong
việc giúp nông dân trong công cuộc đổi mới trong nông nghiệp ở nông thôn.
- Tổ chức hội nghị toàn dân tại các thôn, để tuyên truyền, phổ biến các
chủ trương, biện pháp, nội dung thực hiện công tác dồn điền đổi thửa.
b. Thành lập ban chỉ đạo, tổ công tác giúp việc cho ban chỉ đạo:
Ban chỉ đạo và tổ công tác có trách nhiệm:
- Chỉ đạo, tập huấn, kiểm tra, đôn đốc các xã thực hiện “Dồn điền đổi
thửa” theo Nghị quyết của Huyện uỷ và các văn bản Pháp luật hiện hành.
- Trình UBND huyện phê duyệt phương án của cấp xã và giải quyết các
vướng mắc phát sinh thuộc thẩm quyền cấp huyện, trực tiếp điều hành tổ công
tác thực hiện các công việc được giao.
c. Các bước chỉ đạo xây dựng phương án:
Bước 1. Điều tra hiện trạng: Đây thực chất là bước tổng kiểm kê lại quỹ
đất. Trên cơ sở tư liệu bản đồ, sổ sách thu nhập được, tổ chức điều tra thống kê
diện tích đất nông nghiệp của xã, thôn (kể cả diện tích đất xâm canh của xã
khác), xác định hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của từng hộ gồm: số lượng
thửa, diện tích, loại đất, diện tích đất được giao ổn định lâu dài, diện tích đất
thuê, đấu thầu hoặc quỹ đất công ích hoặc đất nông nghiệp khó giao và chốt lại
số hộ, số khẩu của từng thôn, trong toàn xã được giao đất nông nghiệp ổn định,
lâu dài theo Nghị định 64/CP. Nội dung này do tổ chuyên môn của Ban chỉ đạo
xã kết hợp với tiểu ban chỉ đạo của thôn cùng làm trong khoảng 15 ngày cho một
thôn hay một cụm dân cư.

Bước 2. Xây dựng quy hoạch và điều chỉnh bổ sung quy hoạch sử dụng
đất: Xây dựng quy hoạch đồng ruộng, hệ thống giao thông thủy lợi nội đồng,
đường liên thôn, xã, các công trình phúc lợi văn hóa, thể thao… gắn quy hoạch
của địa phương với quy hoạch của cấp trên. Đồng thời căn cứ vào điều kiện thực
tế của từng địa phương, quy hoạch khoanh vùng sản xuất nông nghiệp tập trung.
Quy hoạch đất công ích thành vùng tập trung, giao cho UBND xã quản lý.
Bước 3. Xây dựng phương án: Xác định đất thực hiện dồn điền đổi thửa
trong đó khoanh vẽ chi tiết từng nhóm đất được phân theo phương án của xã đã
được người dân trong từng thôn bàn bạc. Sau đó xã tổ chức họp nông dân lấy ý
kiến thống nhất phương án của xã. Tổng hợp diện tích từng vùng, nhóm đất của
thôn cân đối với diện tích đất giao cho các hộ. Tài liệu cần dùng cho bước này

16


bao gồm: bản đồ giải thửa, sổ mục kê, sổ địa chính, sổ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, phương án giao đất của xã, phương án bổ sung quy hoạch hệ
thống giao thông thuỷ lợi nội đồng,...
Bước 4. Duyệt, tổ chức thực hiện phương án: Tất cả các phương án dồn
điền đổi thửa của xã cũng phải thể hiện trên bản đồ, có văn bản kèm theo trình
cấp huyện phê duyệt. Sau khi được UBND huyện phê duyệt thì phương án mới
có giá trị thực thi.
Bước 5. Hoàn thiện hồ sơ địa chính và cấp giấy quyền sử dụng đất:
Sau khi giao đất ngoài thực địa cho dân xong các Ban chỉ đạo xã cùng với
các tiểu ban chỉ đạo thôn tiến hành:
- Điều chỉnh bản đồ, lập sổ giao nhận diện tích tới từng hộ phù hợp với
hiện trạng sử dụng đất.
- Thông báo số thửa, diện tích, loại đất của từng hộ, phát đơn đăng ký quyền
sử dụng đất cho hộ kê khai diện tích sau dồn điền để xét cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng ruộng đất và lập bộ thuế sử dụng đất nông nghiệp.

