Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Bài tập nhóm 1 hình sự 2 8 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.99 KB, 8 trang )

Bài 5
A và B là vợ chồng. Dù đã có chồng nhưng B vẫn lén lút sống chung với C
(ng yêu cũ của B) như vợ chồng. Biết chuyện, hai bên gia đình đã khuyên B
chấm dứt quan hệ với C nhưng B vẫn lén lút quan hệ với C nhiều lần nữa nên A
rất tức giận. Một hôm B đi hẹn hò với C. A không tin nên chạy ra đường cách nhà
200 mét thì thấy H nhưng mà A lại tưởng là C. Quá tức giận kẻ đã quyến rũ vợ
mình, A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm phang mạnh
mấy nhát vào đầu H khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi. Giám định
Pháp y kết luận: nạn nhân chết do bị đánh vỡ đầu. Do không biết mặt C nên A đã
đánh nhầm người.

BÀI LÀM
1.Định tội cho hành vi của A trong vụ án trên?
Căn cứ vào các tình tiết của đề bài, ta có thể khẳng định A đã phạm phải
tội giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS. Hành vi của A đã mang đầy
đủ các dấu hiệu pháp lý của tội danh trên:
Về mặt khách thể: LÀ quan hệ nhân thân cụ thể là quyền sống, quyền
được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Trong tình huống này, hành vi của A đã xâm
phạm trực tiếp đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của H
được pháp luật bảo vệ.
trong tình huống này, đối tượng tác động của tội phạm chính là H.
Về mặt khách quan: Trong tình huống đề bài có tình tiết như sau: “A nhặt
một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm phang mạnh mấy nhát vào
đầu người ngồi trên xe máy (mà A nghĩ là C) khi thấy nạn nhân gục ngã A mới
dừng tay bỏ đi”, theo đó hành vi phang mạnh mấy nhát vào đầu H chính là hành
vi bằng hành động nhằm làm cho H chấm dứt cuộc sống.
Tiếp theo, Xét trên thực tế của tình huống, ta thấy hậu quả xảy ra đó chính
là cái chết của H: “Giám định Pháp y kết luận: nạn nhân chết do bị đánh vỡ đầu”.
Cuối cùng là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả
Theo đề bài: “Giám định Pháp y kết luận: nạn nhân chết do bị đánh vỡ đầu”.
1




Theo đó, nguyên nhân dẫn đến cái chết của H là do chính hành vi dùng khúc gỗ
phang mạnh mấy nhát vào đầu H gây nên chứ không phải bất kì nguyên nhân nào
khác.
Do vậy, hành vi của A hoàn toàn thỏa mãn dấu hiệu về mặt khách quan
của tội giết người.
Về mặt chủ quan: Trong trường hợp này, lỗi của A được xác định là lỗi cố
ý trực tiếp. Về lí trí, A nhận thức rõ dùng khúc gỗ phang mạnh mấy nhát vào đầu
H có thể khiến H chết. Về ý chí, thì từ hành vi A dùng khúc gỗ phang mạnh mấy
nhát vào đầu H khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi thì có thể thấy A
mong muốn hậu quả chết ng phát sinh. Do đó, có thể khẳng định lại một lần nữa,
lỗi của A chính là lỗi cố ý trực tiếp, điều này hoàn toàn thỏa mãn dấu hiệu về mặt
chủ quan của tội giết người.
Về mặt chủ thể: Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Trong trường hợp của A, A là người đã kết
hôn (đã có vợ là B) cho nên đương nhiên A đã đạt độ tuổi luật định và có đầy đủ
năng lực TNHS. Như vậy, dấu hiệu về mặt chủ thể của tội giết người A cũng thỏa
mãn.
Trong trường hợp của đề bài thì hành vi giết người của A không thuộc các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 93 BLHS, cho nên có thể khẳng định rằng,
với hành vi của mình, A đã phạm phải tội giết người được quy định tại khoản 2
Điều 93 BLHS.
Trong trường hợp này ta dễ gây hiểu lầm rằng A đã phạm phải tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Điều 95 BLHS.
Giết người trong trạng thái tinh thần kích động mạnh được hiểu là hành vi giết
người trong tình trạng không tự chủ, không kiềm chế được hành vi phạm tội của
mình do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với chính người
phạm tội hoặc đối với người thân của người phạm tội. Hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng nói ở đây có thể CTTP hoặc cũng có thể không hoặc chưa đến mức


