Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về các hình thức xử phạt VPHC và các biện pháp khắc phục hậu quả (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.03 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................1
I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VÀ CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ....................................................1
1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính.................................................................1
2. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính...........................................................1
3. Các biện pháp khắc phục hậu quả.........................................................................2
II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÍ CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC XỬ
PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH..............................................................................2
1. Cảnh cáo................................................................................................................2
2. Phạt tiền.................................................................................................................4
3. Trục xuất................................................................................................................6
4. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề..........................................6
5. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính...................7
6. Một số nhận xét của em về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính................8
III. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ CỦA CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU
QUẢ..............................................................................................................................8
1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính
gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép...........................................8
2. Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây
lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra.............................................................9
3. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm,
phương tiện................................................................................................................9
4. Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây
trồng, văn hoá phẩm độc hại......................................................................................9
5. Các biện pháp khác do Chính phủ quy định........................................................10
KẾT LUẬN................................................................................................................10
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................11

0




LỜI MỞ ĐẦU
Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là những hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội, xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Có thể thấy hiện
nay những vấn đề vi phạm hành chính về đất đai, về bảo vệ môi trường, các loại thuế . đang là
vấn đề cấp thiết, tuy chưa đến mức nguy hiểm là tội phạm nhưng nó đang diễn ra ở khắp mọi
nơi, hàng ngày, hàng giờ. Về mặt thực tiễn, do chủ quan, công tác xử lý vi phạm hành chính
còn chưa kiên quyết, thiếu nghiêm minh và chưa kịp thời dẫn đến tình trạng coi thường pháp
luật, vi phạm pháp luật ngày càng tràn lan, khó kiểm soát. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu vi
phạm hành chính về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu
quả xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực đời sống có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn,
góp phần lập lại trật tự kỷ cương, phòng, chống vi phạm, tăng cường quản lý nhà nước. Sau
đây em xin đi sâu phân tích vấn đề tuy không mới nhưng vẫn luôn mang tính cấp thiết trong xã
hội phát triển ngày nay: "Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về các hình thức
xử phạt VPHC và các biện pháp khắc phục hậu quả.” Do vấn đề nghiên cứu còn nhiều quan
điểm khác nhau, bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện khách
quan và trình độ nhận thức chủ quan có hạn, mặc dù em đã cố gắng hết sức, song, bài viết chắc
chắn không tránh khỏi những điểm hạn chế và thiếu sót. Bởi vây, em rất mong nhận được
những ý kiến góp ý, phê bình quý báu từ phía thầy cô giáo để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin
chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ CÁC
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt VPHC là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định pháp
luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng
chế hành chính khác (trong trường hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật) đối với các tổ
chức, cá nhân VPHC(1).

Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính có các đặc điểm sau đây :
- Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với các cá nhân , tổ chức vi phạm hành chính
theo quy định của pháp luật .
- Xử phạt hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật .
- Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc , trình tự , thủ tục được
quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành .
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở quyết định xử phạt vi phạm
hành chính ghi nhận ở các hình thức , biện pháp xử phạt áp dụng đối với tổ chức , cá nhân vi
phạm hành chính
2. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
Các hình thức xử phạt VPHC thể hiện sự răn đe, trừng phạt của pháp luật đối với những cá
nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước thông qua việc buộc người vi
phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần, mang tính giáo dục đối
với cá nhân, tổ chức bị xử phạt, góp phần nâng cao ý thức của công dân trong việc chấp hành
(1)

Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, trang 318, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, 2010.

1


pháp luật và các quy tắc quản lý nhà nước. Các hình thức xử phạt VPHC được quy định tại
khoản 1, 2 và 4 Điều 12 Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002, bao gồm:
+ Hình thức xử phạt chính: Cảnh cáo và phạt tiền.
+ Hình thức xử phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và tịch thu
tang vật, phương tiện được sử dụng để VPHC.
Bên cạnh đó, người nước ngoài VPHC còn có thể bị xử phạt trục xuất. Trục xuất được áp
dụng là hình thức xử phạt chính hoặc xử phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.

3. Các biện pháp khắc phục hậu quả
Các biện pháp khắc phục hậu quả không có tính chất trừng phạt người VPHC như các hình
thức xử phạt mà chỉ nhằm mục đích khắc phục những hậu quả do VPHC đã để lại trên thực tế.
Các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại khoản 3 Điều 12 Pháp lệnh xử lý
VPHC năm 2002 :
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc
buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh
do vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
d) Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá
phẩm độc hại;
đ) Các biện pháp khác do Chính phủ quy định.
II. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÍ CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH
Nhìn chung các hình thức xử phạt này là tương đối hợp lí so với tình hình thực tế tại Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số điểm bất hợp lí, bài làm của em sẽ tìm
hiểu cụ thể vấn đề này.