- Hoàn thiện hồ sơ cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trình
UBND huyện quyết định và hoàn thành hồ sơ địa chính
1.1.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình DĐĐT
Công tác DĐĐT cần sự vào cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành, đặc biệt là
cấp ủy, chính quyền địa phương xã, huyện.
Công tác chuẩn bị giao đất cụ thể cho các hộ như lập phương án, tổ chức tuyên
truyền, học tập, lên bản đồ, cấp hồ sơ giấy tờ… ở nhiều địa phương lúng túng, chậm
triển khai. Nhiều huyện chưa phê duyệt được phương án DĐĐT của xã.
Công tác DĐĐT đụng chạm tới quyền lợi của hầu hết các hộ dân và khối
lượng công việc rất lớn, nên nhìn chung cán bộ địa phương đều ngại khó, không
muốn làm.
Một số địa phương khi triển khai công tác DĐĐT chưa làm tốt công tác tuyên
truyền, vận động, còn nóng vội, chưa tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân;
cá biệt ở một số nơi, UBND xã, các thôn, đội khi DĐĐT có vận động nhân dân góp
đất, dồn đổi vào nơi có vị trí sinh lợi cao nhưng không tổ chức sản xuất, khai thác
đúng mục đích sử dụng mà đã bán thu tiền để kiến thiết công trình hạ tầng của địa
phương phát sinh đơn thư khiếu kiện, dẫn đến không thực hiện được việc giao đất
thực địa theo kế hoạch.
Trình độ chuyên môn của cán bộ một số nơi còn yếu hoặc không tham gia
17


công tác DĐĐT ngay từ đầu nên khi tiếp quản công việc còn gặp nhiều khó khăn,
lúng túng.
Hệ thống bản đồ, hồ sơ địa chính được thành lập từ lâu, hiện trạng đã sai lệch
nhiều nên khi chỉnh lý mất nhiều thời gian; hệ thống hồ sơ giao ruộng khi DĐĐT
còn thiếu, không đồng bộ gây nhiều khó khăn khi chỉnh lý bản đồ. Nhiều địa
phương diện tích thực tế sai khác với bản đồ, hồ sơ địa chính và hồ sơ giao ruộng
nên việc xử lý còn gặp nhiều khó khăn, kéo dài.
Một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ kết quả thực hiện DĐĐT là thiếu kinh phí trong

đo đạc, dụng cụ, cấp giấy chứng nhận QSD đất…nên tiến độ DĐĐT bị chậm.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Cơ sở pháp lý
Công tác chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn được tiến hành
dựa trên các cơ sở pháp lý sau đây:
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 7, Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ 2 (khoá VII), Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4
(khoá VIII) và Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị năm 1999.
- Đại hội IX của Đảng đã quyết định đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội nước ta 10 năm (2001-2010) trong đó nông nghiệp nông thôn được quan tâm đặc
biệt. Tuy nhiên, một trong những vấn đề đặt ra trong quá trình Công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay là tình trạng đất đai manh mún, phân tán đã
gây trở ngại cho quá trình hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Nghị quyết số 26 NQ/TW ngày 12/03/2003 Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương Đảng Khoá IX về việc tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về
đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: “.... khuyến
khích tích tụ đất đai, sớm khắc phục tình trạng đất sản xuất nông nghiệp manh mún.
Quá trình tích tụ đất đai cần có sự chỉ đạo và quản lý của Nhà nước, có quy hoạch,
kế hoạch, có bước đi vững chắc trên từng địa bàn, lĩnh vực, gắn với chương trình
phát triển ngành nghề, tạo việc làm. Tích tụ đất đai thông qua việc nhận chuyển
nhượng và nhiều biện pháp khác phù hợp với từng thời kỳ, từng vùng”.
- Chỉ thị số 22/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục thúc đẩy
việc thực hiện Nghị quyết Trung ương (khoá IX) về kinh tế tập thể: “ ...Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn việc chuyển đổi ruộng đất

