Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.68 KB, 15 trang )

Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

MỞ ĐẦU
Thuế là một thực thể do nhà nước đặt ra thông qua việc ban hành các văn bản
pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ quy định nội dung các loại
thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo
thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hóa các chính sách kinh tế - xã
hội của nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế
- xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự
thay đổi phương thức can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, cần
có những giải pháp tối ưu để nâng cao vao trò pháp luật thuế ở nước ta trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Để làm rõ những nhận định trên nên em chọn đề bài: “ Vai trò của pháp luật
thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em còn nhiều thiếu
xót, mong thầy cô bổ sung góp ý để em hoàn thiện bài viết của mình hơn.

Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

1


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09



NỘI DUNG
I. Khái quát chung về pháp luật thuế
1. Khái niệm thuế
Thuế là khoản nộp mang tính bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật
do cơ quan có thẩm quyền ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực
tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng xã hội mà do chính
con người định ra và nó gắn liền với phạm trù nhà nước và pháp luật.
2. Khái niệm pháp luật thuế
Nghiên cứu quá trình hình thành pháp luật thuế ở Việt Nam cho thấy pháp
luật ra đời rất sớm. Nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực, sử dụng công cụ
riêng là pháp luật để tập trung của cải xã hội mà không phụ thuộc vào ý chí của đối
tượng nắm giữ của cải đó. Điều này cũng giúp cho việc phân biệt giữa luật thuế với
luật ngân sách nhà nước mặc dù giữa luật thuế và luật ngân sách nhà nước có mối
quan hệ nội tại. Quan hệ thu, nộp thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện
dựa trên căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế.
Do đó, pháp luật thuế là “tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để
thực hiện các mục tiêu xác định trước”.
Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định danh giới giữa các
nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được
hiệu quả điều chỉnh cao.
3. Quan hệ pháp luật thuế
Để phục vụ lợi ích của mình và tạo ra trật tự chung cho xã hội, nhà nước
dùng quy phạm pháp luật như một quy tắc xử sự chung nhằm tập trung nguồn thu từ

Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02


2


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

thuế vào ngân sách nhà nước. Quan hệ thu, nộp thuế thực hiện trên cơ sở các quy
phạm pháp luật đã trở thành quan hệ pháp luật thuế.
Quan hệ pháp luật thuế mang một số đặc điểm sau:
Thứ nhất,quan hệ pháp luật thuế mang nặng tính quyền uy. Hệ quả của quan
hệ pháp luật thuế là sự chuyển giao một khối lượng tài sản từ người nộp thuế cho
nhà nước, vì vậy việc nộp thuế không phải là sự lựa chọn của đối tượng nộp thuế
mà do yêu cầu của nhà nước.
Thứ hai,quan hệ pháp luật thuế thường quy định cụ thể những quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ.
Thứ ba, một bên tham gia quan hệ pháp luật thuế bao giờ cũng là cơ quan
quản lý thuế.
Nội dung quan hệ pháp luật thuế bao gồm:
- Căn cứ pháp lý hình thành quan hệ pháp luật thuế cụ thể, thường được ghi
nhận rõ trong các quyết định của cơ quan quản lý thuế;
- Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế, gồm hai chủ thể cơ bản là các cơ
quan quản lý, thu thuế và đối tượng nộp thuế;
- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế;
- Sự kiện pháp lý trong quan hệ pháp luật thuế là những sự kiện thực tế làm
xuất hiện các điều kiện của chủ thể nộp thuế, được pháp luật ghi nhận rõ.
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
1. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế và công bằng xã hội
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành

nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và
công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân.

Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

3


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên
giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều
kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp
luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử
dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục sự mất cân đối về mặt xã hội
trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm công cụ
để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ thông qua
các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các
đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về
cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất... đều có tác động đến thu
nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp
luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế
suất...Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của
pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế
thị trường.

2. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều chỉnh quan hệ
pháp luật thu – nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách nhà nước. Vấn đề đặt ra là,
pháp luật thuế có vai trò đến đâu và cần phải tồn tại ở mức độ thế nào để đáp ứng về
nguồn thu ngân sách nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với
các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng,
Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

4


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước. Theo kết quả nghiên
cứu về lịch sử tồn tại và pháp triển của thuế qua các thời kỳ, ở các quốc gia đã cho
thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách Nhà nước. Ở Việt Nam, từ
những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu
ngân sách Nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một
phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước” như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế
chiếm khoản 90% tổng thu ngân sách Nhà nước (theo Chiến lược cải cách hệ thống
thuế giai đoạn 2001 – 2010). Điều này lý giải cơ cấu cân đối ngân sách Nhà nước
được pháp luật ghi nhận. Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước quy định rõ “Ngân sách
Nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn
tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào đầu tư phát

triển”.
Chính vì những lý do trên, bất kì quốc gia nào cũng cần phải có và mong
muốn có được hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lỹ vững
chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ
thống luật thuế, từng nội dung luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu
ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vây, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế
trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
3. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế,thực hiện
đường lối trong một thời kì nhất định của đất nước
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước như trình bày ở
trên, pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền
kinh tế. Điều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế
quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp
luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hóa và thực
hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường thông qua các quy định của
pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn
Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

