Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

A và b là vợ chồng trước khi cưới, b đã có người yêu nhưng do gia đình ép gả nên phải lấy a vì thế, dù đã có chồng nhưng b vẫn nói dỗi a là đi bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.17 KB, 12 trang )

ĐỀ BÀI
Bài 2 :
A và B là vợ chồng. Trước khi cưới, B đã có người yêu nhưng do gia đình ép
gả nên phải lấy A. Vì thế, dù đã có chồng nhưng B vẫn nói dỗi A là đi bệnh viện để
lén gặp C (người yêu cũ) và thuê nhà sống với nhau như vợ chồng nhiều lần, mỗi
lần vài ngày. Biết chuyện, hai bên gia đình đã khuyên B chấm dứt quan hệ với C
nhưng B vẫn lén lút quan hệ với C nhiều lần nữa nên A rất tức giận. Một hôm B lại
lấy lý do đi khám bệnh nhưng thực tế là hẹn hò với C. A không tin nên chạy ra
đường cách nhà 200 mét thì thấy một thanh niên đang ngồi trên xe máy (xe có biển
kiểm soát trùng với biển kiểm soát của C mà A được thông báo). Quá tức giận kẻ
đã quyến rũ vợ mình, A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60 cm
phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy (mà A nghĩ là C) khi thấy
nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi. Giám định Pháp y kết luận : nạn nhân
chết do bị đánh vỡ đầu. Khi kiểm tra chứng minh thư của nạn nhân thì mới biết
nạn nhân không phải là C mà là H bạn của C. Do không biết mặt C nên A đã đánh
nhầm người. Lúc đó, C đang mua thuốc lá gần đó.
Hỏi :
1. Định tội cho hành vi của A trong vụ án trên ? [2 điểm]
2. Giả thiết rằng khi thấy H (mà A tưởng là C) A phang bừa vào người H với ý
thức "sống cũng được mà chết cũng mặc". Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ
thương tật là 45%) thì tội danh của A là gì ? Tại sao ? Nếu thực tế H bị chết thì tội
danh của A là gì ? Tại sao ? [2 điểm]
3. Có ý kiến cho rằng A phạm hai tội :
. Thứ nhất : Tội vô ý làm chết người (đối với H) vì H không phải là người mà A
muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng ;
. Thứ hai : Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn giết
nhưng C đã không bị chết.
Anh (chị) hãy phân tích ý kiến này là đúng hay sai và giải thích rõ tại sao ?
[3 điểm]



BÀI LÀM
1. Định tội cho hành vi của A trong vụ án trên :
Hành vi phạm tội của A đã cấu thành tội giết người theo Điều 93 BLHS. Để định tội
danh cho hành vi phạm tội của A, ta phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm như sau :
- Về chủ thể :
Chủ thể của tội giết người là chủ thể thường – là những người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định, đã thực hiện hành vi trái pháp luật : cố ý tước
đoạt tính mạng của người khác.
Dựa theo tình huống, ta thấy không đề cập tới việc A (là chồng của B) là người
không có năng lực trách nhiệm hình sự hay mất năng lực trách nhiệm hình sự. Có thể
mặc nhiên kết luận rằng A hoàn toàn có đủ điều kiện là chủ thể của tội giết người.
- Về khách thể :
Tội giết người xâm phạm trực tiếp vào quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ
tính mạng của con người. Đối tượng tác động của tội phạm này là những người đang
sống.
Tuy có sự nhầm lẫn về đối tượng, nhầm tưởng H là C, nhưng hành vi giết người
của A đã xâm phạm đến tính mạng của người ngồi trên xe máy là H (bạn của C). Như
vậy, hành vi của A đã xâm phạm tới quyền nhân thân, cụ thể là quyền được sống của H.
- Mặt khách quan của tội phạm :
* Hành vi khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng
của người khác. Hành vi tước đoạt tính mạng người khác được hiểu là hành vi có khả
năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ.
Trong tình huống này, A đã có hành vi giết H – người mà A nghĩ đó là C. Hành vi
này được diễn ra qua các tình tiết cụ thể như sau : A nhặt một khúc gỗ bên lề đường to
bằng cổ tay, dài 60 cm phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy (mà A
nghĩ là C) khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay bỏ đi.
Ta có thể thấy, A chỉ tấn công vào một điểm duy nhất đó là đầu của nạn nhân H.
Đầu là một bộ phận hiểm yếu trên cơ thể luôn phải được bảo vệ. Khi bộ phận này phải
2