18


trên nguyên tắc tự nguyện, tự thoả thuận và các bên cùng có lợi, kết hợp tổ chức
quy hoạch lại đồng ruộng, sử dụng đất đai có hiệu quả...”.

- Quyết định số 68/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương Đảng IX: “....Về đất đai: điều chỉnh các cơ chế, chính sách để tạo điều kiện
cho nông dân thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với đất đai như: khuyến
khích nông dân chuyển đổi ruộng đất; cho phép nông dân sử dụng giá trị quyền sử
dụng đất để góp vốn, liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh...”.
- Luật Đất đai năm 1993, năm 2003.
- Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ quy định về việc
giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục
đích sản xuất nông nghiệp.
- Chỉ thị số 10-1998/CT-TTg ngày 20/02/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
đẩy nhanh và hoàn thành việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
hộ nông dân, khuyến khích các hộ nông dân chuyển đổi ruộng đất cho nhau để khắc
phục tình trạng phân tán, manh mún ruộng đất.
- Chỉ thị số 06-CT/TU ngày 02 tháng 01 năm 2004 của Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Bắc Giang về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ dồn điền,
đổi thửa, khắc phục tình trạng ruộng đất phân tán, manh mún trong sản xuất nông
nghiệp.
- Kế hoạch số 03/KH-UB ngày 30/01/2004 của UBND tỉnh Bắc Giang về thực
hiện dồn điền đổi thửa khắc phục tình trạng phân tán manh mún ruộng đất trong sản
xuất nông nghiệp.
- Công văn số 120/HD-TNMT ngày 18/02/2004 của Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Bắc Giang về việc hướng dẫn trình tự, nội dung thực hiện dồn điền đổi thửa.
1.2.2. Thực tiễn dồn điền đổi thửa ở Việt Nam
Theo số liệu của Tổng cục Địa chính năm 1998, bình quân một hộ vùng đồng
bằng Sông Hồng có khoảng 07 thửa trong khi ở vùng núi phía Bắc, con số này còn
cao hơn từ 10 - 20 thửa.
Vào năm 1998, Chính phủ đã đề ra chính sách khuyến khích nông dân đổi
ruộng cho nhau để tạo thành những thửa có diện tích lớn hơn. Từ đó, các tỉnh trên
miền Bắc, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng đã thành lập các Hội đồng thực


