Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Sự tương thích của pháp luật việt nam với công ước lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hơp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.95 KB, 8 trang )

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Pháp luật Việt Nam và Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác

trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế
1. Các văn bản pháp luật quốc gia
Những văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này có thể được kể đến, đó là: Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật HN&GĐ về quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài; Nghị
định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐCP; Thông tư 07/2002/TT-BTP của Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị định 68. Và
hiện nay, văn bản đang điều chỉnh trực tiếp vấn đề nuôi con nuôi, và cũng là văn bản
quan trọng nhất, chính là Luật nuôi con nuôi năm 2010 và Nghị định số 19/2011/NĐCP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi.
2. Các điều ước quốc tế song phương

Ngày 01/02/2000 nước ta đã kí với Cộng hòa Pháp Hiệp định hợp tác nuôi con
nuôi (HĐHTNCN). Đây là điều ước quốc tế song phương đầu tiên trong lĩnh vực
nuôi con nuôi mà Việt Nam kí kết với các nước.
Sau Pháp, Việt Nam đã tích cực tiến hành đàm phán và kí kết một loạt các
HĐHTNCN với các nước, đến nay VN đã kí 16 HĐHTNCN với các quốc gia và
vùng lãnh thổ bao gồm: Cộng hòa Pháp, Vương quốc Đan Mạch, Cộng hòa Ailen,
Vương quốc Thụy Điển, Hoa Kỳ, Canada, Thụy Sĩ... Đến thời điểm này thì
HĐHTNCN giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, Ailen và Thụy Điển đã chấm dứt hiệu lực.
Vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn
được đề cập trong các Hiệp định tương trợ tư pháp (đã ký kết 18 Hiệp định), các Hiệp
định lãnh sự (đã ký kết 17 Hiệp định).
3. Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con

nuôi quốc tế
Công ước Lahaye 1993 được thông qua ngày 29/5/1993 tại Lahaye (Hà Lan) và
có hiệu lực từ ngày 01/5/1995. Ngày 7/12/2010, được ủy quyền của Chính phủ nước
CHXHCNVN, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCNVN tại Vương quốc Hà
Lan – Huỳnh Minh Chính, đã ký Công ước Lahaye về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong


lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước. Ngày 18/7/2011, Chủ tịch nước CHXHCNVN
ra Quyết định số 1103/2011/QĐ-CTN phê chuẩn toàn văn Công ước và Công ước có
hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 01/02/2012. Tính đến năm 2012, đã có 82 quốc gia và
vùng lãnh thổ là thành viên của Công ước. Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp
tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế bao gồm lời nói đầu, 7 Chương và 48 Điều.
Quy định những nội dung cơ bản sau: Những nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahay
(7 nguyên tắc); Điều kiện của người xin con nuôi và của trẻ em được nhận làm con
1


nuôi; Thành lập Cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế; Tổ chức được chỉ định;
Trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi; Hệ quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi.
II. Sự tương thích của pháp luật Việt Nam với Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ

trẻ em và hơp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế
1. Những quy định tương thích

1.1. Về nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi
Những nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahay về nuôi con nuôi được coi là
những quy định bắt buộc có giá trị ràng buộc chung đối với tất cả các quốc gia thành
viên. Những nguyên tắc đó được đề cập trong phần đầu tiên của Công ước, bao gồm
cả các nguyên tắc được công nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế, đặc biệt là
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em ngày 20/11/1989 và Tuyên bố của Liên
hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi
trẻ em, Chỉ dẫn đặc biệt về việc bảo trợ, nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài
(Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ số 41/86 ngày 3/12/1986). Các nguyên tắc cơ bản
được ghi nhận, bao gồm: Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em; mọi
chính sách pháp luật đều phải vì lợi ích tốt nhất của trẻ em và thúc đẩy việc thực hiện
quyền của trẻ em; Tôn trọng quyền ưu tiên đối với trẻ em là được cha mẹ đẻ chăm

