Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Thực trạng bệnh sâu răng viêm lợi và các yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng viêm lợi của trẻ từ 6 11 tuổi, tỉnh hòa bình năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.62 KB, 91 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, bệnh sâu răng và viêm lợi vẫn còn rất phổ biến ở các nước trên
thế giới kể cả các nước đã phát triển. Bệnh sâu răng, viêm lợi đang dần trở thành
một vấn đề được quan tâm sâu sắc của thế giới. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã
tổ chức nghiên cứu thống kê ở một số nước trong khoảng thời gian từ năm 1994
- 2008, tỷ lệ trẻ đến tuổi 12 mắc bệnh sâu răng vẫn còn cao. Theo WHO, bệnh
sâu răng - viêm lợi được ghi nhận là căn bệnh phổ biến trên thế giới nhất là khu
vực Châu Á và Mỹ Latin, bệnh cũng từng được xem là một trong ba mối nguy
hàng đầu cho sức khỏe con người sau bệnh ung thư và tim. Bệnh sâu răng thật sự
là mối lo của các bậc phụ huynh bởi theo thống kê của WHO có đến 60-90% trẻ
ở độ tuổi 6-18 tuổi bị sâu răng.
Ở Việt Nam, bệnh sâu răng - viêm lợi rất phổ biến. Theo Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO), 85% trẻ em Việt Nam bị sâu răng. Do việc sử dụng đường
tăng cao và việc vệ sinh răng miệng còn hạn chế, con số trên có nguy cơ tăng
cao ở Việt Nam trong những năm sắp tới. Bên cạnh đó, liên đoàn Nha khoa
quốc tế (FDI) cũng cảnh báo nước ta là một trong những nước có tỷ lệ trẻ em
mắc bệnh sâu răng cao nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra, theo các bác sĩ
nha khoa ở TP HCM, các bệnh về răng ở trẻ em có chiều hướng gia tăng và
Việt Nam hiện được xếp vào nhóm quốc gia có tỷ lệ bệnh này cao nhất thế
giới. Sâu răng ở lứa tuổi học đường là một vấn đề nổi cộm. Hiện nay, trẻ em
trong các trường tiểu học tỷ lệ sâu răng cũng khá cao. Theo nghiên cứu đánh
giá hiệu quả chăm sóc răng miệng trẻ em học đường trong sâu răng và bệnh
quanh răng tại Hải Dương năm 2000 của Trịnh Đình Hải thì tình trạng sâu
răng sâu răng vĩnh viễn có xu hướng gia tăng, kèm theo đó là tình trạng vệ
sinh răng miệng kém và xấu đi theo tuổi. Một cuộc “Điều tra sức khỏe răng
miệng toàn quốc” của Viện Răng Hàm Mặt TPHCM thực hiện đã đưa ra


2



những kết quả sẽ khiến các bà mẹ không thể xem nhẹ căn bệnh này. Cụ thể, tỷ
lệ trẻ bị sâu răng trong nhóm tuổi 6-8 là 25,4%, tỷ lệ này càng tăng lên theo
từng nhóm tuổi như 54,6% trẻ ở độ tuổi 9-11, 64,1% của nhóm 12-14 tuổi và
với 15-17 tuổi có 68,6% ca sâu răng.
Cũng theo như các kết quả nghiên cứu, độ tuổi từ 6-11 tuổi (lứa tuổi
học sinh tiểu học) đa phần sâu răng sữa. Đối với các trường hợp này, nếu
không được điều trị đúng thì nguy cơ ảnh hưởng đến quá trình mọc răng vĩnh
viễn là khó tránh khỏi. Như vậy sâu răng ở trẻ em và đặc biệt là sâu răng ngay
từ lứa tuổi tiểu học là một vấn đề đáng quan tâm. Có rất nhiều nghiên cứu ở
Việt Nam đã được triển khai để mô tả thực trạng bệnh sâu răng - viêm lợi.
Tuy nhiên các nghiên cứu đó chưa tập trung mô tả các yếu tố liên quan tới
bệnh sâu răng - viêm lợi để từ đó có những biện pháp can thiệp làm giảm tỷ lệ
bệnh sâu răng - viêm lợi trong nhóm học sinh tiểu học cũng như tuổi học
đường nói chung. Vì những vấn đề bức thiết trên Bộ y tế đã tiến hành chương
trình nghiên cứu “Mô hình bệnh tật của trẻ em ở lứa tuổi học đường” trên quy
mô cả nước với đại diện là 8 tỉnh thành và bệnh răng miệng là nội dung trọng
tâm của nghiên cứu này.
Hòa Bình, một trong tám tỉnh thành được chọn, là những một tỉnh miền
núi, điều kiện kinh tế còn khó khăn, do đó chưa có nhiều chương trình y tế
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Với lứa tuổi học đường, chương trình Nha
học đường là một chương trình đáng được quan tâm do tỷ lệ các bệnh về răng
miệng ở lứa tuổi này khá cao. Tuy nhiên tại tỉnh miền núi này, chương trình
Nha học đường chưa phổ cập toàn bộ các trường tiểu học tại Hòa Bình nên
các bệnh về răng miệng là vấn đề nổi cộm tại Hòa Bình. Ngoài ra, tại địa bàn
chưa có một nghiên cứu nào về thực trạng sâu răng - viêm lợi và các yếu tố
liên quan đến bệnh để từ đó xây dựng được các chương trình can thiệp phòng
chống bệnh sâu răng viêm lợi phù hợp. Do đó, cùng với nghiên cứu của Bộ y



3

tế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng bệnh sâu răng - viêm lợi và
các yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng - viêm lợi của trẻ từ 6-11 tuổi, tỉnh
Hòa Bình năm 2011” với mong muốn đạt được 2 mục tiêu sau:
1. Thực trạng bệnh sâu răng - viêm lợi của trẻ em tiểu học, tỉnh Hòa
Bình năm 2011.
2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng sâu răng - viêm lợi của trẻ em
tiểu học, tỉnh Hòa Bình năm 2011.


4

Chương I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Một số đặc điểm về giải phẫu và sinh lý của bộ răng: [31], [33]
1.1. Tổ chức học của răng: [30], [32], [34]
Cấu tạo của răng gồm: men răng, ngà răng và tủy răng.