19


hiện thí điểm công tác đồn điền đổi thửa. Theo báo cáo trên toàn quốc khoảng 700
xã ở 20 tỉnh đã và đang thực hiện công tác chuyển đổi ruộng đất, tuy nhiên tiến
trình vẫn còn rất chậm. Trên thực tế ở những vùng này đất đai được chia lại cho các
hộ nông dân với mục tiêu là giảm số thửa ruộng (Tổng cục Địa chính, 1998)
Theo báo cáo sơ kết một năm thực hiện Kế hoạch số 1704/KH-UBND ngày
13/9/2013 của UBND tỉnh Hải Dương về dồn điền, đổi thửa gắn với chỉnh trang
đồng ruộng của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đến tháng 8/2014 cơ bản
các xã đã triển khai xây dựng đề án, phương án DĐĐT. Trong đó đã có 77 thôn, ở
24 xã đã tổ chức triển khai thực hiện DĐĐT trên đồng ruộng với tổng diện tích
DĐĐT là 4.548 ha. Số thửa bình quân cơ bản sau khi đổi thửa đạt từ 01- 02 thửa/hộ,
diện tích 1 thửa bình quân đạt trên 800 m2.
Năm 2003 có 11 tỉnh vùng ĐBSH với 50/69 huyện, thành thị (52,1%) với
766/2001 xã, phường thị trấn (38,1%) tổ chức thực hiện dồn điền đổi thửa; Ở Phú
Thọ đã có 13/13 huyện, thị với 253/274 xã, phường, thị trấn tiến hành dồn điền đổi
thửa (Báo cáo Bộ NN &PTNT, 2003).
Về số thửa: hầu hết ở các địa phương sau thực hiện DĐĐT, số thửa đều có sự
thay đổi theo chiều hướng tích cực, cụ thể: ở Hà Nội, trước dồn đổi bình quân có 06
thửa/hộ, sau dồn đổi còn 4,8 thửa/hộ; ở Hà Tây chỉ tiêu này là 9,5 và 4,8 (Tổng cục
Địa chính, 1998).
Về diện tích mỗi thửa: ở Hà Nội, trước dồn đổi bình quân diện tích/thửa là
286,9m2, sau dồn đổi là 357,0m2/thửa; Hà Tây chỉ số này là 216,0m 2 và 425,0m2;
Hải Dương là 283,0m2 và 684,0m2; Thái Bình là 320,0m2 và 960,0m2 ...Kết quả trên
cho thấy, diện tích thửa đất lớn đã tiết kiệm được diện tích đắp bờ, chia ranh giới
thửa đất (Báo cáo bộ Tài nguyên & môi trường, 2005)
Tại tỉnh Bắc Giang việc giao đất nông nghiệp ổn định, lâu dài cho hộ nông dân
đã được thực hiện từ năm 1993 theo Nghị định số 64/NĐ-CP của Chính phủ. Toàn

tỉnh đã giao 206.126,29ha đất nông nghiệp cho 631.016 hộ nông dân. Bình quân số
thửa/hộ từ 10 - 15 thửa, cá biệt có nơi tới 30 thửa/hộ, trung bình mỗi thửa chỉ trên
dưới 330m2, cá biệt có thửa đất chỉ có vài chục mét vuông. Do tiến độ giao đất nông
nghiệp cho các hộ nông dân theo Nghị định số 64/NĐ-CP diễn ra khá nhanh, đến
cuối năm 1995, đã cơ bản hoàn thành trên địa bàn toàn tỉnh. Đất được giao phân tán
tại nhiều xứ đồng khác nhau; số lượng thửa đất của một hộ được giao còn quá lớn
(bình quân số thửa/hộ toàn tỉnh từ 10 - 15 thửa; các xã vùng chuyên canh lúa bình

20


quân 7 - 8 thửa/hộ; nhiều vùng trồng màu bình quân trên 15 thửa/hộ; cá biệt có hộ
được giao đến 30 thửa ruộng). Ngoài ra, quỹ đất công ích không tập trung, nhiều
nơi chỉ có trên sổ sách, còn trên thực địa nằm lẫn trong diện tích giao ổn định, lâu
dài của một số hộ nông dân (Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bắc Giang, 2004).
1.2.3. Những kinh nghiệm về tích tụ và tập trung ruộng đất của một số nước
trên thế giới.
Trung Quốc nông dân không có quyền sở hữu đối với đất đai và đương nhiên
càng không có quyền mua bán. Thay vào đó, các quan chức địa phương tiến hành
phân bổ quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình hoặc quyền canh tác trên những
mảnh đất chuyên canh.
Nông dân không có quyền sở hữu đất đai nên ít chú ý đầu tư để cải thiện đất
và có rất ít tài sản để cầm cố cho các khoản vay, luôn rơi vào tình trạng thiếu vốn.
Rủi ro về khả năng phân bổ lại quyền sử dụng đất đã hạn chế các khoản đầu tư lớn
vào các vườn cây, các khu đất trồng rừng hoặc các dự án dài hạn. Sở hữu đất bị giới
hạn cũng không khuyến khích nông dân bảo tồn đất, ngược lại nông dân có xu
hướng trồng và sử dụng các biện pháp có hiệu quả nhanh để thời gian thu hồi vốn
ngắn, chẳng hạn như sử dụng chất hoá học nồng độ cao. Ngoài ra, giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng không rõ ràng còn khiến nông dân canh tác theo hướng
không có lợi cho đất, dẫn tới tình trạng xói mòn nhanh chóng.