sóc; Nếu vì lý do nào đó mà trẻ em không được cha mẹ đẻ chăm sóc thì cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền có trách nhiệm bảo vệ trẻ em và xem xét tất cả những giải pháp
khác nhau để trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng tại quốc gia mình; nếu các giải pháp
này không thực hiện được thì có thể tìm kiếm giải pháp thay thế như nuôi coi nuôi,
giám hộ hoặc chăm sóc ở trung tâm bảo trợ xã hội; Chỉ cho phép những người ngoài
gia đình ruột thịt của trẻ em nhận trẻ em làm con nuôi, nếu không có khả năng tìm
thấy một nơi ở phù hợp cho trẻ em ngay từ gia đình gốc của mình; Việc nuôi con nuôi
phải làm phát sinh đầy đủ quan hệ cha mẹ và con theo pháp luật; Ưu tiên thu xếp cho
trẻ em làm con nuôi trong nước; việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài chỉ được
coi là giải pháp cuối cùng, sau khi chắc chắn không thể tìm được gia đình thay thế
cho trẻ em ngay tại nước mình; Nghiêm cấm mọi việc thu lợi bất minh từ việc cho trẻ
em làm con nuôi; mọi hành vi lạm dụng và buôn bán trẻ em phải bị xử lý nghiêm
minh.
Điều 4 Luật nuôi con nuôi, việc nuôi con nuôi được thực hiện theo nguyên tắc
sau, và phù hợp với các nguyên tắc của Công ước: “1. Khi giải quyết việc nuôi con
nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc. 2.
Việc nuôi con nuôi phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm
con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và

2


đạo đức xã hội. 3. Chỉ cho làm con nuôi người nước ngoài khi không thể tìm được
gia đình thay thế ở trong nước”.
Đồng thời, để đảm bảo thực hiện việc nuôi con nuôi vì lợi ích tốt nhất của đứa
trẻ, pháp luật Việt Nam còn đưa ra nguyên tắc trong việc xác định thứ tự ưu tiên lựa
chọn gia đình thay thế cho trẻ, cụ thể tại Điều 5 Luật nuôi con nuôi.
1.2. Về điều kiện người nhận nuôi con nuôi
Điều 2 Công ước quy định điều kiện đối với người nhận nuôi được áp dụng khi
trẻ em và cha mẹ nuôi thường trú tại các quốc gia thành viên khác nhau mà không áp

dụng khi trẻ em và cha mẹ nuôi cùng thường trú tại một quốc gia thành viên, cũng
như cha mẹ nuôi thường trú ở một quốc gia không phải thành viên Công ước và
ngược lại. Công ước quy định việc nuôi con nuôi chỉ được chấp nhận đối với người
xin nhận con nuôi là một cặp vợ chồng hoặc một người đã hoặc chưa thành hôn; mọi
trường hợp nuôi con nuôi phải làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con, không phụ
thuộc vào quan hệ của trẻ em đã cho làm con nuôi với cha mẹ đẻ đã chấm dứt hay
chưa. Theo Điều 4, cơ quan có thẩm quyền để xác nhận điều kiện đối với cha mẹ
nuôi tương lai để đươc nhận nuôi trẻ em là cơ quan có thẩm quyền của nước nhận.
Nuóc nhận có trách nhiệm xác nhận cha mẹ nuôi tương lai có đủ tư cách và thích hợp
để nuôi con nuôi, đảm bảo rằng cha mẹ nuôi tương lai đã được tham vấn ở mức độ
cần thiết và xác nhận trẻ em được hoặc sẽ được phép nhập cảnh và thường trú tại
quốc gia đó.
Phù hợp với quy định của Công ước, pháp luật Việt Nam quy định: người nhận
nuôi có thể là một người hoặc hai, vợ chồng. Nếu là hai vợ chồng thì phải có hôn
nhân hợp pháp và khác giới tính (Điều 36 Nghị định 68). Ngoài ra, pháp luật Việt
Nam còn quy định điều kiện đối với người nhận nuôi. Theo đó, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam
làm con nuôi phải có đủ các điều kiẹn theo quy định của pháp luật nước nơi người đó
thường trú và quy định tại Điều 14 Luật nuôi con nuôi: “a) Có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế,
chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức
tốt”. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều
kiện trên và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú (Điều
29 Luật nuôi con nuôi).
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tắc luât nơi thường trú và
luật Việt Nam để điều chỉnh điều kiện của người nhận nuôi. Theo khoản 1 Điều 28
Luật nuôi con nuôi, người nước ngoài phải thường trú ở nước cùng là thành viên của
điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam mới được nhận trẻ em Việt Nam làm
con nuôi.
1.3. Về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi

3


Các yêu cầu về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi được quy định ở
chương IV của Công ước. Các quy định này được xây dựng theo hướng đơn giản hóa
các thủ tục hành chính và hạn chế tối đa các trường hợp trẻ em vô gia cư. Pháp luật,
về cơ bản cũng tương thích với các quy định tương ứng trong Công ước.
Về thủ tục nộp hồ sơ, tại Điều 14 Công ước thì người thường trú ở một quốc
gia thành viên (nước nhận) muốn xin nhận trẻ em thường trú ở một quốc gia thành
viên khác (nước gốc) thì phải liên hệ với cơ quan trung ương có thẩm quyền của
nước nhận. Đây là quy định có tính bắt buộc. Tuy nhiên, đơn xin phép nuôi con nuôi
không nhất thiết phải nộp tại cơ quan trung ương mà có thể nộp tại cơ quan nhà nước
khác hoặc cho một tổ chức được chỉ định tại nước nhận nếu pháp luật cho phép. Theo
Luật nuôi con nuôi, toàn bộ hồ sơ của người xin nhận con nuôi được nộp tại Cục con
nuôi. Trường hợp nhận con nuôi đích danh thì người nhận con nuôi trực tiếp nộp hồ
sơ tại Cục con nuôi. Trường hợp nhận con nuôi không đích danh thì người nhận con
nuôi thường trú tại nước là thành viên của Điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi
với Việt Nam nộp hồ sơ cho Cục con nuôi thông qua tổ chức con nuôi của nước đó
được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, nếu nước đó không có tổ chức con nuôi được
cấp phép hoạt động tại Việt Nam thì người nhận con nuôi nộp hồ sơ cho Cục Con
nuôi thông qua Cơ quan đại diện ngoại giao hoặc Cơ quan lãnh sự của nước đó tại
Việt Nam.
Về trình tự, thủ tục để nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, cơ quan trung
ương nước nhận có trách nhiệm kiểm tra các điều kiện để được nhận con nuôi, nếu
những người xin con nuôi đáp ứng các điều kiện và thích hợp để nuôi con nuôi thì cơ
quan này phải làm một báo cáo bao gồm những thông tin về người xin nhận con nuôi
và sự phù hợp để nuôi con nuôi, về khả năng đảm bảo việc nuôi con nuôi quốc tế
cũng như các đặc điểm của trẻ em mà họ thấy thích hợp để nhận nuôi. Báo cáo đó
phải được chuyển cho cơ quan trung ương của nước gốc. Sau khi nhận báo cáo của
cơ quan trung ương nước nhận, cơ quan trung ương nước gốc nếu nhận thấy trẻ em

đủ điều kiện làm con nuôi thì lập một báo cáo bao gồm những thông tin về trẻ em, về
khả năng được cho làm con nuôi và về những nhu cầu đặc biệt của các em, xác nhận
rằng việc cho trẻ em làm con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; và chuyển báo cáo
này cho cơ quan trung ương nước nhận cùng bằng chứng về sự đồng ý cần thiết đã có
được và những lý do xác nhận việc giới thiệu trẻ em. Công ước công nhận quyền
quyết định việc cho trẻ em làm con nuôi của nước gốc: nếu nước gốc nhận thấy rằng
việc nuôi con nuôi này không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc trái với chính
sách của mình thì có quyền từ chối việc nuôi con nuôi này. Néu việc đưa trẻ em đi
làm con nuôi không được thực hiện thì các báo cáo nói trên sẽ phải được gửi trả cho
các cơ quan đã gửi những báo cáo đó.
Trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi, cơ quan trung ương của cả hai
nước có trách nhiệm áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết để trẻ em được phép xuất
4