chịu một sự tác động vật lý nào đó thì đều có thể gây tổn hại đến sức khỏe, tinh thần hay
nảy sinh nhiều biến chứng khó hồi phục và đặc biệt là nguy cơ tử vong hoàn toàn có thể
xảy ra. A bằng hành động sử dụng phương tiện nguy hiểm (khúc gỗ to bằng cổ tay, dài
60 cm) phang vào đầu người ngồi xe máy là H, đã cho thấy đây là hành vi hết sức nguy
hiểm, nhằm làm chấm dứt sự sống của người ngồi trên xe máy mà y nghĩ là C. Hơn nữa,
A không chỉ đánh vào đầu người ngồi trên xe máy một nhát mà là đánh mạnh, tới mấy
nhát, cho đến khi thấy nạn nhân gục ngã A mới dừng tay. Điều này chứng tỏ hành vi của
A rất quyết liệt, rất nguy hiểm nhằm tước đoạt bằng được sự sống của nạn nhân.
* Hậu quả của tội phạm :
Hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội giết người là hậu quả
chết người. Tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn thành khi có hậu quả chết
người xảy ra.
Với dữ kiện của tình huống, hậu quả chết người đã xảy ra, cụ thể nạn nhân là H –
người ngồi trên chiếc xe máy mà A nghĩ đó là C đã bị chết vì hành vi phạm tội của A.
Theo giám định Pháp y kết luận : nạn nhân H tử vong do bị đánh vỡ đầu.
* Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người :
Người phạm tội chủ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
chính hành vi của mình gây ra. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu
quả chết người được thể hiện qua cái chết của nạn nhân là kết quả xuất phát từ hành vi
của người phạm tội và hành vi của người phạm tội đã mang đủ những điều kiện để tất
yếu dẫn đến hậu quả làm chết người.
Hành vi của A dùng cây gỗ phang vào đầu H và hậu quả là khiến H chết có mối
quan hệ nhân quả với nhau, cụ thể : A dùng khúc gỗ phang mạnh mấy nhát vào đầu H
đến khi H gục ngã mới dừng tay. Sự hỗ trợ của giám định pháp y đã cho thấy hành vi
của A làm H bị vỡ đầu và đây cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của H. Còn
hậu quả H chết do bị vỡ đầu xảy ra là kết quả của hành vi mà A đã thực hiện : dùng khúc
gỗ phang vào đầu H mấy nhát. Như vậy, có hành vi dùng khúc gỗ phang vào đầu H thì
mới có sự tử vong của H hay hành vi của A đã dẫn đến hậu quả nạn nhân H chết. Rõ

3


ràng, hành vi A dùng phương tiện nguy hiểm tác động mạnh, với cường độ lớn lên đầu H
và hậu quả H bị chết là có mối quan hệ nhân quả với nhau.
* Các yếu tố khác :
+ Địa điểm diễn ra hành vi giết người : ngoài đường, cách nhà vợ chồng A – B 200 mét
+ Hung khí đã sử dụng trong vụ án : khúc gỗ to bằng cổ tay, dài 60 cm (A nhặt được bên
lề đường)
- Mặt chủ quan của tội phạm :
* Lỗi của người phạm tội : Lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý và trong tình
huống này, A mang lỗi cố ý trực tiếp “nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội và thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.”
(Khoản 1 Điều 9 BLHS).
+ Về lý trí : Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó. A chắc chắn biết được đầu là một bộ
phận quan trọng của cơ thể, rất dễ bị tổn thương và nếu tấn công vào đó thì sẽ gây nguy
hiểm tới sức khỏe, thậm chí là tính mạng con người. Đồng thời, A hoàn toàn có thể nhận
thức được hành vi dùng khúc gỗ tấn công vào đầu H là hành vi trái pháp luật và rất nguy
hiểm cho xã hội nói chung và cho tính mạng của nạn nhân nói riêng. Khi A thực hiện
hành động phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy cho đến khi người này
gục ngã mới dừng tay, A cũng nhận thức được hậu quả xấu nhất là chết người hoàn toàn
có thể xảy ra và làm chết người là hành vi vô cùng nguy hiểm cho xã hội.
+ Về ý chí : Người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh.
Ở đây, A đã thực hiện hành vi giết người đến cùng khi dùng khúc gỗ đánh vào đầu
nạn nhân cho đến khi nạn nhân gục ngã mới dừng lại. Việc A chọn vị trí đánh vào đầu
nạn nhân chứ không phải là một bộ phận nào khác trên cơ thể cũng cho thấy A mong
muốn hậu quả chết người xảy ra.
* Động cơ, mục đích phạm tội : mặc dù đây không phải là dấu hiệu bắt buộc của CTTP
giết người nhưng với tình huống này, A giết người là có động cơ, mục đích.