1. Cảnh cáo
Cảnh cáo là hình thức xử phạt chính, được quy định tại điểm a khoản 1 điều 13 Pháp lệnh xử
lí VPHC 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và 2008) như sau: “Cảnh cáo được áp
dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành
vi VPHC do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được
quyết định bằng văn bản”.
Cảnh cáo là hình thức phạt truyền thống , trong tất cả các văn bản về xử lí vi phạm hành chính
từ năm 1945 đến nay đều quy định hình thức phạt này . Nhưng trên thực tiễn , việc áp dụng
hình thức phạt này so với phạt tiền là rất ít cũng như do nhận thức coi nhẹ hình thức này cho
rằng nó không đạt được mục đích của chế tài xử phạt hành chính. Tuy nhiên , ta thấy rằng ,
mục đích của xử phạt vi phạm hành chính là nhắm nhắc nhở , giáo dục người vi phạm tôn trọng

và chấp hành trật tự quản lí nhà nước chứ không nhằm trừng trị đối với người vi phạm , lần đầu
và với trẻ vị thành niên . Việc áp dụng hình thức xử phạt nhẹ này sẽ làm cho người vi phạm
thấy được sự nghiêm minh cũng như nhân đạo của pháp luật mà trở nên tự giác chấp hành pháp
luật hơn . Trong nhiều trường hợp , phạt cảnh cáo còn đem lại hiệu quả thực tế hơn phạt tiền
tràn lan .
2


Tuy nhiên, không phải là hình phạt này không để lộ những bất cập, đó là điều kiện áp
dụng phạt cảnh cáo chỉ được quy định chung chung trong Pháp lệnh, và các Nghị định sau đó
cũng không đưa ra được các quy định hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết hơn. Điều này đã dẫn
đến sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng truy cứu trách nhiệm hành chính tại các văn bản xử
phạt trong từng lĩnh vực. Như thế nào là vi phạm nhỏ, như thế nào là có tình tiết giảm nhẹ? Tất
cả đều khá chung chung. Ngoài ra, Pháp lệnh cũng quy định đối tượng có thể áp dụng hình phạt
cảnh cáo là các tổ chức, việc quy định như vậy khiến người ta đặt ra câu hỏi, liệu hình phạt
cảnh cáo có tác dụng hay không trong công tác đấu tranh phòng chống vi phạm? Điều kiện áp
dụng phạt cảnh cáo được quy định chung trong pháp lệnh và các nghị định sau đó đều ghi lại
giống như Pháp lệnh mà không quy định một các chi tiết , cụ thể . Vi phạm lần đầu thì có thể
hiểu được nhưng thế nào là vi phạm nhỏ , có tình tiết giảm nhẹ thì chưa được giải thích cụ thể .
Các quy định chung chung này dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp dụng truy cứu trách
nhiệm hành chính tại các văn bản xử phạt trong lĩnh vực . Thêm vào đó , nhiều văn bản hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh lại tự đưa ra các điều kiện khác như " Chưa gây hậu quả và chưa đến
mức cần phải phạt tiền " càng làm khó hiểu thêm vấn đề .
Về đối tượng áp dụng , cảnh cáo áp dụng đối với cả tổ chức có lẽ không phù hợp. Thực tế
việc áp dụng trách nhiệm dưới hình thức cảnh cáo đói với tổ chức không có tác dụng đấu tranh
phòng chống vi phạm hành chính .
• Cảnh cáo cũng được áp dụng đối với hành vi VPHC do người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Về mặt tâm sinh lí và mức độ nhận thức, người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chưa có sự nhận thức hoàn toàn đúng đắn về các hành vi mà
họ thực hiện, chưa nhận thức được đầy đủ hậu quả của hành vi đồng thời mức độ hiểu biết về

pháp luật còn chưa đầy đủ và chính xác, do vậy sẽ không thể áp dụng được các hình thức xử
phạt khác mang tính trừng phạt nghiêm khắc hơn được, việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh
cáo sẽ tác động đến nhận thức của họ, giúp họ hiểu được hành vi của mình là trái pháp luật.
Điều này rất cần thiết vì những người trong độ tuổi này đang trong quá trình học hỏi, tích lũy
kinh nghiệm, rèn luyện đạo đức…
• Có sự mâu thuẫn trong quy định của pháp luật. Tại điểm a khoản 1 điều 6 Pháp lệnh xử
lí VPHC 2002 có quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về
VPHC do cố ý”. Nhưng tại điều 13 Pháp lệnh này lại quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối
với...mọi hành vi VPHC do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện”.
Đọc hai quy định trên ta thấy rõ được sự mẫu thuẫn. Nếu một người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa
đủ 16 tuổi tuổi thực hiện hành vi VPHC do lỗi vô ý, thì theo điều 6 người này không bị xử phạt
hành chính nhưng theo điều 13 thì người này bị xử phạt hành chính theo hình thức cảnh cáo.
Sự mâu thuẫn này cần phải sớm được giải quyết để việc áp dụng pháp luật được chính xác,
theo đúng tinh thần của pháp luật. Theo em, tinh thần của điều 6 là hoàn toàn đúng đắn, phù
hợp với đường lối xử lý người chưa thành niên của pháp luật. Do vậy, điều 13 cần sửa đổi theo
hướng như sau: “Cảnh cáo được áp dụng đối với...hành vi VPHC do người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện”. Việc bỏ từ “mọi” đi sẽ tránh được việc hiểu lầm và áp
dụng pháp luật được thống nhất.
• Điều 13 Pháp lệnh xử lý VPHC 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2006, 2007) quy định:
“Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức VPHC nhỏ, lần đầu…”. Vậy thế nào là vi
phạm nhỏ và làm sao để xác định được đó là vi phạm lần đầu? Việc xác định tái phạm theo quy
định tại Điều 11 Pháp lệnh xử lí VPHC 2002 là hết sức khó khăn. Ví dụ một đối tượng vi
phạm ở địa phương này sau đó lại sang địa phương khác vi phạm thì làm sao để xác định được
3