Theo Luật đất đai mới nhất ban hành năm 1999, hầu hết các quy định đều cho
rằng các hộ nông dân được phép kéo dài thời gian thuê đất 30 năm để đảm bảo quyền
sử dụng đất cho người dân. Luật đất đai được đưa ra cũng nhằm giảm bớt số lần và
những thất thường trong phân bổ lại quyền sử dụng đất. Trung Quốc có chủ trương
“kéo dài thời hạn khoán ruộng đất để khuyến khích nông dân đầu tư bồi bổ sức đất,
thực hiện thâm canh”. Chủ trương này nhằm kiện toàn chế độ khoán sản phẩm đến hộ
nông dân, khắc phục tình trạng nông dân bóc ngắn cắn dài, kinh doanh có tính chất quá
lạm dụng độ màu mỡ của đất đai. Thời hạn khoán ruộng đất từ 15 năm trở lên.
Trung Quốc đang tiến hành chủ trương dồn điền đổi thửa. Nước này dự kiến
đến năm 2020 tăng thêm 1,7 triệu ha đất trồng trọt. Công tác tăng cường hiệu quả
cho nông nghiệp đang được chính phủ quan tâm chặt chẽ do Trung bình mỗi năm
Trung Quốc mất đi khoảng 200.000 ha đất nông nghiệp chuyển sang xây dựng công
nghiệp, đô thị (Đăng Kim Sơn, 2008).
Nhật Bản rất coi trọng phát triển nông nghiệp, chăm lo đời sống cho cư dân

21


nông thôn thông qua hàng loại các chính sách, trong đó có chính sách về đất đai.
Đây là những mấu chốt để nông nghiệp Nhật Bản đứng hàng đầu thế giới…
Năm 1950 quy mô trang trại là 0.8ha năm 1970 là 1.1 ha năm 1990 là 1.4ha.
Sau cải cách ruộng đất năm 1950, Chính phủ có chủ trương hạn chế việc bán ruộng
đất, đã gây trở ngại cho việc tích tụ ruộng đất. Về sau đã thay đổi chủ trương này,
nhưng việc tích tụ ruộng đất cũng chậm chạp. Tuy nhiên, ở Nhật Bản có kinh nghiệm
đáng quan tâm là họ có giải pháp hạn chế việc chia nhỏ quy mô ruộng đất của các hộ
nông dân. Một hộ có nhiều con trai, theo tập quán chỉ có người con trai trưởng mới có
nhiệm vụ tiếp tục ở nông thôn làm ruộng và chăm sóc cho mẹ già, còn các con khác
phải đi làm nghề khác ngoài nông nghiệp, không chia ruộng cho tất cả các con. Vì
vậy, Nhật Bản có hơn 127 triệu dân, nhưng chỉ có gần 2 triệu người làm nông
nghiệp. Cả nước Nhật Bản chỉ có 4,61 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó

diện tích đất trồng lúa là 2,51 triệu ha.
Về chính sách đất đai, Chính phủ khuyến khích và tạo điều kiện sử dụng tối đa
quỹ đất hiện có, đồng thời đảm bảo duy trì dự màu mỡ của đất và nguyên tắc “Người
cày có ruộng”. Đất đai ở Nhật Bản có hình thức thuộc sở hữu tư nhân. Chủ sở hữu đất
nông nghiệp bắt buộc phải sử dụng đất cho sản xuất nông nghiệp, không được để
hoang hóa quá 1 năm. Người sở hữu đất không sản xuất nông nghiệp, nhưng vẫn
muốn sở hữu có thể ủy thác ngân hàng đất đai cho thuê. Khi ủy quyền cho thuê, chủ
sở hữu đất sẽ được miễn các loại thuế có liên quan… Chính yếu tố này đã “giải
phóng”, mở rộng “chiếc áo” hạn điền và đảm bảo sự công bằng cho nhân dân với các
đối tượng nghề nghiệp khác trong xã hội và đảm bảo sự công bằng giữa nhân dân có
đất ủy thác cho ngân hàng và người thuê lại đất từ ngân hàng đất đai…
Ở Đài Loan chính quyền đã thực hiện cải cách ruộng đất theo nguyên tắc
phân phối đồng đều ruộng đất cho nông dân. Ruộng đất đã được trưng thu, tịch thu,
mua lại của các địa chủ rồi bán chịu, bán trả dần cho nông dân. Điều này đã tạo điều
kiện cho ra đời các trang trại gia đình quy mô nhỏ. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp
hoá nông nghiệp nông thôn sau này đòi hỏi phải mở rộng quy mô của các trang trại
gia đình nhằm ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm. Nhưng ruộng đất vẫn không được tích tụ cho dù đã có nhiều người
tuy là chủ đất nhưng đã chuyển sang làm những nghề phi nông nghiệp, vì người dân
coi ruộng đất là tiêu chí để đánh giá vị trí của họ trong xã hội nên ít có sự chuyển
nhượng đất.
Năm 1983 Đài loan công bố Luật phát triển nông nghiệp trong đó công nhận
22


phương thức sản xuất uỷ thác của các hộ nông dân, Nhà nước công nhận sự chuyển
quyền sử dụng ruộng đất cho các hộ khác nhưng chủ ruộng cũ vẫn được thừa nhận
quyền sở hữu, ước tính đã có tới trên 75% số trang trại áp dụng phương thức này để
mở rộng quy mô ruộng đất sản xuất. Ngoài ra để mở rộng quy mô sản xuất các trang
trại trong cùng thôn xóm còn tiến hành các hoạt động hợp tác như làm đất, mua bán

chung một số vật tư, sản phẩm nông nghiệp.
Hàn Quốc là nước thứ ba trên thế giới có mật độ dân số đông nhất. Trong khi
đó, địa hình chủ yếu của Hàn Quốc là đồi núi, chỉ có 1/5 là đất đai trồng trọt. Năm
1994, tổng diện tích đất đai toàn quốc và diện tích đất trồng trọt tính theo đầu người
chỉ tương đương với 0,22 ha và 0,048 ha. Bùng nổ dân số làm cho tỷ lệ ngày càng
thấp nên việc tận dụng đất đai tối ưu có một ý nghĩa sống còn đối với Hàn Quốc.
Bắt đầu từ những năm đầu thập kỷ 60, chính sách nông nghiệp của Hàn Quốc
tập trung tăng sản xuất lúa gạo nhằm đạt mục tiêu tự cung, tự cấp. Một mặt, chính
phủ mở rộng những cánh đồng lúa bằng các biện pháp khai hoang, canh tác và cải
tạo, biến những cánh đồng khô thành những cánh đồng lúa. Mặt khác gần đây bằng
biện pháp quy hoạch “diện tích đất trồng trọt tuyệt đối” và “diện tích đất trồng trọt
tương đối” chính phủ Hàn Quốc ngăn cấm biến đất trồng trọt thành đất phi nông
nghiệp hay được sử dụng xây dựng các khu đô thị. Nghiêm cấm sử dụng những
cánh đồng lúa thuộc phạm vi diện tích đất trồng trọt tuyệt đối cho mục đích phi
nông nghiệp. Còn đối với diện tích đất trồng trọt tương đối có thể được dùng cho
các mục đích khác tùy thuộc vào chính quyền địa phương. Song được quy định rất
chặt. Nhờ đó, từ năm 1970 đến 1983, diện tích những cánh đồng lúa được cải thiện
đáng kể mặc dù các khu đô thị không ngừng phát triển và mở rộng. (Diệu Linh,
www.nchq.org.vn).