2


CTTP. Nhưng dù ở trường hợp nào thì hành vi đó cũng phải có tính chất là trái
pháp luật nghiêm trọng.
Qua tình tiết của đề bài, ta có thể nhận thấy mặc dù A có sự đè nén về tâm
lý, có sự tức giận lâu dài, tuy nhiên, hvi sống chung như vợ chồng của C với B
không phải là hành vi có tính chất trái pháp luật nghiêm trọng. Hơn nữa, A chưa
xác nhận rõ ràng cụ thể đối tượng là ai, như thế nào, mà đã có hành động như vậy
thì không thể là do tinh thần bị kích động mạnh mà chỉ là phản ứng thái quá của
A, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là dẫn đến cái chết của H. Do đó, việc xác
định tội danh đối với A là tội giết người được quy định tại khoản 2 Điều 93
BLHS là hoàn toàn hợp lý.
2.Giả thiết rằng khi thấy H (mà A tưởng là C) A phang bừa vào người H.
Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ thương tật là 45 %) thì tội danh của A là
gì? Tại sao? Nếu thực tế H bị chết thì tội danh của A là gì? Tại sao?
2.1.Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ thương tật là 45 %) thì tội danh
của A là gì? Tại sao?
Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ thương tật là 45%) thì tội danh của
A sẽ là tội cố ý gây thương tích quy định tại khoản 3 Điều 104 BLHS. Hành vi
của A mang đầy đủ các dấu hiệu pháp lí của tội danh này.
Về mặt khách quan: Trước hết hành vi khách quan của tội này là những
hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Cụ
thể, A dùng khúc gỗ nhặt được bên lề đường phang bừa vào người H. Hành vi
này hoàn toàn có khả năng gây ra thương tích và làm tổn hại cho sức của H.
Tiếp theo, CTTP tội này đòi hỏi dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc.
Hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân từ 11% trở
lên là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này hoặc dưới tỷ lệ đó nhưng thuộc một
trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS.

Trong giả thiết được nêu, hành vi của A đã gây ra thương tích cho H với tỉ lệ
thương tật là 45%.

3


Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn
thương khác cũng là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Hành vi của A chứa đựng khả
năng thực tế gây ra thương tích cho H. Hành vi dùng vật thể cứng là khúc gỗ như
mô tả phang vào người của H mà A thực hiện là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
thương tích cho H, chứ không phải bất kì hành vi nào khác gây nên.
Thêm nữa, việc xác định công cụ và phương tiện phạm tội cũng rất quan
trọng trong việc định tội danh và khung hình phạt đối với tội này. Trong trường
hợp này, A đã dùng khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm để thực hiện
tội phạm, và việc sử dụng khúc gỗ này được coi là dùng hung khí nguy hiểm phù
hợp với điểm a khoản 1 Điều 104.
"Dùng hung khí nguy hiểm" quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 BLHS
Như vậy, hành vi của A hoàn toàn thỏa mãn các dấu hiệu về mặt khách
quan của tội cố ý gây thương tích.
Về mặt chủ quan: Lỗi của A là lỗi cố ý gián tiếp, Ta có thể thấy, A nhận rõ
hành vi phang bừa của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể thấy được hậu quả
gây ra cho H là nhẹ thì gây thương tích, nặng thì có thể làm nạn nhân tử vong,
hành vi của A là nhằm một mục đích khác. Đó là thỏa mãn cơn tức vì lòng gen
tuông đồng thời cũng là để dằn mặt kẻ quyến rũ vợ mình. Chính để đạt được mục
đích này mà A đã chấp nhận hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra. A tuy không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình mà A đã thấy trước. Việc không mong muốn hậu quả xảy ra ở đây được
thể hiện qua chi tiết A đã phang bừa vào người H (mà A tưởng là C). Điều này
thỏa mãn dấu hiệu về mặt chủ quan của tội này về lỗi là lỗi cố ý.
Về mặt chủ thể: Chủ thể của tội này có thể là bất kì người nào có năng lực

TNHS và đạt độ tuổi luật định. Theo đó, thì dấu hiệu này A cũng thỏa mãn như
đã phân tích ở câu 1.
Do vậy, dựa vào phân tích về các dấu hiệu pháp lý trên đây, tất cả đều
thỏa mãn CTTP tội cố ý gây thương tích. Bên cạnh đó, tỉ lệ thương tích A gây ra
cho H là 45% và việc sử dụng khúc gỗ mà A nhặt được như mô tả được coi là
4