Hình 1.1: Giải phẫu Răng
1.1.1. Men răng:
Men răng phủ mặt ngoài ngà thân răng, có nguồn gốc từ ngoại bì, là mô
cứng nhất trong cơ thể, có tỷ lệ chất vô cơ cao nhất (khoảng 96%). Men răng
dày mỏng tùy vị trí khác nhau, dày nhất ở núm răng là 1,5mm và mỏng nhất ở vùng
cổ răng. Hình dáng và bề dày của men được xác định từ trước khi răng mọc ra, trong
đời sống, men răng không có sự bồi đắp thêm mà chỉ mòn dần theo tuổi nhưng có sự
trao đổi về vật lý và hóa học với môi trường trong miệng.


5


1.1.2. Ngà răng:
Có nguồn gốc từ trung bì, kém cứng hơn men, chứa tỷ lệ chất vô cơ
thấp hơn men (75%), chủ yếu là 3[(PO4)2Ca3)2H2O]. Trong ngà răng có
nhiều ống ngà, chứa đuôi bào tương của nguyên bào ngà. Bề dày ngà răng
thay đổi trong đời sống do hoạt động của nguyên bào ngà, ngà răng ngày càng
dày theo hướng về phía hốc tủy răng, làm hẹp dần ống tủy.
Về tổ chức học: ngà răng được chia làm hai loại:
- Ngà tiên phát: chiếm khối lượng chủ yếu và được tạo nên trong quá
trình hình thành răng, nó bao gồm: ống ngà, chất giữa ống ngà và dây Tôm.
- Ngà thứ phát: được sinh ra khi răng đã hình thành gồm ngà thứ phát
sinh lý, ngà phản ứng và ngà trong suốt.
1.1.3. Tuỷ răng:
Là mô liên kết mềm, nằm trong hốc tuỷ gồm tuỷ chân và tủy thân. Tuỷ
răng trong buồng tủy gọi là tủy thân hoặc tủy buồng, tuỷ răng trong ống tủy
gọi là tủy chân. Các nguyên bào ngà nằm sát vách hốc tủy.
Tuỷ răng có nhiệm vụ duy trì sự sống của răng cụ thể là duy trỡ sự sống
của nguyên bào ngà, tạo ngà thứ cấp và nhận cảm giác của răng. Trong tủy răng
có chứa nhiều mạch máu, mạch bạch huyết và đầu tận cùng của thần kinh.
1.2. Vùng quanh răng:
Bao gồm xương ổ răng, xê măng, dây chằng nha chu và lợi răng.
1.2.1. Xương ổ răng:
Là mô xương xốp, bên ngoài được bao bọc bằng màng xương nơi nướu
răng bám vào. Xương ổ răng tạo thành một huyệt, có hình dáng và kích thước
phù hợp với chân răng. Bề mặt ổ răng, nơi đối diện với chân răng, là mô
xương đặc biệt có nhiều lỗ thủng cho mạch máu, thần kinh từ xương xuyên
qua để nuôi dây chằng nha chu, gọi là xương ổ chính danh hay lá sàng.


6


Xương ổ răng và xêmăng là thành phần tổ chức cứng của tổ chức quanh
răng. Thành phần này không bị tổn thương trong bệnh viêm lợi, bị tổn thương
trong bệnh viêm quanh răng.
1.2.2. Xêmăng :
Là mô đặc biệt, hình thành cùng với sự hình thành chân răng, phủ mặt
ngoài ngà chân răng. Xê măng được bồi đắp thêm ở phía chóp chủ yếu để bù
trừ sự mòn mặt nhai, được coi là hiện tượng mọc răng suốt đời.
1.2.3. Dây chằng nha chu:
Dây chằng nha chu nằm ở khe giữa xương ổ răng và xêmăng, bình
thường khe này rộng 0,15 - 0,25mm. Dây chằng nha chu có nhiệm vụ giữ cho
răng gắn vào xương ổ răng và đồng thời có chức năng làm vật đệm, làm cho
mỗi răng có sự xê dịch nhẹ độc lập với nhau trong khi ăn nhai, giúp lưu thông
máu, truyền cảm giác áp lực và truyền lực để tránh tác dụng có hại của lực
nhai đối với răng và nha chu.
1.2.4. Lợi răng:
Bao gồm lợi tự do và lợi bám dính.
- Lợi tự do: gồm có bờ lợi tự do (đường viền lợi) và nhú lợi (núm lợi).
Bình thường lợi tự do hình lượn sóng ôm sát xung quanh một phần thân răng
và cổ răng. Đường viền lợi ở mặt ngoài và mặt trong của răng, nhú lợi ở phần
kẽ giữa hai răng đứng cạnh nhau. Mặt trong của đường viền lợi và núm lợi
cùng với phía ngoài của thân răng có khe hở gọi là khe lợi. Khe này sâu 0,5 1mm. Khi răng mới mọc có thể có chiều sâu 0,8 - 2mm. Đáy khe lợi ở ngang
cổ răng.
- Lợi bám dính: Vùng lợi dính hơi gồ lên, nối tiếp từ phần lợi tự do đến
phần niêm mạc di động.


7

1.3. Bộ răng:

Bộ răng sữa là bộ răng bắt đầu mọc lúc trẻ 6 tháng tuổi và mọc đầy đủ
lúc 24-36 tháng tuổi. Bộ răng sữa gồm có 20 chiếc, 10 chiếc ở mỗi hàm.

Hình 1.2: Lát cắt ngang răng người
Bộ răng sữa mọc đầy đủ vào khoảng hai tuổi rưỡi.Các răng sữa sẽ được
thay thế bởi các răng vĩnh viễn. Bộ răng sữa không có răng cối nhỏ và không
có răng nào giống răng cối nhỏ vĩnh viễn. Vào khoảng 6 tuổi, bắt đầu xuất
hiện sự mọc răng vĩnh viễn thay thế dần cho bộ răng sữa, qua trình này
thường kết thúc vào khoảng 12 tuổi. Bộ răng vĩnh viễn gồm 28 đến 32 chiếc
(4 răng số 8 có thể không có) là hàm răng thay thế cho bộ răng sữa, nó có một
số đặc điểm khác biệt với bộ răng sữa cần lưu ý.
 Về hình thể bên ngoài:
- Răng sữa nhỏ hơn răng vĩnh viễn tương ứng cùng nhóm.


