Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Môi giới chứng khoán, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư và quỹ đầu tư chứng khoán môn luật chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.18 KB, 16 trang )

Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

MỤC LỤC

BÀI LÀM
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoạt động kinh doanh, đầu tư được hiểu là việc cá nhân, tổ chức sử
dụng tài sản để tiến hành hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu thu được lượng tài
sản nhiều hơn trong tương lai. Lĩnh vực đầu tư rất phong phú, từ việc sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, đến việc góp vốn, mua cổ phần hay đơn giản là việc gửi
tiết kiệm tại ngân hàng hoặc tham gia vào một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Một
trong những lĩnh vực đầu tư rất hấp dẫn, không những về khả năng sinh lời mà
còn ở tính hấp dẫn của nó, đó chính là đầu tư chứng khoán. Đầu tư chứng khoán
được hiểu là việc một chủ thể nắm giữ chứng khoán để kỳ vọng vào lợi nhuận
do chứng khoán đó mang lại trong tương lai. Lợi nhuận có thể thu được từ lãi
chứng khoán đang nắm giữ hoặc chênh lệch từ hoạt động mua, bán chứng
khoán.
Cũng giống như các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư chứng khoán có thể
được phân chia thành hai loại là đầu tư chuyên nghiệp và đầu tư không chuyên
nghiệp. Đầu tư chuyên nghiệp là hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực đầu tư
chứng khoán như các công ty chứng khoán, ngân hàng hoặc những định chế đầu
tư chuyên nghiệp khác. Những chủ thể này có nguồn vốn dồi dào, có kỹ năng
chuyên môn và sẵn sàng chấp nhận rủi ro để thu lợi nhuận. Nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp thường có những dấu hiệu như: Hoạt động đầu tư chứng
khoán là hoạt động chính của chủ thể đó; Hoạt động đầu tư chứng khoán mang
lại nguồn thu nhập chính; Nhà đầu tư chứng khoán có kiến thức và kỹ năng tiến
hành hoạt động đầu tư chứng khoán. Những nhà đầu tư chứng khoán chuyên
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053



Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

nghiệp thường được biết đến là các công ty chứng khoán tự doanh, tổ chức tín
dụng, doanh nghiệp bảo hiểm và một số tổ chức tài chính khác. Bên cạnh những
nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, có những chủ thể có thể không đủ kiến
thức hoặc kỹ năng để tự mình đầu tư, hoặc không coi đó là nghề nghiệp của
mình nhưng vẫn có nguyện vọng tham gia đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán để
tăng thu nhập. Những chủ thể này được gọi là những nhà đầu tư không chuyên
nghiệp. Trong những trường hợp như vậy, những chủ thể này có thể đầu tư thông
qua việc uỷ thác cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ bằng ký hợp
đồng môi giới chứng khoán, hợp đồng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư hoặc
tham gia vào quỹ đầu tư chứng khoán.
I. Dịch vụ môi giới chứng khoán
1. Khái niệm, đặc trưng và bản chất của hoạt động môi giới chứng
khoán
Theo định nghĩa tại khoản 20 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006, “môi
giới chứng khoán là việc công ti chứng khoán làm trung gian thực hiện việc
mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng”. Về bản chất kinh
tế, môi giới chứng khoán là loại hình hoạt động kinh doanh chứng khoán, theo
đó bên môi giới cam kết làm đại diện cho khách hàng (người mua hoặc người
bán chứng khoán) trong việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên
thị trường chứng khoán, vì quyền lợi của khách hàng để được nhận hoa hồng”
So với các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán khác, hoạt động môi giới
chứng khoán có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hoạt động môi giới chứng khoán luôn được thực hiện bởi chủ
thể đặc thù là các công ti chứng khoán. Để tiến hành hoạt động môi giới chứng
khoán, chủ thể này phải được cấp giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh

chứng khoán đồng thời phải thực hiện việc đăng kí kinh doanh dịch vụ môi giới
chứng khoán tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong thực tiễn kinh doanh
chứng khoán nước ta, nhiều ngân hàng cũng tham gia vào hoạt động môi giới
chứng khoán nhưng muốn thực hiện được điều đó, họ phải thành lập ra công ti
chứng khoán độc lập và chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán.

Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

2


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

Thứ hai, hoạt động môi giới chứng khoán được thực hiện thong qua công
cụ pháp lí hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán. Hợp đồng này được giao kết
giữa công ti chứng khoán (bên môi giới) với khách hàng (bên được môi giới) là
người mua hoặc bán chứng khoán. Thông qua hợp đồng dịch vụ môi giới chứng
khoán, công ti chứng khoán có cơ sở pháp lí để thực hiện trách nhiệm mua hộ
hoặc bán hộ chứng khoán cho khách hàng với tư cách là người đại diện, từ đó có
quyền yêu cầu khách hàng trả phí hoa hồng cho mình khi kết thúc giao dịch mua
bán hộ chứng khoán.
Thứ ba, nội dung cốt lõi của hoạt động môi giới chứng khoán là việc công
ti chứng khoán sử dụng chuyên môn nghiệp vụ và những hiểu biết sâu sắc của
mình về lĩnh vực chứng khoán để mua hay bán hộ chứng khoán cho khách hàng
nhằm hưởng phí hoa hồng. Trong quá trình mua hay bán hộ chứng khoán cho
khách hàng, công ti chứng khoán có bổn phận phải đem hết khả năng về chuyên
môn nghiệp vụ để giúp khách hàng mua hay bán được chứng khoán đúng yêu
cầu và lợi ích của họ. Được xem như một nhà kinh doanh chứng khoán chuyên

nghiệp, pháp luật và đạo đức kinh doanh không cho phép công ti chứng khoán
được lợi dụng chuyên môn và những hiểu biết của mình để gây thiệt hại cho
khách hàng. Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, công ti chứng
khoán phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán cho mỗi khách hàng trên cơ sở
hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán. Các tài khoản này là cơ sở để nhà môi
giới thực hiện việc mua hay bán hộ chứng khoán cho khách hàng, bởi vì sau khi
đạt được sự thỏa thuận giữa các bên có lien quan về việc mua hay bán hộ chứng
khoán thì công ti chứng khoán phải thay mặt khách hàng để chuyển giao chứng
khoán cho người mua và chuyển giao tiền cho người bán từ các tài khoản giao
dịch chứng khoán.
Thứ tư, trong hoạt động môi giới chứng khoán, với tư cách là nhà môi
giới, công ti chứng khoán luôn có vao trò và bổn phận là người trung gian giữa
bên mua và bên bán chứng khoán. Bổn phận này của nhà môi giới chỉ được xem
là hoàn thành khi người mua đã mua được chứng khoán và người bán đã bán
được chứng khoán cần bán.
2. Ưu điểm và nhược điểm của hình thức môi giới chứng khoán
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

3


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

2.1. Ưu điểm
Trong hoạt động môi giới chứng khoán hàm lượng tư vấn rất đáng kể là
quá trình cung cấp một dịch vụ từ việc đưa ra sự giải thích, những ý tưởng đầu
tư hay lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược và giúp người
đầu tư thực hiện được các giao dịch theo cách có lợi nhất. Công ty môi giới

chứng khoán thông qua các nhân viên bán hàng cung cấp cho khách hàng các
báo cáo nghiên cứu những khuyến nghị đầu tư, nguồn thông tin quan trọng này
do bộ phận nghiên cứu trong công ty thu thập và xử lý do đó nhà đầu tư dễ dàng
tìm được nơi có thể mua bán chứng khoán, đưa ra các quyết định mua bán
chứng khoán chính xác và đạt được lợi nhuận cao.
Khi khách hàng quyết định bán hoặc mua chứng khoán nhà môi giới
chứng khoán tiến hành thực hiện giao dịch cho họ. Quá trình này bao gồm các
công việc từ hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tại công ty, tiến hành giao
dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách
hàng. Nhờ đó khả năng các lệnh mua, bán chứng khoán đã đặt đực thực hiện ở
mức cao. Sau khi giao dịch được thực hiện, người môi giới tiếp tục chăm sóc
khách hàng đưa khuyến cáo, cung cấp thông tin và tình hình tài chính của khách
hàng từ đó đề xuất những giải pháp hay chiến lược mới thích hợp.
Sử dụng dịch vụ môi giới giúp cho hoạt động mua bán chứng khoán diễn
ra nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí. Trong hoạt động môi giới chứng
khoán, nhà môi giới không có trách nhiệm phải thu xếp cho người mua chứng
khoán và người bán chứng khoán trực tiếp gặp nhau để tự thương lượng và ký
kết hợp đồng với nhau. Nói cách khác, cả người mua và người bán chứng khoán
để không cần biết nhau mà chỉ cần biết đến một trung gian là nhà môi giới và
tìm cách ủy quyền cho nhà môi giới chứng khoán đại diện cho mình trong viêc
thực hiện hành vi mua hay bán chứng khoán trên cơ sở kí kêt hợp đồng dịch vụ
môi giới chứng khoán. Như vậy, cho dù không biết nhau và không hề trực tiếp
gặp nhau để thương lượng các điều khoản của hợp đồng mua bán chứng khoán
nhưng trên thực tế giữa người mua bà người bán chứng khoán vẫn tồn tại hợp
đồng mua bán chứng khoán, bởi lẽ hợp đồng này được xác lập một cách gián
tiếp thông qua hành vi giao dịch của người đại diện. Những người môi giới
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