anh ta đã tái phạm? Trên thực tế hình thức cảnh cáo ít được áp dụng bởi những quy định về
hình thức này chưa được quy định một cách rõ ràng và cụ thể. Các cá nhân có thẩm quyền
thường không áp dụng hình thức xử phạt này mặc dù đó là vi phạm nhỏ, lần đầu. Bởi đơn giản
việc xác định các yếu tố này là rất khó khăn và mất thời gian. Do vậy, yêu cầu đặt ra là việc

quản lý hình thức phạt cảnh cáo với đối tượng vi phạm cần chuyên nghiệp hơn như lưu trữ dữ
liệu trên máy vi tính, các sổ lưu trữ điện tử của cảnh sát, cơ quan thuế hay các cơ quan có thẩm
quyền xử phạt khác.

2. Phạt tiền
Phạt tiền là một trong hai hình thức xử phạt chính và cũng là hình thức xử phạt chủ yếu hiện
nay. Phạt tiền là việc tước bỏ của cá nhân, tổ chức vi phạm một khoản tiền nhất định để sung
quỹ nhà nước. Phạt tiền tác động trực tiếp lên lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế của cá nhân, tổ
chức vi phạm, gây cho họ hậu quả bất lợi về tài sản. Vì lí do này, hình thức xử phạt này có hiệu
quả rất lớn trong việc đấu tranh phòng chống VPHC. Hình thức phạt tiền được quy định tại
điều 14 của Pháp lệnh xử lí VPHC 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và 2008). Nó
thể hiện được nhiều điểm hợp lí, phù hợp với tình hình xã hội và thực tiễn áp dụng. Cụ thể như
sau:
+ Thứ nhất: Pháp lệnh quy định mức phạt tiền tối đa và tối thiểu trong xử phạt VPHC có
khoảng cách khá lớn vì VPHC rất đa dạng, thuộc về nhiều lĩnh vực, đa dạng về tính chất và
mức độ vi phạm. Vì vậy, cần thiết có mức phạt thấp để áp dụng với những vi phạm nhỏ, hậu
quả ít nghiêm trọng và mức phạt cao đối với những VPHC có tính chất nghiêm trọng hơn.
+ Thứ hai: Các quy định về hình thức phạt tiền xác định rõ mức phạt tiền tối đa trong từng
lĩnh vực quản lí nhà nước. Mỗi lĩnh vực có một đặc thù riêng, do vậy tính chất và mức độ nguy
hiểm cũng khác nhau. Do vậy không thể quy định một mức phạt tối đa chung cho tất cả các
lĩnh vực vì mức phạt có thể phù hợp với lĩnh vực này mà không phù hợp với lĩnh vực khác. Ví
dụ điểm c khoản 2 điều 14 Pháp lệnh xử lí VPHC 2002 quy định mức phạt tối đa lên đến
70.000.000 đồng đối với hành vi VPHC trong lĩnh vực an toàn giao thông đường sắt, tuy nhiên
mức phạt này không phù hợp khi áp dụng đối với các hành vi VPHC trong lĩnh vực an toàn
giao thông đường bộ. Vì chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những VPHC trong lĩnh vực đường
sắt nguy hiểm hơn nhiều so với đường bộ, nó có thể gây thiệt hại đến tính mạng của rất nhiều
người cũng như gây thiệt hại về kinh tế lớn hơn rất nhiều so với giao thông đường bộ.
+ Thứ ba: Đối với những lĩnh vực chưa được pháp lệnh quy định, chưa được dự liệu trước
thì chính phủ có thẩm quyền quy định mức phạt tiền. Điều này rất hợp lí bởi những lẽ sau:
Trong thực tiễn, xã hội phát triển rất nhanh và đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau và có

những ngành nghề mới ra đời, do vậy Pháp lệnh không thể dự liệu hết được, đồng thời việc sửa
đổi Pháp lệnh không phải là việc làm nhanh chóng, do vậy cần thiết phải trao cho một cơ quan
có thẩm quyền quy định cách thức giải quyết và tiến hành xử phạt kịp thời những hành vi gây
thiệt hại cho xã hội. Cơ quan được giao nhiệm vụ này là Chính phủ - cơ quan đừng đầu trong
hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Do Chính phủ thực hiện chức năng quản lí nhà
nước, do vậy sẽ nắm bắt tình hình một cách nhanh nhạy, kịp thời, nên sẽ có quyết định xử lí kịp
thời nhất.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm hợp lí đã nêu ở trên, hình thức xử phạt VPHC bằng hình
thức phạt tiền cũng còn một số điểm chưa hợp lí như sau:
• Việc quy định mức phạt tiền cụ thể như hiện nay có một ưu điểm là dễ áp dụng, thuận
tiện. Tuy nhiên, với chỉ số lạm phát thường xuyên trên hai chữ số như hiện nay thì số tiền phạt
4