Chị B là vợ của A đã nhiều lần nói dối A đi bệnh viện để lén lút gặp gỡ, thuê nhà
sống với người yêu cũ là C. Đã có sự khuyên can từ gia đình hai bên nhưng chị B vẫn
4


tiếp tục lén lút quan hệ với C và điều này khiến A rất tức giận. Một hôm B lại lấy lý do
đi khám bệnh nhưng thực tế là hẹn hò với C. A không tin nên chạy ra đường cách nhà
200 mét thì thấy một thanh niên đang ngồi trên xe máy (xe có biển kiểm soát trùng với
biển kiểm soát của C mà A được thông báo). Vì quá tức giận người đã quyến rũ vợ mình,
A đã có hành vi giết H – người ngồi trên xe máy mà A nghĩ đó là C.
Mở rộng hơn đối với tình huống này. Nhìn thấy người đang ngồi trên chiếc xe
máy (có biển kiểm soát trùng với biển kiểm soát của C – người tình của vợ mình, mà A
được thông báo), A cho rằng đó là C và đã thực hiện hành vi tấn công người đó bằng
cách nhặt khúc gỗ bên lên đường, phang mạnh mấy nhát vào đầu. Chúng ta cần làm rõ
xem hành vi của A có phải được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
hay không ?
Trong tình huống, đối tượng mà A muốn nhằm vào là C, nhưng tại thời điểm xảy ra
sự việc thì H đang ngồi trên xe của C và C đang đi mua thuốc lá gần đó. Ta cần xem xét
các tình tiết về mối quan hệ giữa C và B - vợ của A, về thời điểm và trạng thái của A khi
có hành vi phạm tội để kết luận được tội danh của A.
Nhóm chúng em cho rằng, khi thực hiện tội phạm, A không rơi vào trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh vì lý do :
+ Mối quan hệ giữa B và C : B (người đã có chồng là A) và C có hành vi lén lút gặp gỡ,
thuê nhà sống với nhau như vợ chồng nhiều lần, mỗi lần vài ngày. Có thể nói, C đã phá
vỡ hạnh phúc gia đình nhà A mà trong đó có sự tự nguyện vợ mình là B. Sự tự nguyện
được thể hiện qua việc B thường nói dối A với cái cớ đi khám bệnh để lén gặp C. Tuy
nhiên, hành vi "ngoại tình" không phải là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng mà nó chỉ
mang tính trái đạo lý, thuần phong mỹ tục.
+ Trạng thái của A khi thực hiện hành vi phạm tội không phải là trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh. Việc B và C có quan hệ lén lút với nhau, A và hai gia đình hai bên đều

đã biết. Mặc dù đã có sự khuyên bảo của gia đình hai bên nhưng B vẫn không chấm dứt
quan hệ với C, tiếp tục hẹn hò với C nhiều lần nữa, điều này A cũng biết và tỏ thái độ
tức giận. Vào một hôm khác, khi biết việc B lại lấy lý do đi khám bệnh, A hoàn toàn có
thể dự liệu được rằng B đang nói dối để lén lút gặp C. Đây không phải là yếu tố bất ngờ
5