8

- Thân răng so với chiền dài toàn bộ của răng ngắn hơn răng vĩnh viễn.
- Các răng cửa sữa có mặt ngoài và mặt trong lồi hơn nhiều ở 1/3 cổ tạo
thành các gờ cổ.
- Mặt ngoài và mặt trong của các răng cối sữa phẳng và hội tụ nhiều từ
vùng gờ cổ về phía nhai, vì thế bản nhai của chúng hẹp.
- Chân răng sữa dài và mỏng hơn….
- Thân răng có màu trắng sữa đục hơn răng vĩnh viễn.
 Về hình thể trong:
- Thân răng rộng hơn mọi hướng so với vùng cổ.
- Men răng khá mỏng và độ dày giữa các vùng thân răng ít có sự khác biệt.
- Lớp ngà giữa men răng và buồng tủy khá mỏng.
- Các sừng tủy nhô cao và buồng tủy rộng.
- Các chân răng sữa dài hẹp, dang rộng đáng kể và thuôn dài về phía chóp.

Ngoài ra khi mới mọc men răng chưa hoàn toàn được ngấm vôi đầy đủ,
các rãnh mặt nhai của răng vĩnh viễn thường sâu tạo ra những vùng đọng thức
ăn. Đó là những yếu tố thuận lợi cho sâu răng dễ hình thành ở trẻ em. Cấu
trúc bên trong với đặc điểm men mỏng, sừng tuỷ nhô cao…là những yếu tố
thuận lợi làm cho bệnh sâu răng nhanh chóng chuyển sang bệnh lý tuỷ răng.
Cấu trúc bên ngoài với nhiều vị trí lồi lõm cùng với sự phát triển của xương
hàm làm các răng sữa thưa dần tạo điều kiện thuận lợi cho lắng đọng và mắc
dắt thức ăn làm tăng cơ hội hình thành bệnh sâu răng và viêm lợi.
2. Bệnh Sâu răng và Viêm lợi:
2.1. Sâu răng ở trẻ em:
Sâu răng là một bệnh rất phổ biến ở các nước trên thế giới. Bệnh mắc
từ rất sớm và ở mọi lứa tuổi, ở trẻ em ngay sau khi răng mọc cũng như ở
người già. Tổ chức cứng của răng bị phá huỷ tạo thành lỗ sâu trên răng, có sâu
răng sữa và sâu răng vĩnh viễn.


9

Sâu răng là bệnh tổn thương không hồi phục do đó nếu không được chữa trị
và phòng bệnh kịp thời, sâu răng sẽ tích lũy ngày càng cao.
Việc chữa răng rất tốn kém nhưng cũng không thể chữa răng hồi phụctái tạo lại tổ chức cứng của răng như trước. Sâu răng nếu không chữa trị kịp
thời sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe, có thể gây các biến chứng nguy hiểm.
Đánh giá tình hình sâu răng và có biện pháp dự phòng phù hợp, hữu
hiệu là phương pháp duy nhất hiện nay trên thế giới thực hiện. Để có thể đánh
giá sâu răng sữa cũng như sâu răng vĩnh viễn người ta thường chọn:
- Trẻ 6 tuổi: Đánh giá răng sữa.
- Trẻ 12 tuổi: Đánh giá răng vĩnh viễn.
Sâu răng sớm là hiện tượng xuất hiện rất phổ biến ở trẻ, chiếm tỷ lệ 30
- 50% ở các nước phát triển và đến 70% ở các nước đang phát triển. Các kết
quả nghiên cứu đã cho thấy rằng, trẻ bị sâu răng khi còn nhỏ có nguy cơ bị

sâu răng nhiều hơn khi lớn lên. Vì vậy, việc phòng ngừa sâu răng sớm ở trẻ
giúp tránh được các vấn đề quan trọng về răng miệng sau này.
 Cơ chế gây bệnh:
Sự hình thành sâu răng phụ thuộc vào các axít hữu cơ được tạo ra từ sự
lên men của các carbohydrate trong thức ăn do vi khuẩn làm giảm độ pH ở
các mảng bám răng và tạo ra những chỗ bị mất khoáng. Sâu răng ban đầu có
dạng các điểm trắng đục trên men răng và các lỗ sâu răng sẽ xuất hiện khi tình
trạng mất khoáng tiến triển mạnh.
Nhóm các vi khuẩn atreptococcus mutans có liên quan đến sự hình
thành sâu răng. Các vi khuẩn này có khả năng bám dính vào men răng, tạo ra
nhiều chất axít và sống ở môi trường pH thấp. Khi men răng bị thủng lỗ, các
loại vi khuẩn khác (các lactobacillus) sẽ sinh sôi ở răng, tạo ra môi trường axít
và thúc đẩy hóa trình mất khoáng. Sự mất khoáng do axít được tạo ra từ vi
khuẩn phụ thuộc vào số lần tiêu thụ và loại carbohydrate có trong thức ăn.


10

 Nguyên nhân, triệu chứng, biểu hiện:
Sâu răng có thể gặp cả trên răng vĩnh viễn và răng sữa nhưng hay gặp
hơn ở răng sữa vì những lý do sau:
- Mức độ canxi hóa của răng chưa hoàn thiện, lớp men răng sữa còn
mỏng nên dễ bị vi khuẩn tấn công. Những bà mẹ ăn uống thiếu canxi khi
mang thai thì sau này men răng của con cũng dễ bị yếu.
- Do bé sử dụng quá nhiều đồ ngọt.
- Do cha mẹ không biết cách chăm sóc răng cho bé.
- Ngoài ra, những yếu tố như bé bú bình, bé sinh mổ… cũng làm gia tăng
tình trạng sâu răng sữa ở bé.
Sâu răng thường khởi đầu ở các hố và rãnh. Các tổn thương nhỏ khó có
thể phát hiện bằng mắt thường; nhưng các tổn thương lớn thường có biểu hiện

là lỗ thủng ở bề mặt nhai. Vị trí sâu răng thường gặp là ở mặt bên (mặt tiếp
xúc giữa các răng) và rất nhiều trường hợp chỉ có thể phát hiện khi chụp Xquang răng mà thôi. Các tổn thương do sâu răng biểu hiện ở bề mặt trơn láng
(mặt ngoài và mặt trong) thường chỉ gặp ở trẻ bị sâu nhiều răng nghiêm trọng.
Sâu răng sớm ở trẻ (Early Childhood Caries – ECC) rất phổ biến. Bệnh
có thể xuất hiện sớm trước 12 tháng tuổi. Các đối tượng có nguy cơ bị ECC
bao gồm những trẻ thường xuyên ăn chất đường (thường xuyên dùng các thức
uống, thức ăn có đường, bánh snack), trẻ có nhiều người thân như cha mẹ hay
các anh chị em ruột bị sâu răng, hay trẻ có dị dạng ở răng.
Nhiều cha mẹ nghĩ sâu răng sữa không quan trọng vì sớm muộn gì những
răng này cũng bị mất đi và được thay thế bằng răng vĩnh viễn. Điều này không
hoàn toàn đúng:
- Nếu răng sữa bị sâu và rụng quá sớm thì sau này, răng trưởng thành của
bé có thể bị mọc lệch lạc, gây xô hoặc nghiêng hàm.