trên rất nhanh chóng trở lên “lỗi thời”. Theo Pháp lệnh xử lí VPHC 2002 được sửa đổi năm
2008 thì mức phạt tiền được quy định trong khoảng từ 10.000 đồng đến 500.000.000 đồng.
Hiện nay, chúng ta có thể nhận thấy mức phạt trên là quá thấp và không phát huy được tác
dụng hữu hiệu của việc phạt tiền, khiến cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thái độ “khinh nhờn”
pháp luật. Bởi việc xử phạt 10.000 đồng không thể có tác dụng răn đe. Còn với những hành vi
xâm phạm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nhằm
nghiên cứu, thăm dò, khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí, tài nguyên thiên nhiên mà chỉ bị xử
phạt 500.000.000 đồng là quá nhẹ, vì những lợi ích từ việc vi phạm này đem lại là rất lớn và
lớn hơn rất nhiều số tiền phạt kia. Do vậy, yêu cầu đặt ra là cần có những quy định về mức phạt
tiền thật hợp lý, ổn định và không bị lỗi thời bởi chỉ số lạm phát. Sau khi tham khảo ý kiến
nhiều chuyên gia pháp lý cũng như tìm hiểu Dự thảo Luật xử lý VPHC, em thấy rằng dự thảo
có quy định: “Chính phủ điều chỉnh tương ứng mức xử phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước trong trường hợp có biến động giá cả theo Nghị quyết của Quốc hội )”. Quy định
như vậy sẽ khắc phục được hạn chế quy định mức phạt bằng các con số tuyệt đối sẽ có thể bị
lạc hậu với tình hình kinh tế xã hội, bảo đảm sự ổn định của Luật. Tuy nhiên quy định như vậy
lại chưa có tiền lệ, do vậy cần phải nghiên cứu thêm để có những quy định hợp lý nhất.

• Theo quy định hiện nay, mức phạt tiền đối với cá nhân và tổ chức về cùng một hành vi
vi phạm là như nhau. Điều này là không hợp lý. Bởi một tổ chức là thường có tiềm lực tài
chính lớn một cá nhân đơn lẻ, có sự hiểu biết pháp luật hơn do vậy hành vi vi phạm có thể tinh
vi hơn. Đồng thời, tổ chức lại không phải chịu trách nhiệm hình sự (Bộ luật hình sự Việt Nam
không truy cứu trách nhiệm hình sự của tổ chức) do vậy dễ dẫn đến khả năng tổ chức có nhiều
hành vi vi phạm một cách tinh vi để trục lợi. Hơn nữa, với cùng một mức phạt tiền, có thể rất
có tính răn đe với cá nhân nhưng với tổ chức thì chưa chắc, vì họ thường có tiềm lực tài chính
và khi vi phạm thường là có chủ định. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải quy định mức phạt tiền
đối với tổ chức và cá nhân là khác nhau, như vậy mới có tác dụng trong việc răn đe và phòng
ngừa vi phạm. Theo dự thảo Luật xử lý VPHC, mức phạt tối đa đối với cá nhân và tổ chức
được quy định khác nhau, theo đó mức phạt tối đa đối với tổ chức là 2 tỷ đồng còn đối với cá
nhân là 1 tỷ đồng. Đây là một quy định đúng đắn, phù hợp với thực tiễn, do vậy nhiều khả năng
sẽ được chấp nhận và đưa vào Luật xử lý VPHC khi Luật này được Quốc hội thông qua.
• Hiện nay, có nhiều trường hợp cá nhân, tổ chức cố tình kéo dài thời gian nộp phạt quá
quy định của pháp luật, điều này ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước. Chỉ khi cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thì cá nhân, tổ chức mới chấp hành, và khi
nộp họ chỉ phải nộp đúng số tiền được ghi trong quyết định xử phạt. Để hạn chế hiện tượng
này, cần thiết phải quy định việc tính thêm lãi suất trên tổng số tiền phạt cho mỗi ngày nộp
chậm trước khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cụ thể mức lãi suất này là bao nhiêu thì cần
phải xem xét cho hợp lý, có thể là 0,5% hoặc 1% cho mỗi ngày nộp chậm. Việc quy định như
vậy sẽ nâng cao ý thức chấp hành quyết định xử phạt của người vi phạm. Quy định này cũng đã
được đưa vào dự thảo Luật xử lý VPHC. Đây là một quy định đúng đắn, phù hợp với thực tiễn,
do vậy nhiều khả năng sẽ được chấp nhận và đưa vào Luật xử lý VPHC chính thức.
• Hình thức xử phạt VPHC là phạt tiền này đã nảy sinh rất nhiều chuyện “xin xỏ” dẫn
đến việc tiền xử phạt không được nộp vào ngân sách nhà nước mà vào túi các cá nhân có thẩm
quyền. Chuyện này xảy ra ở rất nhiều các lĩnh vực, nhưng điển hình và khá phổ biến là lĩnh vực
an toàn giao thông đường bộ. Hiện nay nhiều người dân khá bức xúc trước cách xử lí như vậy
của một bộ phận cảnh sát giao thông. Khi vi phạm và bị xử phạt, người ta thường “xin xỏ”, xin
giảm mức tiền phạt xuống dưới cả mức tối thiểu, không cần nhận quyết định xử phạt, biên lai
5



