Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

ĐÂY THÔN vĩ dạ phan tích lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.64 KB, 3 trang )

Đây thôn Vĩ Da.
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, Hàn Mặc Tử là hiện tượng độc
đáo nhất, lạ lùng nhất và cũng phức tạp nhất. Nhắc đến người thi sĩ
tài hoa bạc mệnh này, ta chẳng thể nào bỏ qua được tác phẩm Đây
thôn Vĩ Dạ của ông. Đến nay, bài thơ này vẫn như một viên ngọc
âm thầm tỏa sáng, thứ ánh sáng lung linh chứa thật nhiều ẩn ức và
mặc cảm.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ. Phải chăng đây là lời của cô gái
Huế nữ tính ngọt ngào vừa nhẹ nhàng trách móc, vừa dịu dàng
nhắc nhở, lại thẹn thùng mời mọc chàng trai? Anh về thăm thôn Vĩ,
cũng là về thăm em nữa chứ. Hay là của chính Hàn Mặc Tử phân
thân tự hỏi bản thân mình một việc cần làm, đáng ra phải làm
nhưng lại không làm, không có cơ hội làm. Sự phân thân và những
sắc thái phức tạp đan xen trong cùng một câu hỏi đã cho thấy nỗi
niềm nhớ Huế thân thương, đượm xót xa của con người ý thức được
cảnh ngộ của mình. Nghĩa là ao ước đấy, song cũng đầy mặc cảm.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền..”
Tiếp theo là cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai, với cảnh
sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú nhiều lần xuất hiện
trong thơ văn:
“Vĩ Dạ thôn Vĩ Dạ thôn
Biết che cần trúc không buồn mà say”
(Huế đa tình - Bích Khuê)
Đến với Hàn Mặc Tử, rõ ràng, tác giả chỉ gợi chứ không tả thế
nhưng hình ảnh vẫn có sức ám ảnh người đọc. Cau là loại cây cao
nhất, vươn thân mình đón tia nắng đầu tiên. Tinh khôi là bởi thế!
Sau một đêm được gội trong sương, sắc xanh của lá cau dường như
được làm mới, lại càng long lanh hơn. Thanh khiết là bởi thế!


“Mướt” ánh lên vẻ mượt mà óng ả đầy xuân sắc. Vườn thôn Vĩ như
một viên ngọc không chỉ rời rợi sắc xanh mà còn tỏa đầy ánh ngọc.
Lộng lẫy đến thế, đẹp tươi đến thế, mà đang vuột ra ngoài tầm tay
thi sĩ, làm sao tránh khỏi đau thương!
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền..”
Câu thơ thứ tư là câu thơ gây nên nhiều tranh luận nhất. Có người
đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực để chứng minh rằng đây là
gương mặt chữ điền này là của người phụ nữ. Vì trong quan niệm
ngày xưa, gương mặt chữ điền được ưa chuộng vì nó ẩn chứa nét
đẹp phẩm chất trung hậu, thủy chung của một người con gái:
“Mặt em vuông tựa chữ điền


Da em thì trắng, áo đen vận ngoài
Lòng em có đất, có trời
Có câu nhân nghĩa, có lời thủy chung”
Nhưng cá nhân tôi nghiêng về ý kiến cho rằng gương mặt chữ điền này chính là Hàn Mặc Tử,
là hình tượng của chính Cái tôi thi sĩ, là sản phẩm của mặc cảm chia lìa. Với thân thể bệnh
tật và tâm hồn tuyệt vọng, Hàn Mặc Tử hình dung mình trở về thôn Vĩ, vin một cành lá trúc,
che ngang khuôn mặt mình để nhìn vào, say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Càng đẹp
lại càng đau, cảm giác càng tinh tế, cảm xúc càng hóa đau thương. Có thể nói, Hàn Mặc Tử
là minh chứng đáng sợ cho định nghĩa về cái đẹp của Pôn Valeri: Cái đẹp là cái làm ta tuyệt
vọng.
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trắng về kịp tối nay.”
Mở ra khổ hai là cảnh mây trời xứ Huế, một hình ảnh vô cùng phi lý lại vạn lần hợp lý. Phi lý
với logic tự nhiên vì gió có thổi thì mây mới bay, đằng này trong thơ thi sĩ họ Hàn, gió một
đằng, mây một nẻo, không tương phùng, chẳng gặp gỡ. Nhưng hợp lý với tâm trạng của tác