11

- Ngoài ra, răng sữa cũng có tác dụng nhai thức ăn như răng vĩnh viễn. Nếu
răng sữa bị rụng sớm, khả năng nghiền nát thức ăn bị hạn chế khiến bé tiêu hóa kém.
- Răng sữa cũng đóng vai trò trong việc giao tiếp, giúp bé phát ẩm chuẩn
trong quá trình học nói.
 Phòng ngừa sâu răng sữa ở trẻ em:
Biện pháp phòng chống sâu răng hiệu quả nhất là cho fluor tối ưu vào
nước sinh hoạt hàng ngày với nồng độ 1ppm. Trẻ em sống ở vùng mà nguồn
nước thiếu fluor có nguy cơ sâu răng cao hơn nên cần được dùng bổ trợ chất
fluor. Để tránh trường hợp dùng quá liều fluor cần thiết, bác sĩ không kê đơn
thuốc fluor với số lượng quá 120mg. Biểu hiện cấp tính của quá liều fluor (cao
hơn 5mg/kg) cần được xử trí khẩn cấp. Dùng các dạng fluor bôi ngoài (do bác sĩ
chỉ định) có lợi cho các bệnh nhi có nguy cơ bị sâu răng.
 Vệ sinh răng miệng:

Đánh răng hàng ngày, nhất là với kem đánh răng có fluor, sẽ giúp ngăn
ngừa sâu răng. Đa số trẻ em dưới 8 tuổi không chịu đánh răng đúng theo quy
định. Do vậy, các bậc cha mẹ cần giám sát trẻ làm vệ sinh răng miệng thường
xuyên và đúng cách để tránh sâu răng.
 Chế độ ăn uống:
Giảm ăn các thực phẩm chứa các chất có đường sẽ đem lại nhiều hiệu
quả trong việc phòng ngừa sâu răng. Vì vậy, không nên cho trẻ dùng các thức
uống ngọt, hay dùng chất ngọt vào ban đêm. Đối với trẻ có nguy cơ bị sâu
răng cao cần tránh dùng các loại bánh snack vào giữa các bữa ăn.
 Trám bít hố rãnh:
Trám bít hố rãnh răng bằng resin được ghi nhận là có hiệu quả trong
việc phòng ngừa sâu răng ở các răng cối sữa và răng cối vĩnh viễn. Trám bít
hố rãnh có hiệu quả nhất khi các răng vừa mọc (trẻ 1 - 2 tuổi) và cho các
trường hợp răng cối có khe sâu hay rãnh sâu.


12

 Tập cho trẻ đánh răng:
Cha mẹ có thể giúp trẻ tập đánh răng vào độ tuổi này bằng những cách
đơn giản như sau:
- Chuẩn bị tâm lý cho con bằng cách, dẫn chúng đi siêu thị tự mình chọn
những chiếc bàn chải trẻ em xinh xinh, đày màu sắc.
- Làm mẫu và giải thích cho trẻ, đánh răng không hề gây đau mà trái lại,
điều này sẽ giúp răng sạch sẽ và thơm tho hơn, để cười xinh mỗi khi soi
gương cùng mẹ.
- Mua những loại kem đánh răng có mùi vị để trẻ không có cảm giác cay
và sợ thuốc đánh răng.
- Cho trẻ xem những băng hình có cảnh các bạn cùng trang lứa khác
đang đánh răng để trẻ bắt chước.

- Chọn mua ở các nhà sách hoặc các trung tâm nha khoa những bức hình
về răng miệng để giúp trẻ tìm hiểu thế nào là răng sâu, răng hỏng, thế nào quy
trình đánh răng đúng cách?
Tâm lý của trẻ là rất thích... đua đòi. Vì thế, trong những ngày đầu tiên,
hãy tập trung vài bé cùng một lúc để thực hành những bài học về răng miệng.
Chúng sẽ bắt chước và ganh đua với nhau trong quá trình học tập. Và từ đó,
chúng sẽ bớt đi cảm giác nhàm chán, sợ sệt. Cha mẹ phải bình tĩnh chứ không
nên quát tháo, la mắng trẻ. Điều này chỉ làm chúng sợ thêm mà thôi. Động
viên con hoặc bày ra những trò chơi trong quá tŕnh cùng trẻ tập đánh răng sẽ
giúp trẻ cảm thấy hứng thú mỗi ngày.

2.2. Bệnh viêm lợi:


13

Hình 1.3: Viêm lợi
Bệnh quanh răng là bệnh rất phổ biến, tỷ lệ mắc rất cao, ở trẻ em chủ
yếu là bệnh viêm lợi. Bệnh quanh răng do nhiều nguyên nhân như thiếu sinh
tố, sang chấn khớp cắn, vi khuẩn và VSRM kém tạo nên cặn bám là nguyên
nhân chính. Mảng bám răng hình thành trên bề mặt răng ngay sau khi ăn, phát
triển khi môi trường trong miệng giàu chất dinh dưỡng, nhất là đường
Saccharose. Lúc đầu, mảng bám là vô khuẩn, sau vi khuẩn xâm nhập và phát
triển thành mảng bám vi khuẩn (MBVK) sau 2 giờ. Ở giai đoạn này, các mảng
bám dễ dàng được làm sạch bằng cách chải răng. Thành phần trong mảng
bám răng: vi khuẩn chiếm chủ yếu đến 70% trọng lượng, còn 30% là chất tựa
hữu cơ:
- Hai ngày đầu chủ yếu là vi khuẩn Gram dương.
- Hai ngày tiếp theo vi khuẩn hình sợi và hình thoi phát triển.
- Ngày thứ tư đến ngày thứ chín có xoắn khuẩn.