thu tiền, biên bản xử phạt (nếu thuộc trường hợp phải lập biên bản xử phạt)… Tiền sẽ được đưa
thẳng cho cảnh sát giao thông mà không cần nộp vào kho bạc nhà nước. Đây là một thực trạng
rất nhức nhối, do vậy cần phải nâng cao được đạo đức của các cá nhân có thẩm quyền, tuyên
truyền nâng cao ý thức nhân dân cũng như cần có những biện pháp xử lí nghiêm khắc và mạnh
tay hơn nữa đối với vấn đề này.

3. Trục xuất
Trục xuất là buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam phải rời khỏi
lãnh thổ Việt Nam. Hình thức xử phạt này chỉ áp dụng với đối với người nước ngoài – là những
người không mang quốc tịch Việt Nam. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính này trên thực tế
được áp dụng rất ít do nhiều nguyên nhân như : số người nước ngoài ở Việt Nam đương nhiên
là ít hơn người Việt Nam . Người nước ngoài thực sự có ý thức và tôn trọng các quy định hơn
người Việt Nam chúng ta , hơn nữa nếu có vi phạm thì một số vi phanh được xử lý theo hướng
ngoại giao ( nếu vi phạm đó có mức độ không cao ) . Trên khía cạnh lý luận , hình thức xử lí vi
phạm hành chính là trực xuất còn tồn tại một số vấn đề như sau :
- Hình thức này chưa được quy định một cách cụ thể nên việc áp dụng có thể gặp khó khăn .
Tại nghị định số 97/2006/NĐ-CP quy định việc áp dụng hình thức xử phạt trục xuất cũng chưa
nói rõ khi nào thì áp dụng hình phạt chính là trục xuất , khi nào thì xử phạt trục xuất là bổ
sung . Bên cạnh đó , trong luật hình sự và pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đều lấy " Trực
xuất " làm hình phạt hành chính. Việc quy định ở cả hau văn bản này sẽ gây khó khăn , hơn nữa
ranh giới giữa vi phạm thông thường và tội phạm là không có , không có quy định rõ ràng là
hành vi nào thì bị trục xuất hành chính , hành vi nào thì bị trục xuất hình sự .Theo đó , nếu một
người nước ngoài có hành vi vi phạm và bị trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam , nếu có thẩm
quyền xử lí là tòa án thì hành vi của người đó là tội phạm , Nhưng nếu giao cho công an xử lý
thì đây là hành vi vi phạm hành chính .
- Có quan điểm là Việt Nam chưa có quy định vấn đề người nước ngoài có nhiều quốc tịch có
hành vi vi phạm và bị xử lí vi phạm hành chính thì trục xuất về nước nào . Vì vậy chúng ta có
thể quy định là trục xuất về quốc gia nào có quốc tịch dăng kí nhập gần nhất . hoặc là khi bị

trục xuất thì người đó được lựa chọn quốc gia trong số các quốc gia người đó có quốc tịch .
Việc quy định này sẽ làm cho hệ thông pháp luật trở nên hoàn chỉnh và có cơ sở hơn .

4. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề
Hình thức xử phạt này được quy định tại điều 16 Pháp lệnh xử lí VPHC 2002, đây là một
hình thức xử phạt bổ sung, nhằm tước bỏ có thời hạn hoặc không thời hạn đối với việc sử dụng
một quyền mà pháp luật đã trao cho cá nhân, tổ chức. Trong thời hạn bị tước, cá nhân, tổ chức
mất quyền thực hiện các hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Đây là một hình thức xử phạt rất hợp lí và cần thiết trong tình hình hiện nay. Nó có hiệu quả
rất lớn trong xử phạt cũng như ngăn ngừa VPHC, đặc biệt là trong lĩnh vực liên quan đến kinh
tế. Ví dụ một nhà hàng ăn uống không thực hiện đúng các quy tắc để đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm có thể bị tước giấy phép kinh doanh. Điều này ảnh hưởng đến nguồn thu nhập chính
của gia đình, do vậy nó có hiệu quả rất lớn. Hoặc như trường hợp tước quyền sử dụng giấy
phép lái xe, nó ảnh hưởng đến việc đi lại của người bị xử phạt do vậy cũng có hiệu quả cao
trong việc hạn chế các vi phạm trong lĩnh vực an toàn giao thông.
Tuy nhiên, việc quy định này còn một số hạn chế như sau:
+ Thứ nhất: Pháp luật chưa cụ thể hóa được tiêu chí “vi phạm nghiêm trọng quy định sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề” mà điều 16 Pháp lệnh xử lý VPHC 2002 đã quy định.
Nghị định 128/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Pháp lệnh xử lý VPHC 2002 và Pháp lệnh sửa
6


đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2008 cũng không xác định trường
hợp nào là vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Điều này
dẫn đến nhiều trường hợp việc tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được cho
là quá nặng. Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu thì: “Trong lĩnh vực giao thông đường
bộ, quy định tước quyền sử dụng giấy phép lái xe với các hành vi đỗ, dừng sai quy định…là
quá nghiêm khắc”. Do vậy, yêu cầu cần thiết trong thời gian tới là cần phải có những hướng
dẫn để cụ thể để làm rõ quy định này.
+ Thứ hai: Thực tiễn cho thấy nhiều tổ chức, cá nhân hoạt động, kinh doanh trong nhiều

ngành nghề, lĩnh vực mà pháp luật không quy định phải có giấy phép, chứng chỉ hành nghề là
điều kiện hoạt động, kinh doanh. Vậy khi cá nhân, tổ chức đó vi phạm ở mức độ nghiêm trọng,
gây hậu quả hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả tới môi trường và tính mạng, sức khỏe con
người, trật tự, an toàn xã hội vậy phải xử lý những trường hợp này như thế nào? Bởi chỉ phạt
tiền đơn thuần thì không đủ tính răn đe bởi rất có thể họ lại tái phạm. Do vậy, việc đình chỉ
hoạt động đối với những đối tượng này là cần thiết.
Thực tiễn cho thấy một số doanh nghiệp lớn có hành vi vi phạm phát sinh từ hoạt động, vận
hành của một quy trình, bộ phận nhất định chứ không phải của toàn bộ doanh nghiệp, nhà máy
đó. Như vậy, nếu theo quy định của Pháp lệnh xử lý VPHC 2002 thì họ có thể bị tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Điều này có nghĩa là họ phải dừng toàn bộ hoạt động ở
tất cả các quy trình, công đoạn. Điều này sẽ gây ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế xã hội
của địa phương cũng như người lao động trong doanh nghiệp. Vì lý do này, cần thiết phải bổ
sung hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn, và chế tài này chỉ áp dụng đối với các
quy trình, bộ phận có vi phạm. Theo quy định của Dự thảo Luật xử lý VPHC thì thời hạn đình
chỉ có thể kéo dài từ 1 tháng đến 24 tháng. Đây là một quy định đúng đắn, phù hợp với thực
tiễn, do vậy nhiều khả năng sẽ được chấp nhận và đưa vào Luật xử lý VPHC khi Luật này được
Quốc hội thông qua.

5. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
Hình thức xử phạt này là hình thức xử phạt bổ sung, được quy định tại điều 17 Pháp lệnh xử
lí VPHC 2002. Hình thức xử phạt này tước bỏ quyền sở hữu của người vi phạm đối với vật,
tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến VPHC. Các tang vật, phương tiện này sẽ
được sung vào quỹ nhà nước, đối với những vật không có giá trị, không sử dung được hoặc vật
phẩm gây hại sau khi tịch thu sẽ được đem đi tiêu hủy. Ví dụ: Ngày 13/5/2012 Đội kiểm lâm
vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đã phát hiện và tịch thi 96kg rễ và cành gỗ sưa mà lâm
tặc đang tìm cách tuồn ra khỏi rừng …Đây cũng là một hình thức xử phạt VPHC hợp lí và cần
thiết. Bởi lẽ ngoài ý nghĩa là một hình thức xử phạt, việc tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để VPHC còn có ý nghĩa nhằm loại bỏ hoặc hạn chế khả năng tiếp tục VPHC của cá
nhân, tổ chức.
Tuy nhiên, hiện nay về hình thức xử lý này còn chưa có sự thống nhất giữa các văn bản pháp

luật. Trong pháp lệnh xử lý VPHC, tịch thu tang vật phương tiện vi phạm được quy định là
hình thức phạt bổ sung. Tuy nhiên, trong văn bản pháp luật khác (Khoản 6 Điều 8 Nghị định số
06/2008/NĐ-CP) lại quy định tịch thu tang vật phương tiện vi phạm được áp dụng như biện
pháp khắc phục hậu quả. Việc không thống nhất này dẫn đến áp dụng không đúng pháp luật.
Theo Tiến sĩ Trần Thị Hiền (ĐH Luật Hà Nội) thì: “Nên quy định tùy theo từng trường hợp mà
tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm được áp dụng với tính cách là bổ sung hay biện pháp
khắc phục hậu quả để đáp ứng tính linh hoạt trong xử lý VPHC. Khi hết thời hiệu xử phạt, tang
7


vật phương tiện vi phạm có thể bị tịch thu với tính chất là biện pháp khắc phục hậu quả bởi
một quyết định độc lập”.