dùng hung khí nguy hiểm. Do đó, nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ thương
tật là 45%) thì tội danh của A là tội cố ý gây thương tích được quy định tại khoản
3 Điều 104 BLHS.
2.2.Nếu thực tế H bị chết thì tội danh của A là gì? Tại sao?
Nếu thực tế H bị chết thì tội danh của A sẽ là tội giết người quy định tại
khoản 2 Điều 93 BLHS. Hành vi của A mang đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của tội
danh này.
Trước hết là hành vi khách quan, việc A dùng khúc gỗ nhặt được như mô
tả phang vào người H, hậu quả là H đã chết. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
khách quan và hậu quả ở đây chính là hành vi phang vào người H của A gây nên
cái chết cho H chứ không phải bất kì hành vi nào khác. Điều này thỏa mãn dấu
hiệu về mặt khách quan của tội giết người.
Tiếp theo, về mặt chủ quan, lỗi của A là lỗi cố ý gián tiếp như phân tích ở
trên. Điều này thỏa mãn dấu hiệu về mặt chủ quan của tội giết người về lỗi là lỗi
cố ý.
Các dấu hiệu khác của tội giết người A đều thỏa mãn như phân tích ở câu
1. Chính vì vậy, theo giả thiết nếu thực tế H chết thì tội danh của A được xác định
là tội giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS.
3. Có ý kiến cho rằng A phạm hai tội; Thứ nhất: Tội vô ý làm chết người
(đối với H) vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối
tượng; Thứ hai: Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A
muốn giết nhưng C đã không bị chết. Anh (chị) hãy phân tích ý kiến này là

đúng hay sai và giải thích rõ tại sao?
Với ý kiến cho rằng A phạm hai tội: thứ nhất: Tội vô ý làm chết người
(đối với H) vì H ko phải là người A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng;
thứ hai: Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn giết
nhưng C đã ko bị giết, nhóm xin đưa ra quan điểm như sau:
Khi xem xét các tình tiết của vụ việc có thể thấy, bản thân A đã có sự
nhầm lẫn về đối tượng. Đối tượng mà A muốn hướng đến là C chứ không phải H,
5


nhưng khách thể mà A xâm hại là quyền sống của mỗi cá nhân, đây là một trong
các quyền cơ bản, quan trọng được pháp luật bảo vệ, cho nên, việc A có sai lầm
về đối tượng vẫn không làm ảnh hưởng gì về TNHS được đặt ra đối với A.
Thứ nhất, cho rằng A phạm tội vô ý làm chết người (đối với H) vì H ko
phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng là sai.
Vì vô ý làm chết người được hiểu là hành vi nguy hiểm được thực hiện vì
quá tự tin hoặc vì cẩu thả đã gây hậu quả làm chết người khác mặc dù người
phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra. Đồng thời xét về mặt chủ quan thì
người phạm tội đã thực hiện tội phạm này với lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì
cẩu thả.
Trong trường hợp trên, lỗi của A đối với cái chết của H (mà A nhầm tưởng
là C) là lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân A là người có đầy đủ năng lực TNHS, có đủ
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì hơn ai hết A phải biết khi sử dụng
gậy phang vào đầu nạn nhân thì tỷ lệ gây chết là rất cao. Với khả năng nhận thức
của mình buộc A phải biết rằng “đầu” là bộ phận có vai trò quan trọng đối với cơ
thể mỗi con người, đây là nơi chứa não – là cơ quan có chức năng tiếp nhận và
xử lý thông tin và rất dễ bị tổn thương khi có tác động mạnh. Việc dùng gỗ to
bằng cổ tay, dài 60 cm phang mạnh mấy nhát vào đầu của H đã thể hiện sự quyết
liệt trong việc thực hiện hành vi của A. Khi thực hiện hành vi đó, A phải nhận
thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả gây chết người sẽ xẩy ra tuy nhiên do

mong muốn nạn nhân chết nên A vẫn thực hiện hành vi đến cùng. Trên thực tế, A
chỉ dừng tay khi thấy nạn nhân gục ngã, vậy giả như nạn nhân còn những biểu
hiện của sự sống thì chắc hẳn A đã chưa dừng tay tại đó.
Mặt khác, việc các nhà làm luật quy định các dấu hiệu phạm tội của một
tội phạm cụ thể không thể dựa vào mong muốn của người phạm tội, mà nó phải
là những hành vi sẽ xẩy ra trên thực tế. Hay khi người phạm tội có những hành vi
thỏa mãn những dấu hiệu được các nhà làm luật quy định thì buộc họ phải chịu
TNHS về tội phạm đó, tất nhiên lỗi của người phạm tội sẽ được đánh giá thông
qua chính hành vi của họ. Quay trở về vụ án, như đã phân tích A có lỗi cố ý trực
6