Chiều dày của MBVK thay đổi từ 54-2000µm. Theo Theilade và Loe
(1966) thành phần, số lượng của các loại vi khuẩn thay đổi theo thời gian, vị
trí phát triển của các MBVK. Theo Ritz (1969), khi MBVK dày lên và có
nhiều lớp thì vi khuẩn yếm khí và trực khuẩn Gram âm tăng lên, các loại này
khởi điểm cho tổ chức viêm và thấy rõ trên lâm sàng.
Các vi khuẩn xâm nhập vùng quanh răng gây viêm, phá hủy tổ chức.


14

- Tác động trực tiếp: do hoạt động của vi khuẩn sản sinh ra các men, nội
độc tố, các sản phẩm đào thải...
- Tác động gián tiếp: do vai trò kháng nguyên của chúng.
Viêm lợi xuất hiện rất sớm khi cặn bám hình thành được 7 ngày.
 Viêm lợi ở trẻ em:
Trẻ bị viêm lợi sẽ có những triệu chứng như lợi sưng đỏ, đau, chảy
máu, hôi miệng... Có 3 thể viêm thường gặp:
- Viêm lợi do mọc răng.
- Viêm lợi hoại tử lở loét cấp tính: Là một nhiễm trùng cấp tính, thường
do stress hay giảm sức đề kháng. Bệnh nhân đau liên tục và dữ dội, hôi
miệng, có các sang thương trên lợi. Nếu không được điều trị kịp thời, viêm và
hoại tử sẽ lan rộng đến mào xương ổ, dẫn đến bệnh nha chu, hoại tử, làm
xương tiêu nhanh và tụt lợi.
- Viêm lợi do vệ sinh răng miệng kém.
2.3. Tình hình mắc bệnh sâu răng - viêm lợi ở trẻ em:
2.3.1. Trên thế giới:
Tại hội nghị Alma Ata (1978), WHO đã công bố có hơn 90% dân số thế
giới mắc bệnh sâu răng và đã phát động chương trình hành động vì sức khỏe
răng miệng cho con người đến năm 2000. Đồng thời có chương trình giúp đỡ
cho tất cả các nước trên thế giới triển khai chương trình này. Qua hai thập kỷ,

chương trình này đã phát huy được hiệu quả to lớn ở nhiều quốc gia trong đó
có Việt Nam.
Ở các nước đang phát triển: ở thời điểm những năm của thập kỷ 60,
tình hình sâu răng ở mức thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Chỉ số
SMT tuổi 12 ở thời kỳ này nói chung từ 1,3-3,0; thậm chí một số nước dưới
1,0 như Thái Lan, Uganda, Zaire. Tới thập kỷ 1970 và 1980 thì chỉ số này lại
tăng lên ở mức 3,0-5,0 và một số nước còn cao hơn như Chile 6,3; French


15

Polynesia 10,7 [9]. Nhìn chung, tình trạng sâu răng của các nước đang phát
triển có xu hướng tăng.
Trước thập niên 60 của thế kỷ XX, sâu răng ở các nước phát triển rất
cao. Song từ thập kỷ 70- 80 của thế kỷ XX nhờ áp dụng những biện pháp
phòng chống sâu răng, tình hình sâu răng đã giảm xuống cho đến nay. SMT
ở trẻ 12 tuổi (thập kỷ 70 thế kỷ XX trở về trước được công bố như sau:
[44], [50].
Bảng 1.1 Chỉ số SMT một số nước trên thế giới
Tên nước
Australia
Canada
Phần Lan
New Zealand
Nhật bản
Na Uy
Thụy Điển
Thụy Sĩ
Mỹ


Năm
1956
1958
1975
1973
1975
1940
1937
1961
1946

SMT
9,3
7,4
7,5
10,7
5,9
12,0
7,8
9,0
7,5

Năm
1982
1979
1981
1982
1979
1979
1979

1980
1980

SMT
2,1
2,9
4,0
2,0
2,0
4,5
3,4
1,7
2,0

Trong khi đó ở các nước đang phát triển ở thập kỷ 60 của thế kỷ XX trở
về trước sâu răng rất thấp. Sau thập kỷ 60 của thế kỷ XX sâu răng có khuynh
hướng tăng lên.


16

Bảng 1.2. SMT ở trẻ 12 tuổi ở một số nước đang phát triển [43]:
Tên nước
Năm
SMT
Năm
SMT
Chi Lê
1960
0,28

1978
6,3
I Ran
1974
2,4
1976
4,9
Mexico
1972
2,7
19765,3
Maroc
1970
2,6
1980
4,5
Thái Lan
1960
0,4
1977
2,7
Zaire
1971
0,1
1982
2,3
Theo thông báo của WHO năm 1994 và 1997 hầu hết các nước trong khu
vực có trên 90% dân số bị sâu răng, chỉ số SMT ở một số nước ở mức cao [2].
Bảng 1.3. SMT tuổi 12 ở một số nước khu vực Đông Nam Á, Thái
Bình Dương năm 1994 và 2000- 2003 [50]

Tên nước
Trung Quốc
Lào
Triều Tiên
Brunei
Campuchia
Philippin
Việt Nam
Đài Loan
Ấn Độ
Myanma
Singapour
Thai Lan

Năm 1994
0,7
2,4
3,0
4,9
4,9
5,5
1,8

Năm 2000- 2003
1,03
4,4
3,1
1,8
4,8
4,6

1,9
3,9
3,8
0,8
1,0
3,9

2.3.2. Ở Việt Nam:

 Bệnh sâu răng:
Sâu răng là một bệnh rất phổ biến ở các nước trên thế giới. Bệnh mắc
từ rất sớm và ở mọi lứa tuổi; ở trẻ em ngay sau khi răng mọc cũng như ở
người già. Tổ chức cứng của răng bị phá huỷ tạo thành lỗ sâu trên răng, có sâu
răng sữa và sâu răng vĩnh viễn.Điều tra sức khỏe răng miệng trên toàn quốc