6. Nhận xét của em về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
Qua tìm hiểu Dự thảo Luật xử lý vi phạm hành chính, em thấy rằng ngoài việc quy định
năm hình thức xử phạt nêu trên, Dự thảo Luật Xử lý VPHC còn đề xuất thêm 3 hình thức là:
(1) Đình chỉ hoạt động có thời hạn; (2) Buộc lao động phục vụ cộng đồng; (3) Buộc học tập
các quy định pháp luật có liên quan đến vi phạm. Theo em việc bổ sung thêm 3 hình thức
này là rất hợp lý, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Vì như đối với trường hợp quy định
mức phạt tiền nhưng người vi phạm không có tiền nộp phạt, hoặc khi phạt tiền nhưng chưa
đủ sức mạnh răn đe thì có thể buộc họ lao động cho lợi ích cộng đồng để chuộc lại lỗi lầm.
Bên cạnh đó, việc buộc người vi phạm học tập các quy định pháp luật để tránh tái phạm
cũng rất cần thiết, kinh phí cho việc học này người vi phạm phải gánh chịu. Điều này sẽ
giúp họ hiểu biết pháp luật hơn và không vi phạm nữa.
III. ĐÁNH GIÁ TÍNH HỢP LÝ CỦA CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ
Các quy định về biện pháp khắc phục hậu quả được quy định cụ thể từ điều 18 đến điều 21
của Pháp lệnh xử lí VPHC 2002 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007 và 2008) bao gồm tất
cả 4 biện pháp, ngoài ra còn một biện pháp đặc biệt được quy định thêm tại điểm đ khoản 3
điều 12 đó là: “Các biện pháp khác do Chính phủ quy định”. Về mặt bản chất, các biện pháp
khắc phục hậu quả không mang tính trừng phạt mà chỉ nhằm mục đích khắc phục hậu quả do

VPHC để lại trên thực tế hoặc ngăn chặn hậu quả có thể xảy ra. Các biện pháp này có thể được
áp dụng kèm theo quyết định xử phạt khi còn thời hiệu xử phạt và thời hạn ra quyết định xử
phạt. Tuy nhiên, khi hết thời hiệu hoặc thời hạn thì cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
không được ra quyết định xử phạt nữa tuy nhiên vẫn có quyền yêu cầu đối tượng vi phạm phải
thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu các biện pháp khắc
phục hậu quả này.
1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra
hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép
Việc khôi phục tình trạng ban đầu được hiểu là cá nhân, tổ chức đã thực hiện hành vi VPHC
dẫn đến những thay đổi so với tình trạng ban đầu của sự việc, sự vật bị thay đổi do tác động
trực tiếp của VPHC, thì phải tự mình bằng mọi cách đưa sự vật nói trên trở lại trạng thái ban
đầu trước khi thực hiện vi phạm. Khi họ không tự tháo dỡ thì nhà nước sẽ tiến hành cưỡng chế
tháo dỡ và buộc họ phải thanh toán chi phí.
Ví dụ: Theo quy định tại khoản 5 điều 18 Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 2/04/2010 thì:
“Cá nhân, tổ chức nào có hành vi tự ý phá dải phân cách, gương cầu, các công trình, thiết bị
an toàn giao thông trên đường bộ thì sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Ngoài ra, cá nhân, tổ chức vi phạm còn bị buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị
thay đổi do vi phạm đó gây ra”.
Trên thực tế việc áp dụng biện pháp này gặp nhiều khó khăn do sự trây ì của người dân. Khi
cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định xử phạt và buộc khôi phục lại tình
trạng ban đầu đã bị thay đổi do VPHC gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép,
trong nhiều trường hợp người dân nộp tiền phạt nhưng kiên quyết không chịu phá bỏ công trình
đã xây dựng trái phép. Trong trường hợp này, Nhà nước cần xem xét theo hai hướng: một là
cấp phép cho họ tiếp tục xây dựng (nếu trường hợp vi phạm không quá nghiêm trọng như vượt
8


xây vượt quá số tầng đã đăng kí…). Hai là ra quyết định tháo dỡ công trình đó. Tuy nhiên việc
tháo dỡ này không phải đơn giản mà gặp rất nhiều khó khăn cũng như rủi ro. Cách giải quyết
thứ nhất sẽ tạo ra những tiền lệ xấu, đồng thời cách giải quyết thứ hai lại tạo ra nhiều gánh

nặng cho nhà nước. Do vậy, để quản lí tốt, cần tăng cường công tác quản lí, kiểm tra, giám sát,
như vậy sẽ phát hiện sai phạm ngay từ đầu và khi đó việc xử phạt sẽ đơn giản hơn rất nhiều.
2. Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch
bệnh do vi phạm hành chính gây ra
Cá nhân, tổ chức VPHC phải đình chỉ ngay các hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường, lây
lan dịch bệnh và phải thực hiện các biện pháp để khắc phục; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm
không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm
phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Trên thực tế việc thực hiện biện pháp này gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất việc thanh tra, kiểm
tra để phát hiện ra VPHC khiến ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh được tiến hành chưa tốt.
Chúng ta thường không phát hiện ra vi phạm ngay từ khi mới thực hiện, do vậy sau khi đã gây
hậu quả rất nghiêm trọng thì các cơ quan chức năng mới tiến hành điều tra làm rõ. Thứ hai
trong nhiều trường hợp việc xử phạt còn không tương xứng với những hậu quả mà vi phạm đó
gây ra.
Chúng ta có thể lấy ví dụ điển hình là vụ việc công ty VEDAN xả nước thải ra sông Thị Vải
(Đồng Nai) gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Công ty này đã bị xử phạt hành chính theo
quy định tại Điều 10 Nghị định 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 Về việc xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường về hành vi vi phạm các quy định về nước xả thải.
Tuy nhiên, điều đáng nói là sau khi hành vi được thực hiện khá lâu, gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng thì vụ việc mới bị phát hiện. Chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện tốt hơn nếu
công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành tốt hơn. Hơn thế nữa, tuy đã bị xử phạt và phải áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả, phải bồi thường cho người dân, tuy nhiên hậu quả về
môi trường vẫn còn đó và cuộc sống của người nông dân không thể trở lại như xưa...
3. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương
tiện
Biện pháp này được áp dụng chủ yếu trong quá trình xử phạt cho các VPHC trong lĩnh vực có liên
quan đến việc xuất nhập khẩu hoặc có hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa từ nước ngoài vào
lãnh thổ Việt Nam. Các hàng hóa, vật phẩm, phương tiện này được nhập khẩu trái quy định của pháp
luật sẽ bị buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc những hàng hóa, vật phẩm, phương tiện là hàng
tạm nhập tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định thì sẽ buộc phải tái xuất.