1.2.4. Kinh nghiệm dồn điền đổi thửa, tập trung đất đai ở một số địa phương
trong nước
Hà Nội: Tính đến tháng 1 năm 2016 toàn thành phố đã thực hiện dồn điền, đổi
thửa được 76.891,67/76.281,57 ha (đạt 100,8%), do có 8 huyện có diện tích dồn
điền, đổi thửa vượt 2.485,43 ha so với kế hoạch Thành phố giao. Trong đó các
huyện: Sóc Sơn (965,34 ha), Ba Vì (770,34 ha), Phú Xuyên (357,19 ha), thị xã Sơn
Tây (146,12 ha)… Từ hiệu quả công tác dồn điền, đổi thửa toàn bộ diện tích đất
nông nghiệp đều được quy hoạch lại và đào đắp giao thông, thủy lợi nội đồng theo
tiêu chuẩn, tiêu chí nông thôn mới. Mỗi hộ gia đình trước dồn điền, đổi thửa có 715 ô, thửa, thậm chí 27-39 ô, thửa như ở Sóc Sơn, Chương Mỹ... đến nay chủ yếu
23



chỉ còn 1-2 ô, thửa, rất thuận lợi cho người dân trong tổ chức sản xuất, giảm đỡ
ngày công, tiết kiệm chi phí vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu nên hầu hết người dân
nông thôn của Hà Nội rất phấn khởi tin tưởng hơn vào chủ chương, chính sách của
Đảng, Nhà nước và thành phố.
Sau dồn điền, đổi thửa đã hình thành nhiều vùng sản xuất nông nghiệp chuyên
canh tập trung như các vùng sản xuất lúa chất lượng cao ở các huyện: Mỹ Đức, Ứng
Hòa, Phú Xuyên, Đông Anh,….cho giá trị thu nhập tăng thêm so với sản xuất lúa
truyền thống khoảng 20-25%; Vùng sản xuất Rau an toàn ở Đông Anh, Phúc Thọ,
Hoài Đức,... với giá trị sản xuất từ 400-500 triệu đồng/ha/năm; Vùng trồng cây ăn
quả ở một số xã thuộc huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Oai ….với giá trị 0,51,5 tỷ/ha/năm; vùng trồng hoa, cây cảnh như ở Mê Linh, Đan Phượng, Thường Tín,
Đông Anh, Thạch Thất….với giá trị 0,5-1,5 tỷ/ha/năm có nơi đạt trên 2 tỷ/ha/năm…
Bên cạnh đó, việc đưa cơ giới vào đồng ruộng, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ cao vào sản xuất được tăng cường; hình thành các chuỗi liên kết và
tiêu thụ sản phẩm cung cấp rộng rãi cho thị trường trong nước và hướng tới xuất
khẩu. Nhiều mô hình sản xuất hàng hóa nông nghiệp đem lại giá trị kinh tế cao.
Việc củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã được
quan tâm, nhiều hợp tác xã, tổ đội sản xuất, hình thức hợp tác mới được hình thành,
góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, kinh
doanh. Hiện nay, cơ giới hóa đã và đang được các xã, hợp tác xã và cá nhân đầu tư
ở một số khâu chính như: làm đất, gieo cấy và thu hoạch, tiêu biểu như hầu hết các
xã thuộc huyện Phú Xuyên và một số xã ở các huyện: Chương Mỹ, Thạch Thất, Sóc
Sơn, Quốc Oai, Thanh Oai, Thanh Trì…
Bên cạnh đó, diện tích đất dôi dư sau dồn điền, đổi thửa (1.773,78 ha) cũng
tạo điều kiện cho các địa phương quy hoạch mở rộng các công trình phúc lợi, quy
hoạch đấu giá quyền sử dụng đất tạo nguồn lực thực hiện xây dựng nông thôn mới.
Một số huyện có diện tích dôi dư nhiều như: Sóc Sơn (870,82 ha); Ba Vì (206,04
ha); Mê Linh (203 ha)… ()
Bài học kinh nghiệm:

Với những kết quả trên đã chứng minh, việc chọn dồn điền, đổi thửa gắn với
quy hoạch sản xuất làm khâu đột phá để phát triển sản xuất nông nghiệp cùng với
việc phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, dân được bàn bạc dân chủ, công
khai, minh bạch những công việc trực tiếp liên quan đến lợi ích như: dồn điền, đổi
thửa, xây dựng quy hoạch, đề án nông thôn mới… đã được xem là bài học kinh
24


nghiệm quí giá trong công tác xây dựng Nông thôn mới đối với Thủ đô và các địa
phương khác trong cả nước.
Hải Dương: Quyết định số 392/2002/QĐ-UB ngày 06-02-2002 về việc phê
duyệt Đề án “Hướng dẫn nông dân chuyển đổi ruộng từ ô thửa nhỏ thành ô thửa
lớn” kết quả đến năm 2006 đã chuyển đổi cơ bản toàn bộ diện tích đất nông
nghiệp, giảm số thửa bình quân còn 5 - 7 thửa/hộ xuống còn 1 - 3 thửa, như xã
Hùng Sơn, Hồng Quang (Thanh Miện); xã Hồng Thái (Ninh Giang), Tứ Xuyên (Tứ
Kỳ); Đức Xương (Gia Lộc). Đến tháng 8-2014 số thửa bình quân cơ bản sau khi đổi
thửa đạt từ 1 - 2 thửa hộ, diện tích 1 thửa bình quân đạt trên 800m 2 (Báo cáo UBND
tỉnh Hải Dương, 2014)
Bài học kinh nghiệm
Một là, phải thống nhất và tập trung cao sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng
Hai là, làm tốt công tác vận động, tuyên truyền; thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ ở
cơ sở; dân chủ gắn liền với giữ vững nguyên tắc, mục tiêu và tuân thủ pháp luật
Ba là, Ban Chỉ đạo cấp xã phải tích cực triển khai thực hiện các văn bản chỉ
đạo của cấp trên (tỉnh và huyện)
Bốn là, kinh nghiệm về giải quyết những khó khăn do lịch sử để lại nảy sinh
khi triển khai thực hiện dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp
Năm là, phải có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ cấp trên
Sáu là, kịp thời biểu dương những cá nhân, tập thể gương mẫu trong dồn điền,
đổi thửa và hiến đất xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi và các công trình phúc
lợi của địa phương

Huyện Yên Thủ tỉnh Hòa Bình: Từ thực tiễn đồng ruộng manh mún, trung
bình mỗi hộ có từ 3.000 - 5.000 m 2 đất trồng cây hằng năm nhưng lại chia thành 812 thửa đất, cá biệt có hộ tới 30 thửa. Từ thực tiễn trên, Huyện ủy Yên Thủy ban
hành Nghị quyết số 03-NQ/HU ngày 17/12/2012 về mục tiêu, nhiệm vụ công tác
trọng tâm năm 2013; Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐND ngày 21/12/2012 của
HĐND huyện khóa XVIII, kỳ họp thứ 5 về kế hoạch phát triển KT-XH năm 2013.
Trong đó xác định công tác DĐ,ĐT là nhiệm vụ trọng tâm, là tiền đề để phát triển
sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân, thực hiện mục tiêu xây dựng NTM.
Qua 4 năm thực hiện, đã có 36 xóm trên địa bàn 6 xã thực hiện thành công,
mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho bà con nông dân. Các xóm, xã thực hiện đã
khắc phục được tình trạng manh mún ruộng đất, số thửa đất nông nghiệp bình
25


×