17

năm 2000 của Trần Văn Trường, tỷ lệ sâu răng sữa ở trẻ em 6 tuổi là 83,7%,
tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở trẻ 12 tuổi là 56,6% [5].
Theo điều tra sức khoẻ răng miệng toàn quốc năm 2001, tỷ lệ mắc bệnh
răng miệng trong cộng đồng là 90%, tỷ lệ mắc bệnh răng miệng ở học sinh cao,
đặc biệt cao nhất ở lứa tuổi 6 tuổi 83,7% [3], trong đó phổ biến là các bệnh về
sâu răng và viêm quanh răng.
Điều tra về tình hình sức khỏe răng miệng toàn quốc mới nhất của Viện
Răng Hàm Mặt cho thấy tình trạng sâu răng sữa trẻ em VN ở mức độ nghiêm
trọng cả về tỉ lệ mắc và mức độ ở từng người. Có gần 85% trẻ ở lứa tuổi từ 68 bị sâu răng sữa. Vừa qua, tại hội thảo về chăm sóc răng miệng do Bệnh viện
Răng Hàm Mặt TPHCM tổ chức, thạc sĩ – bác sĩ Nguyễn Đức Minh cho biết
hiện nay, tỉ lệ sâu răng vĩnh viễn ở nước ta khá cao, khảo sát đã chia tình trạng
sâu răng theo từng độ tuổi. Cụ thể là lứa tuổi từ 6 - 8 có hơn 25% trẻ bị sâu

răng, nhóm tuổi từ 9 - 11 có đến gần 55% trẻ bị sâu răng và mức độ sâu răng
cũng nhiều hơn so với nhóm trẻ 6 - 8 tuổi. Tình trạng sâu răng tăng dần theo
lứa tuổi, cả về số người mắc lẫn mức độ nặng. Phân bổ theo vùng địa lý thì
vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm tỉ lệ cao nhất: 93,7%. Đối với người
lớn, tỉ lệ có bệnh quanh răng rất cao, từ 93,3% đến 98,3%.
Điều tra cũng ghi nhận có hơn 60% trẻ em và trên 50% người lớn
không bao giờ được khám răng miệng, tất cả trẻ em bị sâu răng sữa tìm đến
phòng khám đều đã ở tình trạng nặng: đau nhức, viêm mủ và lây lan sang
răng bên cạnh. Đó là do khi trẻ bị sâu răng sữa, đa số cha mẹ không đưa trẻ đi
khám vì tưởng rằng bệnh lý này sẽ không ảnh hưởng đến răng vĩnh viễn sau
này. Trên thực tế, sâu răng sữa nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn tới sâu
răng vĩnh viễn, răng mọc lệch, răng không chắc khỏe...
 Bệnh viêm lợi:
Theo nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài, tỷ lệ trẻ em bị viêm lợi


18

ở các nước trên thế giới đều cao, có nơi tỷ lệ này là trên 90%. Ngoài ra, kết
quả điều tra của Trần Văn Trường và CS về tình trạng viêm lợi ở Việt Nam
qua điều tra sức khoẻ răng miệng toàn quốc lần 2, năm 2002 cho thấy tỷ lệ trẻ
có chảy máu lợi ở các độ tuổi từ 6-8 tuổi, 9-11 tuổi lần lượt là 42,7%, 69,2%
tỷ lệ trẻ em có cao răng ở các độ tuổi này lần lượt là 25,5%, 56,8% Theo báo
Tiền Phong ngày 20/3/2011: 80% trẻ em Việt Nam bị viêm lợi.
2.3.3. Các yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng – viêm lợi ở trẻ em:
 Các yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng:
- Nhóm yếu tố nguy cơ về tập quán ăn uống.
- Nhóm yếu tố nguy cơ về chăm sóc, vệ sinh răng miệng.
- Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân của trẻ, của cha mẹ trẻ.
Các tác giả thường mô tả các yếu tố nguy cơ, không phân tích sâu về

các mối liên quan giữa chúng và bệnh sâu răng ở trẻ em [42].
2.3.3.1. Nhóm yếu tố nguy cơ về tập quán ăn uống:
Nhiều tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu các tập quán ăn uống
liên quan đến bệnh sâu răng ở trẻ em như tần suất sử dụng các đồ ăn thức
uống có nhiều đường, ăn thêm bữa phụ buổi tối, đồ ăn thức uống nóng lạnh,
đồ ăn cứng, tiền sử bú bình, khẩu phần ăn:
- Al Ghanin đã phân tích đa biến về các mối liên quan giữa chế độ ăn có
nhiều sữa hộp, tần suất sử dụng đồ ăn uống ngọt, trẻ có tiền sử bú bình với
các bệnh sâu răng và sâu - mất - trám răng, kết luận rằng những yếu tố này
liên quan chặt chẽ với các bệnh sâu răng [20]. Một nghiên cứu tại thành phố
Kerela, Ấn Độ năm 2005 do David và CS thực hiện cho biết trẻ ăn nhiều đồ
ngọt có nguy cơ mắc bệnh sâu răng cao gấp 1,4 lần những trẻ ăn ít đồ ngọt, sự
khác biệt này mang ý nghĩa thống kê [22]. Okeigbemen nghiên cứu ở Nigeria
năm 2004 cho thấy tỷ lệ học sinh có ăn phụ buổi tối là rất cao 87,5% nhưng tỷ


19

lệ sâu răng ở đây lại thấp. Điều này có thể là do những trẻ này sử dụng bàn
chải răng cao (95,8%) [23].
- Petersen và CS nghiên cứu ở Thái Lan (2001) công bố tỷ lệ sử dụng đồ
uống ngọt hàng ngày rất cao như sữa đường (34%), chè đường (26%), nước
ngọt (24%) liên quan đến tỷ lệ sâu răng rất cao 70-96,3% tùy độ tuổi và chỉ số
DMFT là 8,1 răng/học sinh. Đồng thời tác giả cũng nêu lên tập quán sử dụng
đồ ngọt nhiều ở những người theo đạo Hồi và đặc biệt là ở nữ học sinh [24].
2.3.3.2. Nhóm yếu tố nguy cơ về chăm sóc vệ sinh răng miệng:
Một số tác giả nước ngoài và trong nước đã nghiên cứu về các yếu tố
chăm sóc răng miệng như hiểu biết về chăm sóc răng, khám định kỳ răng, thói
quen chải răng, tuổi sử dụng bàn chải, thuốc, vật liệu chải răng:
- Rao và CS cho biết tại Ấn Độ có đến 59,2-62% học sinh có chải răng ít