cảnh nước gốc, nhập cảnh và thường trú tại nước nhận. Các cơ quan này phải thông
báo cho nhau về quá trình cho nhận con nuôi và các biện pháp cần áp dụng để hoàn
tất quá trình đó, cũng như về sự tiến triển của việc thu xếp cho nhận con nuôi nếu
một giai đoạn thử thách là cần phải có. Điều 21 Công ước quy định trong trường hợp
việc nuôi con nuôi được thực hiện sau khi trẻ em được đưa đến nước nhận và nếu cơ
quan trung ương của nước này cho rằng việc để cho cha mẹ nuôi tương lai tiếp tục
chăm sóc các em không vì lợi ích tốt nhất của các em thì cơ quan này phải áp dụng
các biện pháp cần thiết để bảo vệ các em, có tính đến tuổi và mức độ trưởng thành
của trẻ em và trẻ em phải được tham khảo ý kiến, trường hợp cần thiết thì phải có sự
đồng ý của trẻ em.
Đối chiếu những quy định trên của Công ước với quy định của pháp luật Việt
Nam cho thấy về cơ bản, các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con
nuôi theo các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam khá tương thích với các quy
định của Công ước Lahaye năm 1993. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có đầy đủ
các quy định cần thiết để bảo đảm đúng yêu cầu về trình tự, thủ tục giải quyết vệc

nuôi con nuôi theo đúng chuẩn mực Công ước như: chưa có quy định đảm bảo đầy đủ
quyền quyết định của Cục con nuôi với tư cách là cơ quan trung về nuôi con nuôi
quốc tế.
2. Những quy định còn chưa tương thích
2.1. Về điều kiện người được nhận nuôi
Theo Điều 3 Công ước Lahaye thì người được nhận nuôi là trẻ em dưới 18
tuổi. Theo hướng dẫn của Ủy ban thường trực Công ước Lahaye thì quy định này chỉ
nhằm mục đích xác định phạm vi áp dụng của Công ước chứ không có ý tạo lập độ
tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi; tức nếu nước gốc cho trẻ em làm con nuôi ở
độ tuổi thấp hơn, ví dụ như 15 tuổi thì pháp luật nước gốc sẽ được áp dụng mà không
tính đến Điều 3 Công ước.
Theo pháp luật Việt Nam, Điều 8 Luật nuôi con nuôi, người được nhận làm con
nuôi là: “1. Trẻ em dưới 16 tuổi. 2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc
một trong các trường hợp sau đây :a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; b)
Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi”.Nhận thấy, phạm vi trẻ em có thể
được nhận làm con nuôi theo pháp luật Việt Nam hẹp hơn so với công ước Lahaye.
Trẻ em Việt Nam dưới 16 tuổi và một số trường hợp nhỏ từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi
mới có thể được nhận làm con nuôi trong khi theo công ước Lahay thì người có thể
được nhận làm con nuôi là người dưới 18 tuổi. Nên chăng cần mở rộng phạm vi trẻ
em có thể được làm con nuôi theo pháp luật Việt Nam cho phù hợp với thông lệ quốc
tế. Mặt khác việc quy định trẻ em từ 16 đến dưới 18 tuổi có thể được làm con nuôi sẽ
mang đến nhiều cơ hội hơn cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn bởi phần lớn trẻ em
trong độ tuổi này ở nước ta khó có thể tìm được một công việc ổn định để tự nuôi

5


sống bản thân, việc phải bươn chải kiếm sống quá sớm có thể khiến các em dễ bị lôi
kéo, dụ dỗ vào con đường phạm pháp.
2.2. Về thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi

Điều 6 Công ước quy định các nước nhận và nước gốc phải chỉ định một cơ
quan trung ương có thẩm quyền để thực hiện việc cho – nhận con nuôi quốc tế, cơ
quan này không chỉ là đầu mối về thông tin mà còn quyết định việc cho – nhận con
nuôi quốc tế. Theo Điều 8, Điều 9 Công ước, cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế
có nghĩa vụ áp dụng trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc với sự giúp đỡ của các cơ quan
công quyền, tất cả các biện pháp thích hợp nhằm ngăn ngừa và xử lý kịp việc thu lợi
bất hợp pháp từ việc nuôi con nuôi; thu thập, lưu giữ và trao đổi thông tin liên quan
đến trẻ em và cha mẹ nuôi tương lai... Như vậy, về mặt quốc tế, cơ quan trung ương
có chức năng hợp tác với cơ quan trung ương của các nước ký kết khác và thúc đẩy
sự hợp tác giữa những nhà chức trách có thẩm quyền của các quốc gia đó. Công ước
Lahaye cũng quy định các quốc gia thành viên có thể thành lập hoặc cho phép tổ
chức trong nước hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi (gọi là tổ chức đươc ủy
quyền).
Theo pháp luật Việt Nam, Cục con nuôi thuộc Bộ tư pháp được coi là cơ quan
trung ương về nuôi con nuôi. Đến nay, chức năng, nhiêm vụ, quyền hạn của Cục Con
nuôi được quy định trong Quyết định số 2278/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ tư pháp
ngày 4/12/2008. Theo đó, Cục Con nuôi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan
trung ương về nuôi con nuôi quốc tế của Việt Nam theo các Điều ước quốc tế về hợp
tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước, có chức năng tham mưu, giúp Bộ
trưởng thực hiện quản lý Nhà nước về lĩnh vực nuôi con nuôi; giải quyết các việc về
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên, cần có
biện pháp tăng cường năng lực, biên chế và quyền hạn của Cục Ccn nuôi để ngang
tầm với chức năng, nhiệm vụ theo yêu cầu của Công ước. Hiện tại, Cục con nuôi có
nhiệm vụ quản lý việc nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài trên phạm vi toàn
quốc, đồng thời là cơ quan tác nghiệp giải quyết hồ sơ của người nước ngoài nhận trẻ
em Việt Nam làm con nuôi. Tuy nhiên, thẩm quyền quyết định cuối cùng lại thuộc về
UBND cấp tỉnh nơi trẻ em thường trú (Điều 9 Luật nuôi con nuôi: “Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thường trú của người được giới thiệu làm
con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở tư pháp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương đăng kí việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài”. Có

nhiều trường hợp, Bộ tư pháp đã hoàn tất các thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi
nhưng cuối cùng UBND cấp tỉnh lại không ra quyết định cho trẻ em Việt Nam làm
con nuôi, hoặc thời hạn chờ đợi để ra quyết định ở địa phương là rất lâu. Điều này có
ảnh hưởng đến việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em, nhất là đối với những trẻ cần sự
chăm sóc đặc biệt. Bộ Tư pháp chưa chủ động quyết định cho trẻ em làm con nuôi
người nước ngoài, vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
6