tiếp đối với cái chết của H, tuy cái chết của H xuất phát từ sự sai lầm về đối
tượng nhưng trên thực tế hành vi của mình A đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của tội
giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS như đã phân tích ở câu 1 và hành
vi của A đã thể hiện lỗi cố ý trực tiếp một cách rõ ràng về hậu quả chết người gây
ra đối với nạn nhân. Do đó, không thể quy kết A phạm tội vô ý đối với cái chết
của H vì H không phải là người mà A muốn giết.
Thứ hai, không thể cho rằng A giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là
người mà A muốn giết nhưng C đã không chết. Trong mối quan hệ hành vi giữa A
và C chưa có bất kì một sự xâm phạm nào xẩy ra, việc này xuất phát từ sự nhầm
lẫn về đối tượng tác động của A. Bản thân C chưa chịu bất kì một tổn hại nào từ
hành vi của A gây ra. Khi xem xét đến các giai đoạn thực hiện tội phạm, các nhà
làm luật đánh giá theo căn cứ hành vi của người phạm tội diễn ra trên thực tế tác
động đến đối tượng tác động cụ thể. Đối chiếu với tình tiết của vụ án, A đã có sự
nhầm lẫn về đối tượng tác động nên đã có hành vi xâm hại đến quyền sống của H
mà trong thâm tâm A vẫn nghĩ rằng nạn nhân đó là C. Như vậy, A thực hiện hành
vi giết H trong giai đoạn đã hoàn thành do trên thực tế hành vi của A đã thỏa mãn
đầy đủ những dấu hiệu của tội giết người (Điều 93 BLHS). Còn đối với C, người
may mắn thoát chết trong vụ án này trên thực tế không bị tác động bởi hành vi

của A, quyền sống của C không bị xâm hại nên không thể đặt ra việc xác định tội
của A theo “giết người chưa đạt (đối với C)”.
Mặt khác, nếu đối chiếu các tình tiết của vụ án trên với quy định của Điều
18 BLHS về phạm tội chưa đạt ta có thể nhận thấy nhiều điều vô lý. Điều 18 quy
định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội”, căn cứ
vào đó có ba dấu hiệu để xác định trường hợp phạm tội chưa đạt như sau:
Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Sự bắt
đầu này thể hiện ở chỗ: Người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được
mô tả trong cấu thành tội phạm. Đối chiếu với vụ án, hành vi của A đã thỏa mãn
những dấu hiệu được mô tả trong CTTP quy định tại Điều 93 tuy nhiên đối tượng
7


mà y gây án lại là H, người mà y nhầm tưởng là C. Do đó, trên thực tế C không
bị xâm hại bởi chính hành vi của A, hay những hành vi do A gây ra không có ý
nghĩa về mặt pháp lý đối với C.
Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội không thực hiện tội phạm đến cùng (về
mặt pháp lý), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn các dấu hiệu (thuộc mặt
khách quan) của CTTP. Trong trường hợp này, C chưa chết, tuy nhiên, do nhầm
lẫn đối tượng mà A chưa có hành vi gì tác động đến C nên không thể nói hành vi
của A không thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc về mặt khách quan) của CTTP.
Dấu hiệu thứ ba: Người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến
cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Đối chiếu với trường hợp
phạm tội của A, khi quá tức giận kẻ đã quyến rũ vợ mình nên A đã dùng gậy
phang vào đầu nạn nhân, và A mong muốn có hậu quả chết người xẩy ra mà nạn
nhân không ai khác là C – người có quan hệ bất chính với vợ mình. Tuy nhiên,
việc C không chết không phải là do “nguyên nhân nằm ngoài ý muốn của A” mà
nguyên nhân này xuất phát từ phía bản thân A, do A đã có sự sai lầm về đối tượng
tác động, A đã không xác minh rõ ràng.

Cho nên cả 3 dấu hiệu về giai đoạn phạm tội chưa đạt không thỏa mãn
với hành vi của A đối với C, vì vậy không thể kết luận A phạm tội giết người
chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn giết những C đã không chết.
Chính vì vậy, việc đưa ra ý kiến cho rằng A phạm hai tội; Thứ nhất: Tội
vô ý làm chết người (đối với H) vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã
có sự sai lầm về đối tượng; Thứ hai: Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới
là người mà A muốn giết nhưng C đã không bị chết, là hoàn toàn sai, không có
căn cứ pháp lý. Với quan điểm vẫn không thay đổi, như đã phân tích ở câu 1, A
đã phạm phải tội giết người quy định tại khoàn 2 Điều 93 BLHS chứ không phải
bất kì tội danh nào khác.

8



×