hay diễn ra tức thì đối với A. Vì vậy, ở thời điểm phạm tội, A không hề rơi vào tình trạng
không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Như vậy, A phạm
tội không phải trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
+ Tại thời điểm xảy ra vụ án, chỉ có H đang ngồi trên xe máy, không hề có hành vi nào
trái pháp luật nghiêm trọng đối với A hoặc đối với người khác có quan hệ tình cảm thân
thuộc với A để khiến A có phản ứng bị kích động về tinh thần.
 Từ các phân tích trên, ta có thể kết luận A phạm tội giết người theo Điều 93 BLHS.
2. Giả thiết rằng khi thấy H (mà A tưởng là C) A phang bừa vào người H với ý
thức "sống cũng được mà chết cũng mặc". Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ
thương tật là 45%) thì tội danh của A là : Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác (Điều 104 BLHS). Nếu thực tế H bị chết thì tội danh
của A là : Tội giết người (Điều 93 BLHS)
Các yếu tố CTTP :
- Về chủ thể : Chủ thể của hai tội phạm theo quy định của Điều 93 và Điều 104 BLHS
đều là chủ thể thường.
Như đã phân tích tại câu 1, A (là chồng chị B) là người có năng lực trách nhiệm
hình sự. A hoàn toàn có đủ điều kiện là chủ thể của tội giết người (Điều 93 BLHS) và tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104 BLHS)
- Về khách thể :
Tội giết người và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác đều xâm hại tới quan hệ nhân thân được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động ở
hai tội phạm này là con người đang sống, đang tồn tại với tư cách là thực thể tự nhiên và
xã hội. Về khách thể trực tiếp, với trường hợp H bị chết thì A phạm vào tội giết người

(Điều 93 BLHS) nhằm xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính
mạng của cá nhân H. Còn đối với trường hợp H chỉ bị thương tích với tỉ lệ thương tật là
45% thì A phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(Điều 104 BLHS), xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe của H.
6


- Mặt khách quan của tội phạm :
+ Hành vi khách quan của tội giết người đưa đến hậu quả chết người và tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đưa đến hậu quả thương tích
cho người khác.
Hành vi của A là dùng khúc gỗ to bằng cổ tay, dài 60 cm phang bừa vào người H.
Qua hành vi có thể thấy được hậu quả tất yếu xảy ra đối với H là làm H bị chết hoặc
khiến H bị thương.
+ Công cụ, phương tiện phạm tội : Ở hai tội này, người phạm tội đều có thể sử dụng
công cụ, phương tiện thường gặp trong đời sống để gây án. A đã dùng khúc gỗ nhặt bên
lề đường, to bằng cổ tay, dài 60 cm để đánh vào đầu H (người A nghĩ đó là C). Đây là
một công cụ thô sơ nhưng nguy hiểm, hoàn toàn có thể gây thương tích cho nạn nhân
hoặc khiến hậu quả chết người xảy ra.
+ Hậu quả : Từ việc cùng là hành vi phạm tội tác động tới thân thể nạn nhân và có thể
dùng công cụ, phương tiện phạm tội nhất định thì chắc chắn sẽ có hậu quả thương tích
cho nạn nhân hoặc làm chết người. Hậu quả trong trường hợp này là H bị thương tích
với tỉ lệ thương tật là 45% hoặc H bị chết.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả : Trong mặt khách quan
của tội giết người và tội cố ý gây thương tích thì hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra
luôn có một quan hệ nhân quả với nhau. Hành vi phang bừa vào người H là nguyên nhân
khiến H bị thương hoặc khiến H bị chết.
- Mặt chủ quan của tội phạm : Lỗi của A trong trường hợp này là lỗi cố ý gián tiếp mà
khoản 2 Điều 9 BLHS quy định :“Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong

muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.” Áp dụng vào tình huống, ta
thấy :
+ Về lý trí : A nhận thức được hành vi dùng gậy phang bừa vào người H (A nghĩ là C) là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có thể gây tổn hại cho sức khỏe hay tính mạng của H.
7