Đây là một quy định rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Với việc mở cửa thị trường, giao lưu
thương mại giữa nước ta với các nước khác ngày càng nhiều do vậy các hàng hóa, vật phẩm,
phương tiện nguy hại sẽ được đưa vào nước ta ngày càng nhiều, nếu không có những biện pháp
cứng rắn thì chẳng mấy chốc Việt Nam sẽ trở thành “bãi rác công nghiệp” của thế giới, khi mà các
chất thải công nghiệp độc hại được thải ra ở các nước công nghiệp phát triển không ngừng gia tăng,
ví dụ như: axit, các chất độc hóa học, các chất thải công nghiệp...
4. Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá
phẩm độc hại
Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá
phẩm độc hại là biện pháp khắc phục hậu quả được pháp luật quy định nhằm bảo vệ những giá
trị về sức khỏe, cuộc sống vật chất và những giá trị về mặt tinh thần chung của cộng đồng. Biện
pháp này chủ yếu được áp dụng để khắc phục hậu quả do VPHC trong các lĩnh vực liên quan
9


đến việc kinh doanh những sản phẩm liên quan đến con người như thuốc chữa bệnh, thực
phẩm, văn hóa…
Ví dụ như việc tiêu hủy các băng đĩa lậu, các văn hóa phẩm đồ trụy, đồ chơi bạo lực…Các
vật phẩm này ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của con người, làm xói mòn những truyền
thống đạo đức, ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của trẻ nhỏ, do vậy cần phải tiêu hủy.
5. Các biện pháp khác do Chính phủ quy định
Đây là các biện pháp áp dụng cho từng lĩnh vực cụ thể được chính phủ quy định trong các
văn bản khác nhau. Ví dụ như biện pháp cải chính thông tin khi có sự nhầm lẫn hoặc cố tình
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ…
Sở dĩ Pháp lệnh có quy định như vậy là vì việc quản lý hành chính là hết sức đã dạng, phong
phú và luôn phát sinh những vấn đề mới. Do vậy cần thiết phải quy định một điều khoản như
trên để có thể kịp thời xử lý những hành vi vi phạm mới phát sinh. Qua một thời gian dài triển
khai trên thực tế đã phát sinh nhiều hành vi VPHC mới và tương ứng với những hành vi đó cần
phải có các biện pháp khắc phục hậu quả kịp thời. Yêu cầu đặt ra là phải luật hóa các biện pháp
đó. Dự thảo Luật xử lý VPHC đã đưa thêm vào một số biện pháp như sau:

+ Buộc cải chính thông tin sai sự thật.
+ Buộc thu hồi sản phẩm không đảm bảo chất lượng.
+ Buộc nộp cho Nhà nước số lợi bất hợp pháp do VPHC.
+ Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, vật phẩm.
KẾT LUẬN
Qua bài làm trên, chúng ta có thể hiểu thêm những nét cơ bản về các hình thức xử phạt VPHC
cũng như các biện pháp khắc phục hậu quả. Bên cạnh tính hợp lí thì các hình thức xử phạt
VPHC cũng như các biện pháp khắc phục hậu quả còn có một số điểm chưa thật sự hợp lí. Do
vậy yêu cầu bức thiết đặt ra đó là phải khắc phục được những điểm chưa hợp lí đó, từ đó giúp
cho công tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hành
chính nói riêng đặt được hiệu quả cao nhất.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2012
10


2. Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học
quốc gia, Hà Nội, 2005;
3. Pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008)
4. Bình luận khoa học Pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002.
5. Số chuyên đề về Pháp lệnh xử lí VPHC năm 2002, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số tháng
9/2002;
6. Đặc san về xử lí VPHC, Tạp chí luật học, tháng 9/2003.
7. Nghị định của Chính phủ số 128/2008/NĐ-CP Về việc quy định chi tiết thi hành một số điều
của Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
Xử lý vi phạm VPHC năm 2008
8. Nghị định 34/2010/NĐ-CP ngày 2/04/2010 quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giao thông
đường bộ

9. Nghị định 73/2010/NĐ-CP ngày 01/09/2010 quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh
và trật tự, an toàn xã hội.
10. TS. Trương Hồng Quang, “Chế tài hành chính và những bất cập trong quy định hiện
hành về chế tài hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 21/2011, trang 27 – 34.
11. />ItemID=266&TabIndex=5&YKienID=239
12. />..

11



×