nhất 1 lần/ngày nhưng chỉ có 5,7-13,6% sử dụng thuốc đánh răng; 3,1% dùng
tay làm sạch răng và 21,1% dùng tro và than để đánh răng hàng ngày [47].
- Okeigbemen và CS thông báo 81,4% học sinh chưa bao giờ được khám
răng tại các cơ sở y tế, 95,8% có sử dụng bàn chải răng [45].
- Petersen và CS cũng thông báo tỷ lệ học sinh chải răng 1 lần/ngày là
88% [36].
- David và CS cho rằng trẻ không sử dụng bàn chải răng thì có nguy cơ
sâu răng cao gấp 1,9 lần những trẻ khác [43].
2.3.3.3. Nhóm yếu tố nguy cơ về các đặc trưng cá nhân của trẻ em, của cha
mẹ học sinh:
Các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy nam học sinh mắc bệnh
sâu răng cao hơn nữ, tuy nhiên cũng có một số tác giả lại không có sự khác
biệt về sâu răng giữa nam và nữ [48]. Có nghiên cứu nhấn mạnh đến sự khác
biệt hay không khác biệt giữa nam và nữ còn phụ thuộc vào một số yếu tố
khác như lứa tuổi, địa dư, loại trường công/tư và hành vi chăm sóc sức khỏe


20

răng miệng.
- Rao và CS cho rằng học sinh nội thành có tỷ lệ sâu răng cao hơn ở
ngoại thành (22,8% so với 15%), học sinh dân tộc ít người có chất lượng răng
tốt hơn học sinh không phải là dân tộc ít người [45].
- Okeigbemen và CS cho biết học sinh thành thị có chỉ số SMT cao hơn
học sinh nông thôn (0,72 so với 0,53) và học sinh ở trường tư thục có chỉ số
SMT cao hơn học sinh ở trường công lập (0,75 so với 0,55) nhưng chỉ số
SMT ở nữ lại cao hơn học sinh nam (0,7 so với 0,59) [45].
- David và CS thông báo trẻ sống ở thành phố có nguy cơ sâu răng cao
hơn 1,5 lần trẻ ở nông thôn, trẻ em nghèo cũng có nguy cơ sâu răng 1,7 lần so
với trẻ em ở các gia đình giầu [43].

- Ciuffolo và CS cho rằng tỷ lệ sâu răng ở nam học sinh cao hơn ở nữ
học sinh [43].
 Các yếu tố liên quan đến bệnh viêm lợi:
Mọi người đều có thể bị viêm lợi, và yếu tố góp phần phổ biến nhất là
thiếu chú ý đến vệ sinh răng miệng đúng cách. Nhưng các yếu tố khác cũng
có thể làm tăng nguy cơ. Nguyên nhân chủ yếu gây nên viêm lợi trên chính là
các mảng bám trên răng.
- Không quan tâm tới vệ sinh răng miệng: Khi các mảng bám không
được thường xuyên làm sạch, vi khuẩn sẽ tấn công đến tận chân răng và sản
sinh tại đó các enzym có khả năng phá huỷ sự liên kết của các biểu mô (nối
lợi và răng) và gây ra viêm lợi.
- Chế độ dinh dưỡng mất cân bằng: thuốc lá, rượu, đồ ăn ngọt, đồ ăn quá
nóng hoặc quá lạnh… sẽ gây nên những mảng bám trên răng, từ đó tạo thuận
lợi cho bệnh viêm lợi tiến triển.
- Thường xuyên ăn thức ăn quá mềm làm cho hàm răng của mình lười
hoạt động và làm cho cấu trúc bảo vệ răng yếu đi.


21

- Tụt lợi: khi lợi và răng không khít, các thức ăn và các mảng bám của
răng sẽ nằm lại ở đây.
- Giảm tiết nước bọt: nguyên nhân là do tuổi tác, dùng các loại thuốc
(chống trầm cảm, lợi niệu, histamin…) hoặc các bệnh làm giảm việc tăng tiết
nước bọt, gây khô miệng, dẫn đến không loại bỏ được các mảng bám trên
răng. Di truyền: Vi khuẩn gây viêm lợi có hại cho lợi của một số người này
hơn một số người khác. Những người mẫn cảm với bệnh thường có cơ địa di
truyền bị bệnh lợi.
- Thuốc: Một số thuốc làm giảm tiết nước bọt, gây khô miệng. Không có
tác dụng làm sạch của nước bọt, mảng bám răng và cao răng có thể tích tụ dễ

dàng hơn. Sự tích tụ này cũng làm tăng nguy cơ sâu răng. Hàng trăm loại
thuốc chống trầm cảm và thuốc cảm lạnh có kê đơn và không kê đơn có chứa
những thành phần làm giảm tiết nước bọt. Uống rượu cũng làm giảm tiết nước
bọt.
- Tiểu đường: Người bị tiểu đường không kiểm soát được hoặc kiểm soát
kém dễ bị bệnh lợi hơn. Tiểu đường làm mạch máu dầy lên, giảm khả năng
vận chuyển chất dinh dưỡng đến mô lợi và mang chất cặn bã đi. Điều này làm
cho lợi bị yếu và dễ nhiễm khuẩn.
- Giảm miễn dịch: Một số bệnh có thể làm suy yếu hệ miễn dịch, khiến
bạn dễ bị nhiễm khuẩn dẫn đến bệnh lợi.
Vệ sinh răng miệng kém dẫn đến tình trạng tích tụ chất bẩn và vi khuẩn
quanh răng nhất là ở khe lợi gây viêm lợi. Trẻ đang giai đoạn mọc răng, lợi
răng trở nên dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn bình thường nên cũng dễ bị
viêm lợi hơn. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác như tình trạng dinh
dưỡng kém, trẻ đang sốt vì mắc các bệnh lý toàn thân, đang dùng thuốc chống
động kinh (Bác sĩ Nguyễn Văn Đẫu, Trưởng khoa răng hàm mặt bệnh viện
Nhi Đồng 1).