giả, đây là hình ảnh của nỗi niềm mặc cảm chia lìa, li tán những thứ tưởng chừng như chẳng
thể nào li tán. Dòng nước có nỗi buồn mang sẵn, hay vì gió mây chia lìa đem bỏ buồn xuống
lòng sông? Với chữ “lay” vô cùng quen thuộc trong thơ ca,
“Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió người không thấy về”
(Bờ sông vẫn gió – Trúc Thông)
Cõi nhân gian ăm ắp sự sống, biên biếc sắc màu và ấm nóng tình người trong khổ một đối
nghịch khung cảnh vô sắc vô hương, ảm đạm, chia lìa ở khổ hai. Có chăng sau những giấy
phút đắm chìm trong hoài niệm về thôn Vĩ xa xôi thì Hàn Mặc Tử đã bừng tĩnh đối mặt với
thực tế đau thương tê tái, với kiếp đời bất hạnh của mình. Nhưng rồi với cái niềm thiết tha,
khát sống yêu đời đến cháy bỏng, Hàn Mặc Tử lại một lần nữa chìm trong mộng đẹp:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trắng về kịp tối nay.”
Khi tất cả mọi thứ đều chuyển động dời đi, mây li tán, gió chia lìa, trăng như một chiếc phao
cứu sinh để thi nhân bám víu lấy – một tri âm, tri kỷ - một hiện thân của cái đẹp, của cuộc
đời trần thế, cái thế giới mà tác giả khát khao được chiếm lình và tận hưởng. Nét thực nét ảo
chập chờn chuyển hóa khá thơ mộng. Xét đến chữ “kịp”, đây không phải là chữ bóng bảy,
trái lại, hoàn toàn bình dị, thậm chí là không mấy quan trọng. Nhưng không. Chính nó hé mở
cho người đọc về cảm nhận và tâm thế sống của Hàn Mặc Tử: cảm nhận về một hiện tại
ngắn ngủi, và sống là chạy đua với thời gian, là tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ
thời gian còn quá ít ỏi của số phận mình. Chỉ được sống không thôi với nhà thi sĩ tài ba kia đã
là hạnh phúc vô song rồi. Có lẽ thế , mà chữ kịp nghe thật phấp phỏng, khắc khoải nỗi xót
xa. Chừng như không kịp, Hàn Mặc Tử sẽ vĩnh viễn rơi vào cô đơn, tuyệt vọng.
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”


Có lẽ giờ đây tác giả muốn nắm bắt bóng hình một giai nhân với tà áo trắng được cực tả đến

tột cùng, một trong những đặc điểm thơ của Hàn Mặc Tử, ảnh hưởng từ trường phái thơ
tượng trưng. Với sắc trắng ấy, thị giác cũng bất lực, cảm giác thay thế bằng ảo giác, hình
ảnh chỉ còn là ảo ảnh. Giai nhân chẳng có, còn ở đây là khoảng trống hụt hẫng trong cõi lòng
người thi sĩ.
“Người đi, một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”
(Những giọt lệ- Hàn Mặc Tử)
Nếu cả bài chỉ có một chữ “ai” thì chẳng nói, đằng này có đến bốn chữ mang ý phiếm chỉ
hóa nằm rải rác ở cả ba khổ. Chúng gắn liền với nhau tạo nên cảm giác se sót về thực tại xa
vời “vườn ai” “thuyền ai” “ai biết tình ai”. Tất cả như thuộc về ai đó xa vời, chứ không riêng
gì Hàn Mặc Tử nữa. Tồn tại thôi đã quá đỗi mong manh. Câu hỏi khép lại bài thơ thật biết
cách dằn vặt lòng người. Cô gái Huế dịu dàng e lệ, trong trắng như nàng tiên cõi Bồng Lai,
liệu tình yêu em có đậm đà bền vững, hay bảng lảng như mấy trời đất Huế? Một bài thơ
phong cảnh nghiêng nghiêng theo cõi lòng tác giả, chuyển dần thành bài thơ tình yêu, tình
người, tình đời vừa thiết tha, xa xăm, vô vọng, vừa bâng khuâng, man mác.
Sử dụng một chuỗi câu hỏi tu từ tạo nên âm điệu riêng cho bài: trăn trở, băn khoăn, ngậm
ngùi, khắc khoải, một hệ thống hình ảnh bóng bẩy giàu sức gợi cùng với cách ngắt nhịp
thanh điệu và biện pháp tu từ tài hoa, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một Vĩ Dạ đẹp đến nao lòng xót
xa, một dự cảm âu lo cho thân kiếp phù sinh và tình yêu cuộc sống chân thành. Chẳng thế
mà Chế Lan Viên đánh giá rất cao Hàn Mặc Tử:
“Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường mực thước kia sẽ tan
biến đi, và còn lại của cái thời này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử”
Hơn năm bảy chục năm, Đây thôn Vĩ Dạ luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc thi ca
sáng ngời, là bông hoa quý trong khu vườn văn học dân tộc Việt Nam tỏa ngát một khát
khao yêu đời mãnh liệt của một nhà thơ bệnh tật hắt hủi. Xin mượn lời của nhà thơ Trần Ninh
Hồ để khép lại bài làm này:
“Nếu nhân loại không còn khao khát nữa
Và nhà thơ – nghề chẳng kẻ nào yêu
Thì thi sĩ cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử
Vẫn hiện lên nơi đáy vực đợi chờ”


5/2/2018
Pum Shin



×