+ Về ý chí : A có ý thức “sống cũng được mà chết cũng mặc”. Như vậy, A bỏ mặc hậu
quả cho hậu quả là nạn nhân có thể bị thương tích hoặc có thể chết xảy ra và A chấp
nhận những hậu quả.
Cùng một hành vi phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp, hậu quả xảy ra khác nhau dẫn đến
khách thể trực tiếp bị xâm phạm cũng khác nhau, từ đó việc định tội danh của người
phạm tội cũng khác nhau. Với giả thiết về hai hậu quả, ta có hai trường hợp định tội cho
hành vi của A :
- Trường hợp 1 : Nếu thực tế H chỉ bị thương tích (tỉ lệ thương tật là 45%)
Với hậu quả xảy ra trên thực tế là H bị thương tật tỉ lệ 45% thì khách thể trực tiếp
của tội phạm này là quyền được bảo về sức khỏe của con người. Vì thế, trong trường
hợp này. A đã mang tội danh : Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe
của người khác theo Điều 104 BLHS.
- Trường hợp 2 : Nếu thực tế H bị chết
Với hậu quả xảy ra trên thực tế là H bị chết thì khách thể trực tiếp của tội phạm này
là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Vì vậy, đối với
trường hợp này, A đã mang tội danh : Tội giết người theo Điều 93 BLHS.
3. Có ý kiến cho rằng A phạm hai tội. Thứ nhất : Tội vô ý làm chết người (đối với H)
vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng ; Thứ hai :
Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn giết nhưng C đã
không bị chết. Ý kiến này là Sai . Nhóm chúng em phân tích dựa theo ý kiến về hai tội
danh của A đã cho và đối chiếu với các tình tiết của tình huống để chứng minh ý kiến
này là sai :
* Thứ nhất : tội vô ý làm chết người (đối với H), vì H không phải là người mà A muốn

giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng.
Khoản 1 Điều 98 BLHS về tội vô ý làm chết người có quy định : "Người nào vô ý
làm chết người thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm."

8


- Về khách thể : Tội vô ý làm chết người và tội giết người có cùng khách thể là quyền
được sống, quyền được tôn trọng và bảo hộ tính mạng ; cùng đối tượng tác động của tội
phạm là con người đang sống.
Trong tình huống, A đã xâm phạm tới tính mạng của H (người mà A nghĩ đó là C).
Như vậy, A đã có sự sai lầm về đối tượng khi thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, sự sai lầm
về đối tượng không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Dù là C hay
H là nạn nhân của hành vi phạm tội này thì họ đều là con người đang sống. Việc A thực
hiện hành vi xâm phạm tới tính mạng con người tức là đã xâm hại tới quan hệ nhân thân
được luật hình sự bảo vệ.
- Về mặt chủ quan : Với tội vô ý làm chết người theo Điều 98 BLHS, lỗi của người
phạm tội là lỗi vô ý (có thể là vô ý do quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả) ; tội giết người
theo Điều 93 BLHS thì lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý .
Như đã phân tích ở câu 1, hành vi nhặt khúc gỗ bên lề đường to bằng cổ tay, dài 60
cm phang mạnh mấy nhát vào đầu người ngồi trên xe máy cho đến khi thấy nạn nhân
gục ngã mới dừng tay bỏ đi của A là hành vi được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. A
mong muốn tước đoạt được tính mạng của nạn nhân và kiên quyết thực hiện tội phạm
đến cùng. Từ việc nhặt khúc gỗ nhằm chuẩn bị công cụ gây án cho đến việc phang liên
tiếp vào vị trí đầu của nạn nhân và đánh cho đến khi nạn nhân gục ngã. Tất cả những
hành vi này đều thể hiện mong muốn tước đoạt sinh mạng của H (mà A nghĩ đó là C).
- Về mặt khách quan :
+ Hậu quả của hành vi phạm tội : hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành tội phạm chết người.
Trên thực tế, hậu quả xảy ra là H chết do bị đánh vỡ đầu. Ngay tại thời điểm vụ án

xảy ra, hậu quả chết người này hoàn toàn nằm trong ý chí của A. Đó là hậu quả mà A dự
liệu được và y mong muốn thực hiện đến cùng. Trong tội vô ý làm chết người, tại thời
điểm xảy ra vụ án, hậu quả nằm ngoài ý chí của người phạm tội.
+ Về hành vi khách quan :
Ở tội vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS), người phạm tội có hành vi vi phạm
quy tắc an toàn. Đó là những quy tắc nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho
9