5


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

giảm thuế…Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai
trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động
đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của

các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc
hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết tới mọi mặt của đời
sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của
mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thong qua đó thực hiện
công bằng xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, các nhân có thể tồn tại và vận động
theo nhu cầu và lợi ích của chính họ, điều này có thể tổn thương đến trật tự xã hội
cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn ở mỗi quốc gia. Giải quyết
vấn đề này, pháp luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào hoạt
động, vào quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm đạt được mục tiêu nhất định của
nhà nước. Thong qua hệ thống pháp luật thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu
tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu
đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa nghịa vụ
thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng bị hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh
hưởng đến cơ hội tìm kiếm thu nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay
đổi lường chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp
luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu trên.
Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác nhau
đối với từng ngành nghề, các mặt hang hay các loại thu nhập đều có thể tác động
đến các ngành nghề . qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền
kinh tế.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều
chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc
gia có những định hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt
Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ
chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại, trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ
Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

6



Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết
yếu của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp
luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội.
4. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt
động sản xuất kinh doanh
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế, các cơ quan quản lý thuế
cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn
với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức
kinh doanh, cơ cấu tổ chức…Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn
đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế, trên cơ sở
đó có hệ thông pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng
trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các
đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân
thủ pháp luật thuế, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát
hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm
trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
III. Thực trạng việc áp dụng thuế ở Việt Nam
Nguồn thu thuế ở nước ta chiếm tỷ trọng còn hạn chế trong tổng thu Ngân
sách Nhà nước với khoảng 60% trong khi đó các nước phát triển trên 90% trong đó
thì:
Thuế nhập khẩu đóng góp tới 1/3 tổng thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên,
khoản thu này đang giảm đi do các hiệp định tự do hóa thương mại mà Việt Nam
đang tham gia.

Thu từ thuế gián thu chiếm tỷ trong lớn trong đóng góp ngân sách Nhà nước,
45% trong giai đoạn 2001 – 2005. Các loại thuế gián thu ở Việt Nam bao gồm thuế
xuất khẩu – thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, phí xăng,
dầu.
Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

7


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

Kể từ khi gia nhập WTO, thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và
VAT hàng nhập khẩu bị giảm sút do cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu nhập nhập
khẩu giảm theo.
Kinh tế thế giới khủng hoảng và kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động mạnh,
theo dự kiến thì tăng trưởng kinh tế 2009 chỉ dạt 5-6%, chỉ số giá tiêu dùng tăng
dưới 9% sẽ làm cho Ngành thuế quản lý 2009 giảm thu khoảng 5 – 7% so với dự
toán được giao.
Ngoài ra chính sách giãn thuế và giảm thuế cũng đã làm cho giảm thu thuế 5
– 6% so với được giao thêm nữa là giá cả của dầu thô dao động trong khoản 70
USD cũng làm giảm thu ngân sách.
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, việc thực hiện các giải pháp về thuế
làm giảm số thu ngành thuế năm 2009 khoảng 16 – 20% so với dự toàn được giao.
Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống
thất thu thuế xem ra chưa hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu được với các
đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn
thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không những thể hiện trong thuế thu nhập

cá nhân mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá trị gia tăng. Rất nhiều doanh nghiệp,
khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho khách hàng, còn khách hàng thì rất
nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa đơn. Phần lớn khoản doanh thu không
nhỏ đó Nhà nước không thu được thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập
doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà
còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình chung tạo thêm
sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Thanh tra Chính phủ đã có một cuộc điều tra về tổng lượng thất thu của
ngành thuế trong thời gian qua. Thanh tra chính phủ cho biết, sau khi hoàn tất việc
thanh tra tại Tổng Cục thuế, Cục thuế Hà Nội và Cục thuế Tp Hồ Chí Minh đã phát
hiện nhiều sai phạm với số tiền hơn 11.000 tỷ đồng.

Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

8


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

Thanh tra Chính phủ cho rằng, việc Bộ Tài Chính, Tổng cục thuế và một số
Cục thuế địa phương ban hành văn bản không đúng quy định của pháp luật về thuế
đã dẫn đến thất thu thuế và trực tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, kinh
doanh.
Tổng số tiền thuế thất thoát do một số văn bản không đúng quy định của
pháp luật được ban hành là hơn 373 tỷ đồng. Trong đó, việc hướng dẫ miễn, giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng đầu vào đốiới hoạt động dịch vụ
cung cấp suất ăn công nghiệp cho doanh nghiệp chế xuất không đúng quy định đã
làm thất thu 233,4 tỷ đồng.