Như vậy, có thể nhận thấy là ở Việt Nam có nhiều cơ quan tham gia vào việc
giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cục con nuôi thuộc Bộ tư pháp với tư
cách là cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế của Việt Nam chưa phát huy được
chức năng của mình, chưa có đầy đủ khả năng và thẩm quyền cần thiết giống như ở
các nước thành viên Công ước Lahaye. Trên thực tế, Cục con nuôi mới chỉ thực hiện
chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi và tham gia một số khâu
trong quá trình giải quyết hồ sơ mà chưa được trao quyền quyết định việc cho nhận
con nuôi. Cục con nuôi chưa xứng tầm với cơ quan trung ương theo Công ước
Lahaye. Để tăng cường vị thế, vai trò của cơ quan trung ương của Việt Nam khi tham
gia Công ước Lahaye, Cục con nuôi phải được tăng thẩm quyền, kiện toàn tổ chức và
hoạt động. Thêm nữa, hình thức về tổ chức ủy quyền cũng chưa được quy định trong
các văn bản pháp luật, mặc dù không có quy định cấm.
2.3. Về hệ quả pháp lý
Tại Điều 26 và Điều 27, Công ước Lahaye ghi nhận hệ quả việc nuôi con nuôi
bao gồm công nhận mối quan hệ pháp lí giữa cha mẹ – con, trách nhiệm của cha mẹ
nuôi đối với trẻ em, công nhận việc cắt đứt hay không mối liên hệ tồn tại trước đó
giữa đứa trẻ và cha mẹ đẻ theo pháp luật của nước nơi thực hiện việc nuôi con nuôi.
Trong các hệ quả pháp lí nêu trên thì nội dung quan trọng nhất là xác định việc
chấm dứt hay không chấm dứt quan hệ giữa đứa trẻ với cha mẹ đẻ tương ứng với hai
hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn và nuôi con nuôi đơn giản phụ thuộc vào quy định
của pháp luật quốc gia. Hình thức nuôi con nuôi trọn vẹn được áp dụng chủ yếu với

người được nuôi là trẻ em dưới 15 tuổi, hệ quả làm phát sinh đầy đủ quan hệ giữa cha
mẹ nuôi với con nuôi và chấm dứt quan hệ với cha mẹ đẻ, không còn thừa kế tài sản
của nhau nữa, trẻ em mang họ và quốc tịch của cha mẹ nuôi. Còn với hình thức nuôi
con nuôi đơn giản được áp dụng chủ yếu với người được làm con nuôi trên 15 tuổi,
đã thành niên hoặc nuôi con nuôi giữa họ hàng thân thích thì cả hai mối quan hệ giữa
đứa trẻ với cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ đều còn tồn tại, giữa họ vẫn có quan hệ thừa
kế, người con mang họ đồng thời của cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ. Cần lưu ý là hình
thức nuôi con nuôi trọn vẹn không thể hủy bỏ còn nuôi con nuôi đơn giản thì có thể
chuyển đổi sang hình thức trọn vẹn hoặc bị hủy bỏ trong trường hợp tòa án xét thấy
có lý do nghiêm trọng.
Theo pháp luật Việt Nam, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không hề quy
định việc đứa trẻ đã cho làm con nuôi có làm chấm dứt quan hệ pháp lý với cha mẹ
đẻ hay không. Còn trong BLDS năm 2005 (Điều 676) có quy định vẫn giữ mối quan
hệ pháp lý giữa con nuôi và cha mẹ đẻ về thừa kế; nghĩa là pháp luật Việt Nam cho
phép tồn tại song song hai mối quan hệ đó. Luật nuôi con nuôi ra đời, tại Điều 24 quy
định rằng trẻ em khi được nhận làm con nuôi chỉ có mối quan hệ giữa đứa trẻ và cha
mẹ nuôi cũng như các thành viên khác của cha mẹ nuôi. Nó có thể bị thay đổi, họ tên,
7


dân tộc theo yêu cầu của cha mẹ nuôi. Cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm
sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng... Tức là, trẻ em Việt Nam không còn có quan hệ pháp lý
với cha mẹ đẻ. Thêm nữa, vấn đề quốc tịch của người được nhận nuôi cũng có sự
chưa tương đồng. Theo Điều 37 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì trẻ em là công
dân Việt Nam được người nước ngoài nhận nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam;
trong khi đó theo Công ước nếu như nhận nuôi con nuôi theo hình thức trọn vẹn thì
con nuôi sẽ mang quốc tịch của cha mẹ nuôi. Điều này gây nên sự mâu thuẫn khá cơ
bản khi nhận nuôi con nuôi.

8




×