con người. Chính việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các
quy tắc nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe con người đã gây nên hậu quả
làm chết người. Nhưng với các tình tiết đã cho về hành vi của A thì không có chi tiết nào
liên quan tới hành vi vi phạm những quy tắc an toàn cả.
Tình huống đã cho thấy, A chủ động dùng khúc gỗ to bằng cổ tay, dài 60 cm phang
mạnh vào đầu H, người ngồi trên xe máy mà A nghĩ đó là C. Đây là hành vi dùng vũ lực,
thông qua công cụ tác động lên thân thể nạn nhân và đó là hành vi trực tiếp dẫn đến cái
chết của H.
 A đã phạm tội giết người theo Điều 93 BLHS chứ không phạm tội vô ý làm chết
người theo Điều 98 BLHS.
* Thứ hai : Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn giết
nhưng C đã không bị chết.
Căn cứ pháp lý của phạm tội chưa đạt là khoản 1 Điều 18 BLHS có quy định :
“Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì
những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.” Theo Điều 18 BLHS thì đối với
phạm tội chưa đạt, người phạm tội phải cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện
được đến cùng.
Xét 3 dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt, ta có :
+ Dấu hiệu thứ nhất : Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm
Ở tình huống này, A đã thực hiện hành vi tước đoạt sinh mạng của nạn nhân bằng
việc dùng khúc gỗ đánh cho đến chết người ngồi trên xe máy. Tuy nhiên, A lại thực hiện

hành vi đó đối với H (là bạn của C). Do sự nhầm tưởng người ngồi trên xe máy là C chứ
không phải ai khác, nên A đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội để dẫn đến hậu quả chết
người đối với C, nhưng không ngờ nạn nhân là H. Lúc xảy ra sự việc trên, C đang đi
mua thuốc lá gần đó. Như vậy, A chưa có hành vi nào xâm hại đến sức khỏe hay tính
mạng của C hay A chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đối với C.

10


+ Dấu hiệu thứ hai : Người phạm tội không thực hiện tội phạm đến cùng (về mặt pháp
lý), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của
CTTP.
Từ câu 1 phân tích về hành vi của A, ta thấy A đã thực hiện hết các hành vi thuộc
mặt khách quan của tội giết người và trên thực tế, hậu quả chết người do bị đánh vỡ đầu
đã xảy ra. Nhưng cần phải nhấn mạnh đến người bị thiệt hại về tính mạng do hành vi
phạm tội của A ở tình huống này là H, chứ không phải C như y đã mong muốn. Từ dấu
hiệu thứ nhất : A chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đối với C thì điều đó cũng chứng tỏ
việc không thực hiện tội phạm đến cùng đối với C là không có.
+ Dấu hiệu thứ ba : Người phạm tội không thực hiện tội phạm đến cùng là do những
nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn
thành.
A muốn giết C, nhưng do sự nhầm tưởng dẫn đến sai lầm về đối tượng mà A đã giết
nhầm H (bạn của C mà A nghĩ đó là C). Việc này xảy ra ngoài ý muốn đối với A. Với
hành vi và kết quả đã gây ra, có thể kết luận A đã thực hiện tội phạm giết người đến
cùng đối với H. Còn đối với C, A chưa có sự bắt đầu thực hiện tội phạm và như vậy việc
không thực hiện tội phạm đến cùng là không có.
 Ý kiến cho rằng A phạm tội giết người chưa đạt đối với C là sai vì A chưa có bất kì
một hành vi nào thuộc mặt khách quan của tội giết người Điều 93 BLHS đối với C. Như
vậy, C không bị A xâm phạm bất cứ một quan hệ xã hội nào được luật hình sự bảo vệ.
Tóm lại, ý kiến cho rằng A phạm hai tội. Thứ nhất : tội vô ý làm chết người (đối với

H) vì H không phải là người mà A muốn giết, A đã có sự sai lầm về đối tượng; Thứ hai :
Tội giết người chưa đạt (đối với C) vì C mới là người mà A muốn giết nhưng C đã
không bị chết là sai. Hành vi mà A thực hiện đã thỏa mãn đủ các yếu tố cấu thành Tội
giết người (Điều 93 BLHS).

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình : Luật Hình sự Việt Nam tập 1. Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà xuất bản công an nhân dân – 2012
2. Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009
3. Sách : Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, phần các tội phạm (tập 1) – Các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đinh Văn
Quế, thạc sĩ Luật học – Tòa án nhân dân tối cao.
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.

12



×