Ưu đãi thuế là những quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể nộp
thuế trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chia sẻ gánh nặng thuế khi chủ thể
nộp thuế gặp những sự cố khách quan bất lợi (thiên tai, dịch họa, tai nạn bất ngờ…).
Chính sách ưu đãi thuế chỉ thực sự có hiệu quả khi việc triển khai thực hiện được
nhanh chóng và đúng đối tượng.
Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, những hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm
thuế hoặc hoàn thuế bị cơ quan thuế xử lý một cách chậm trễ. Đôi khi, công chức
quản lý thuế còn đòi hỏi những điều kiện về giấy tờ, hồ sơ, sổ sách vượt ra ngoài
những yêu cầu của pháp luật. Không kể đến mục đích gây khó khăn để thực hiện
hành vi tham nhũng, thì những yêu cầu quá mực này đã cản trở chủ thể nộp thuế
thực hiện quyền của mình một cách hợp pháp, làm giảm hiệu ứng tốt của chính sách
ưu đãi thuế.
IV. Nguyên nhân và giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
1. Nguyên nhân
Một là, trình độ công chức quản lý thuế còn nhiều hạn chế.
Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật thuế có nhiều thay đổi căn
bản, số lượng chủ thể nộp thuế ngày càng nhiều hơn. Bên cạnh đó, những thủ đoạn
gian lận thuế ngày càng tinh vi hơn đã gây khó khăn không nhỏ cho công tác quản
Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

9


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

lý thuế. Mặc dù hầu hết công chức quản lý thuế đều ý thức được việc trau dồi, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng mức độ không đồng đều. Nhiều địa phương,

trình độ học vấn của công chức quản lý thuế chưa đáp ứng được yêu cầu công tác,
nên khi thực hiện công tác áp dụng pháp luật còn nhiều lúng túng, làm sai hoặc sợ
làm sai dẫn đến chậm trễ trong việc ra quyết định.
Bên cạnh đó, chính vì nhận thức không đúng về vai trò của chủ thể nộp thuế,
nên một số công chức thuế luôn giữ quan niệm, chủ thể nộp thuế là “những kẻ
muốn trốn thuế”, nên nhiều trường hợp, đáng lẽ có thể giải quyết ngay, nhưng vẫn
cẩn thận kiểm tra, gây ách tắc, chậm trễ, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Hai là, ý thức chấp hành pháp luật thuế của nhiều chủ thể nộp thuế còn yếu
kém.
Việc nộp thuế là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật
nhằm đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, và đồng thời để nhà nước
thực hiện các chức năng của mình. Tuy nhiên, do các lợi ích nhận được của nhà
nước thường không cụ thể, nên đối với một số chủ thể nộp thuế, những thiệt hại vật
chất cụ thể dường như lớn hơn so với những giá trị vô hình mà nhà nước đem lại.
Chính vì vậy, thay vì hợp tác, nhiều chủ thể nộp thuế sử dụng nhiều thủ đoạn để làm
giảm số thuế phải nộp một cách trái pháp luật.
Bên cạnh đó, cũng cần phải nhận thức rằng, ý thức chấp hành pháp luật thuế
không phải có được ngay lập tức bằng các mệnh lệnh hành chính. Nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn non trẻ, do vậy chưa đủ thời gian để các cá
nhân, tổ chức trong xã hội thật sự quen với những đòi hỏi của nó, trong đó có nghĩa
vụ nộp thuế. Ý thức chấp hành pháp luật được nâng lên thông qua nhiều phương
thức, trong đó, công tác tuyên truyền phổ biến phải được thực hiện hiệu quả. Theo
đánh giá của chúng tôi, mặc dù đã có nhiều chuyển biến, nhưng công tác tuyên
truyền phổ biến pháp luật thuế hiện nay còn cứng nhắc, chung chung, do vậy hiệu
quả còn nhiều hạn chế.

Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

10



Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

Ba là, cơ sở hạ tầng đầu tư cho ngành thuế còn chưa thỏa đáng để đáp ứng
nhu cầu nhiệm vụ.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ
thông tin, thì những ứng dụng tiến bộ này vào hoạt động quản lý nhà nước ngày
càng được đẩy mạnh. Với số lượng rất lớn các chủ thể nộp thuế, việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào công tác quản lý thuế như khai thuế qua mạng internet, phần
mềm dữ liệu quản lý thông tin người nộp thuế, các trang website thông tin về ngành
thuế…, nếu được đầu tư thoả đáng sẽ đem lại những cải thiện đáng kể, nhằm giảm
chi phí xã hội dành cho công tác quản lý thuế, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, hiện nay, việc triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho ngành
thuế nhìn chung còn chậm và chưa đồng đều, cùng với hạn chế trong công tác đào
tạo công chức quản lý thuế và chủ thể nộp thuế về các kỹ năng cần thiết để sử dụng
công nghệ thông tin, nên đã hạn chế đáng kể đến hiệu quả áp dụng pháp luật.
2. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế
Thứ nhất, kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận
thức của mỗi cán bộ thu thuế, mặc khác cũng tăng cường thanh tra kiểm tra để phát
hiện và xử lý ngay sai phạm.
Cơ quan thuế các cấp sẽ thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân tích, dự
báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, làm
rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.
Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy
giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới
và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách Nhà nước của khối Doanh

nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy
giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước.
Ngành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các ngành,
các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, giá
Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

11


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

cả, xử lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất
của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu
tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, công tác thanh tra, kiểm tra sẽ được ngành Thuế đẩy mạnh và làm
quyết liệt trong thời gian tới. Theo đó, ngành thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý
triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng
mắc về nợ thuế, tập trung lực lượng triển khai các biện pháp thu hồi nợ thuế, triển
khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để lựa chọn những đối tượng có
dấu hiệu gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc biệt tập trung
vào nhóm doanh nghiệp lớn, các Tập đoàn, tổng công ty, các địa bàn trọng điểm có
số thu lớn, các ngành hàng, các lĩnh vực, các loại hình tổ chức có dấu hiệu thất thu
lớn. Tập trung tổng hợp, rà soát các kết quả sau thanh tra để có biện pháp xử lý đôn
đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh tra đã kết luận vào ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện nhanh chóng hệ thống pháp luật thuế theo hướng:
- Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, có nghĩa là phải
huy động mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất

vừa phải và đơn giản (thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế).
- Xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: Mục tiêu của thuế chủ yếu là
kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho ngân sách Nhà nước, không nên đặt ra
cho thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội.
- Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các
tầng lớp dân cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, chống thuế chồng lên thuế.
- Đơn giản hóa chính sách thuế, đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ
hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận.
- Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều
tiết thu nhập hợp lý, tạo công bằng xã hội.
Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

12


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

- Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình
trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm
soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế.
- Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản
của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội.
- Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng
nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không
hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được.
Thứ ba, tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát triển

cơ sở hạ tầng ngành thuế.
Như trên đã phân tích, sự phát triển ngày càng phức tạp của nền kinh tế đòi
hỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng phải phát triển tương
xứng. Bên cạnh đó, những cải cách trong hoạt động quản lý Nhà nước và ứng dụng
công nghệ thông tin đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải được bồi dưỡng
nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công tác. Cơ sở hạ tầng ngành thuế cũng cần
phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của công việc, giảm thiểu
thời gian và chi phí cho chủ thể nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
Thứ tư, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và
dân cư.
Về các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thức trách
nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho dân
biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, đây là một sức mạnh to lớn để thực hiện chính
sách trốn thuế, lậu thuế…
Như vậy, cần thực hiện tốt những biện pháp để tăng cường hiệu quả trong
việc hoàn thiện pháp luật thuế ở nước ta hiện nay.
Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

13


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

KẾT LUẬN
Như vậy, đối với một nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam,
pháp luật thuế có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Không
những tập chung huy động một phần của cải cho ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của nhà nước mà còn góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo động lực

chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Thực hiện những giải pháp nói trên sẽ phát huy
được hết vai trò của pháp luật thuế, thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển theo
hướng kinh tế thụ trường và nhanh chóng hội nhập quốc tế.

Bài viết của em đến đây là kết thúc !
Em xin cảm ơn sự theo dõi của thầy cô !

Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

14


Bài tập học kì môn Luật tài chính Việt Nam

Đề số: 09

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb Công an,
Hà Nội, 2008. (Chương I, Những vấn đề cơ bản về pháp luật thuế).
2. Phạm Thị Giang Thu, “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số
3, tháng 3/2008.
3. Ths Trần Vũ Hải – Đại học Luật Hà Nội, “Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực
thuế”, luattaichinh.wordpress.com.
4. Luật quản lý thuế năm 2006.
5. Luật ngân sách nhà nước 2002.
6. Phạm Thị Giang Thu, “Phát triển bền vững và một số vấn đề đặt ra cho hệ
thống pháp luật thuế Việt Nam”, Tạp chí luật học, số 5/2009.
7.


8.

Phạm Hồng Ngân – MSSV: 362326 – Lớp: N06.TL4 – Nhóm: 02

15



×