22

Ngoài ra, trẻ nhỏ dễ bị viêm lợi là vì hệ miễn dịch chưa hoàn thiện,
răng sữa yếu là yếu tố thuận lợi cho vi khuẩn gây viêm lợi tấn công trẻ. Nếu
không điều trị sớm, răng của bé có thể lung lay, rụng và gây ra những bệnh
răng miệng nghiêm trọng như viêm răng, viêm lợi.
Tóm lại, nguyên nhân gây viêm lợi chính là các mảng bám hình thành
trên răng. Do thấy trẻ còn nhỏ, nhiều gia đình cho rằng bé chưa nhất thiết
phải vệ sinh răng miệng hàng ngày như người lớn hoặc không được vệ sinh
răng miệng đúng cách, khiến vi khuẩn khu trú trên răng lâu ngày sẽ gây tổn
hại lợi răng. Vi khuẩn tấn công làm các mô răng bị tổn thương, đóng mủ gây

viêm lợi.


23

3. Một số biện pháp dự phòng sâu răng, viêm lợi:
3.1. Dự phòng sâu răng:
- Sử dụng Fluor.
- Trám bít hỗ rãnh: áp dụng đối với các mặt nhai để ngăn ngừa sâu ở hố
răng sau khi răng vĩnh viễn mọc.
- Chế độ ăn uống hợp lý: Kiểm soát các thức ăn và đồ uống có đường .
- Hướng dẫn vệ sinh răng miệng.
Từ năm 1979 đến năm 1994, WHO đã nhiều lần đưa ra các mục tiêu và
bổ sung các mục tiêu toàn cầu về dự phòng sâu răng.
Bảng 1.4. Mục tiêu toàn cầu dự phòng sâu răng trẻ em cho năm 2000
Lứa tuổi

Mục tiêu

5-6

90% trẻ em không bị sâu răng

12

Răng sâu mất trám <1

18

100% giữ được toàn bộ răng


Ở Việt Nam, mục tiêu của chương trình nha học đường là đạt được
mục tiêu về dự phòng sâu răng của WHO và đảm bảo ít nhất 80% học sinh
tiểu học và trung học cơ sở được CSRM ổn định, dài lâu qua chương trình
nha học đường.


24

3.2. Dự phòng viêm lợi:
 Các biện pháp can thiệp :
- Chải răng đúng cách.
- Làm sạch kẽ răng bằng chỉ tơ nha khoa, bàn chải kẽ…
- Phương pháp phun tưới.
- Kiểm soát cặn bám răng bằng phương pháp hoá học: Là biện pháp dùng
nước súc miệng có tác dụng lên cặn bám răng
- Khắc phục sửa chữa các sai sót: Bao gồm sửa chữa lại các răng hàn
hoặc phục hình sai quy cách, tạo điểm tiếp giáp giữa các răng …
- Đảm bảo chế độ ăn uống.
- Tuyên truyền phòng bệnh răng miệng.
 Mục tiêu can thiệp dự phòng bệnh quanh răng:
Tổ chức Y tế thế giới đã đặt ra mục tiêu cho năm 2000: 90% số người ở
lứa tuổi 18 có sức khoẻ lợi ở mức chấp nhận được, tức là mỗi người có ít nhất
ba vùng lục phân lành mạnh (CPITN 0).
Ở Việt Nam, mục tiêu từ năm 2000 đến năm 2010 là giảm tỷ lệ trẻ em
viêm lợi xuống 50% so với năm 1990.
4. Chương trình nha học đường:
Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, các nước phát triển đã thành
công trong việc giảm tỷ lệ sâu răng nhờ vào các biện pháp phòng bệnh sâu
răng hữu hiệu, đó là việc sử dụng fluor trong cộng đồng, đặc biệt là trong

trường học. Xây dựng chương trình phòng chống sâu răng, viêm lợi hiệu quả
bằng chăm sóc răng miệng trẻ em trong nhà trường là giải pháp tốt nhất. Đây
chính là cách thức mà Việt Nam và các nước đang phát triển đang triển khai
thực hiện.
Ở nước ta, chương trình nha học đường đã được tiến hành từ đầu những
năm 1980. Đến nay đã được thực hiện ở 64 tỉnh thành với 3 nội dung can thiệp:


25

- Nội dung 1: Giáo dục nha khoa: Hướng dẫn học sinh phương pháp chải
răng và các biện pháp khác làm sạch răng, giữ gìn VSRM. Khắc sâu thói quen
chải răng hàng ngày và kỹ năng chải răng đúng cho trẻ em.
- Nội dung 2: Cho học sinh súc miệng nước có fluor 0,2% tại trường học
mỗi tuần một lần.
- Nội dung 3: Dự phòng lâm sàng: bao gồm khám và VSRM răng miệng
định kỳ, trám bít hố rãnh, lấy cao răng, điều trị viêm lợi, hàn răng sâu sớm,
nhổ răng sữa thay...
Tuy nhiên, cần tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương mà triển khai
các nội dung ở các mức độ khác nhau cho phự hợp và đạt hiệu quả cao nhất.
 Nha học đường tại các trường tiểu học của Hòa Bình:
Hòa Bình là một tỉnh miền núi, kinh tế và xã hội còn kém phát triển so
với các vùng miền khác trên cả nước. Toàn tỉnh có 220 trường tiểu học, tuy
nhiên chương trình Nha học đường chỉ được triển khai tại khá ít trường chủ
yếu là tại Thành phố Hòa Bình. Do đó, hiệu quả của chương trình đối với toàn
tỉnh chưa cao, là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ học sinh tiểu học
gặp các bệnh về răng miệng tương đối nhiều.
Đối với ngành y tế, hệ thống cán bộ làm công tác chăm sóc sức khoẻ
răng miệng vừa thiếu vừa yếu (cán bộ y tế nha học đường chỉ có tại các
trường ở thành phố Hoà Bình và bằng cấp chỉ là y sỹ, y tá hoặc điều dưỡng đa

khoa mà chưa có chứng chỉ về chuyên khoa RHM). Trang thiết bị RHM tại
các cơ sở khám chữa bẹnh không đồng bộ, ngân sách cho chương trình Nha
Học Đường rất hạn chế, công tác tuyên truyền giáo dục kiến thức VSRM chưa
được chú trọng đúng mức, trình độ dân trí và điều kiện sống của nhân dân còn
thấp, nhận thức về công tác chăm sóc răng miệng của đồng bào các dân tộc
Tỉnh Hoà Bình chưa được đầy đủ…Điều đó chứng tỏ cả 4 nội dung của


×