4



Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

chứng khoán giúp nhà đầu tư tiết kiệm rất nhiều trong giao dịch. Nếu không có
sự giúp đỡ của họ, các nhà đầu tư có thể phải bỏ ra chi phí gấp mười lần để
thương lượng thành công. Đây là một khoản chi phí hợp lý cho những giao dịch
lớn.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là nhà đầu tư phải làm chủ được giao dịch của
mình. Kiểm tra lại các thông tin và hãy đưa ra quyết định của chính mình.
2.2. Nhược điểm
Tuy có rất nhiều ưu điểm, nhưng khi sử dụng dịch vụ môi giới chứng
khoán, nhà đầu tư phải đối mặt với những nguy cơ sau:
Trong quá trình thực hiện giao dịch mua bán cho các nhà đầu tư có thể lợi
dụng chuyên môn, hiểu biết của mình để làm phương hại đến lợi ích của khách
hàng vì trong quá trình này quyền quyết định mua, bán là thuộc tầm kiểm soát
của nhà môi giới nên có thể xảy ra những hành động ví dụ như mua bán chứng
khoán trên tài khoản của khách hàng, mượn danh nghĩa của khách hàng để mua
chứng khoán cho mình hoặc tìm cách thực hiện lệnh của mình trước lệnh của
khách hàng vì nhận thấy việc thực hiện lệnh đó là có lợi cho mình. Nhằm hạn
chế tối đa tình trạng đó xảy ra, pháp luật yêu cầu công ty chứng khoán “phải
tách bạch tiền và chứng khoán của nhà đầu tư với tiền và chứng khoán của
công ty chứng khoán” (khoản 2 Điều & Luật chứng khoán 2006) đồng thời sau
khi ký hợp đồng mở tài khoản cho khách hàng, công ty phải mở tài khoản tiền
gửi chuyên dùng không kỳ hạn bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại hối để lưu giữ
toàn bộ tiền gửi giao dịch chứng khoán của khách hàng. Tuy nhiên nguy cơ
khách hàng bị lợi dụng tiền và chứng khoán vẫn tiềm ẩn vì các công ty chứng
khoán được phép tiếp nhận tiền gửi trực tiếp từ khách hàng.
Nhà đầu tư phải luôn xác định rằng việc giao dịch với những nhà môi giới

chứng khoán luôn tốn kém một khoản chi phí trực tiếp.
Môi giới chứng khoán là một lĩnh vực nhạy cảm về lợi ích không thể
tránh khỏi xung đột lợi ích giữa người môi giới với khách hàng và với công ty...
xung đột lợi ích bắt nguồn từ phương thức trả thù lao cho người môi giới và từ
tính chất của các nguồn thu là cơ sở cho việc trả thù lao. Xung đột tranh chấp
khi thì do người môi giới cố tình lạm dụng sự tin cậy và ủy thác của khách hàng,
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

5


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

khi thì do sự cẩu thả trong thái độ chấp hành các quy định, khi thì so sơ suất của
người quản lý, khi thì do trách nhiệm cảu khách hàng. Người ta không thể loại
được hoàn toàn nhưng có thể hạn chế được những tổn thất hạn chế ở mức tối đa
xung đột nhờ ý thức của các bên về quyền và nghĩa vụ nhời việc thiết lập hệ
thống các quy tách điều chỉnh, giám sát việc thực hiện nó và xử lý khi có vi
phạm.
II. Dịch vụ quản lí danh mục đầu tư
1. Khái niệm, đặc trưng và bản chất pháp lí của hoạt động quản lí danh
mục đầu tư
Theo định nghĩa pháp luật hiện hành, quản lí danh mục đầu tư là việc
công ti quản lí quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản lí theo ủy thác của từng
nhà đầu tư mua, bán nắm giữ chứng khoán. Nói cách khác, nghiệp vụ quản lí
danh mục đầu tư chứng khoán chính là hoạt động quản lí vốn của khách hàng
thong việc mua, bán và nắm giữ chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng, theo
hợp đồng được kí kết giữa công ti quản lí quỹ đầu tư chứng khoán với khách

hàng là nhà đầu tư.
Với bản chất là nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, hoạt động quản lí quỹ
đầu tư có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất , về chủ thể, quan hệ quản lí danh mục đầu tư chứng khoán phát
sinh giữa hai chủ thể, bao gồm công ti quản lí quỹ đầu tư chứng khoán (bên
được ủy quyền – bên cung ứng dịch vụ quản lí danh mục đầu tư chứng khoán).
Đối với bên cung ứng dịch vụ là công ti quản lí quản lí quỹ đầu tư chứng khoán,
do họ thực hiện hoạt động này với tính cách là nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán nên phải được cấp giấy phép và tiến hành đăng kí kinh doanh với chính
quyền trước ki thực hiện. Còn đối với bên sử dụng dịch vụ là nhà đầu tư do họ
không có khả năng và điều kiện quyết định đầu tư cũng như quản lí các khoản
mục đầu tư của mình nên nhà đầu tư phải ủy thác cho công ti quản lí quỹ thay
mặt họ tiến hành các hoạt động đầu tư theo hợp đồng dịch vụ ủy thác được kí
kết giữa hai bên.

Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

6


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

Thứ hai, về phương diện nội dung, hoạt động quản lí danh mục đầu tư
chứng khoán của công ti quản lí quỹ gồm các công việc chính như: Sử dụng
nguồn vốn của nhà đầu tư chuyển giao để trực tiếp đầu tư vào chứng khoán; trực
tiếp nắm giữ và bán chứng khoán trên thị trường khi xét thấy cần thiết vì lợi ích
của nhà đầu tư. Đặc biệt, hợp đồng cần xác định rõ khách hàng phải tự gánh
chịu mọi rủi ro trong hoạt động đầu tư (nếu có), cho dù việc đầu tư được tiến

hành bởi bên nhận ủy thác là công ti quản lí quỹ đầu tư chứng khoán.
Thực hiện hoạt động quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán vừa
bảo quản, vừa đầu tư chứng khoán cho khách hàng, vì vậy để đảm bảo tính
khách quan, trung thực và bảo vệ lợi ích cho khách hàng trách sự xung đột lợi
ích, pháp luật quy định: công ty chứng khoan phải mở tài khoản đứng tên công
ty do khách hàng ủy thức đầu tư tại một ngân hàng do hai bên thỏa thuận và chỉ
được sử dụng tiền trong tài khoản theo những quy định trong hợp đồng. Công ty
chứng khoán phải thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp có biến
động bất thường về giá cả chứng khoán trong danh mục đầu tư của khách hàng
và lập báo cáo định kỳ liên quan tới việc đầu tư cho khách hàng
Thứ ba, về phương diện hình thức, hoạt động quản lí danh mục đầu tư
luôn được thực hiện thong qua hình thức pháp lí là hợp đồng dịch vụ ủy thác
quản lí danh mục đầu tư chứng khoán. Hợp đồng này vừa có tính chất là hợp
đồng ủy quyền, vừa có tính chất là hợp đồng dịch vụ. Với tư cách là hợp đồng
ủy quyền, nhà đầu tư ủy quyền cho công ti quản lí quỹ thay mặt mình tiến hành
các công việc đầu tư chứng khoán trên thị trường vì lợi ích của nhà đầu tư. Còn
với tính chất là hợp đồng dịch vụ, công ti quản lí quỹ đầu tư chứng khoán thỏa
thuận làm dịch vụ quản lí danh mục đầu tư chứng khoán cho khách hàng để
được hưởng tiền thù lao dịch vụ.
2. Ưu điểm và nhược điểm của hình thức quản lí danh mục đầu tư
2.1.Ưu điểm
Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh
chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Đặc
biệt là đối với các nhà đầu tư

Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

7



Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

Quản lý danh mục đầu tư giúp các nhà đầu tư tối ưu lợi nhuận: với đội
ngũ chuyên viên đầu tư dày dặn kinh nghiệm, công ty quản lí quỹ đầu tư chứng
khoán sẽ giúp nhà đầu tư lựa chọn danh chọn danh mục đầu tư hiệu quả nhất
cho khoản tiền ủy thác.
Quản lý danh mục đầu tư giúp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư: đội
ngũ chuyên gia quản lý rủi ro của công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán sẽ lựa
chọn quy trình quản trị rủi ro chặt chẽ và hiệu quả nhất để giảm thiểu rủi ro cho
khoản đầu tư ủy thác của nhà đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư còn giúp các nhà đầu tư tiết kiệm thời gian và
công sức vào các hoạt động giao dịch, đầu tư nhưng vẫn kiểm soát được chi tiết
các hoạt động đầu tư thông qua các báo cáo định kỳ hàng quý và theo yêu cầu.
2.2. Nhược điểm
Xuất phát từ việc công ti quản lí quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản
lí theo sự ủy thác của từng nhà đầu tư hay nói cách khác là họ quản lí nguồn vốn
của khách hàng nên nhà đầu tư không thể chủ động được trong vấn đề sử dụng
vốn, vì thế họ phải thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng dịch vụ ủy thác quản lí
danh mục đầu tư chứng khoán.
Ngoài ra công ty quản lí quỹ đầu tư có thể lợi dụng sự hiểu biết của mình
trong lĩnh vực chứng khoán, trong khi nhà đầu tư lại thiếu kiến thức trong lĩnh
vực này nên rất có thể bị lợi dụng để đầu tư sai với ý đồ của nhà đầu tư.
Xét về mặt lợi ích của các nhà đầu tư khi ủy thác chung cho 1 công ty
quản lý quỹ, rõ ràng quyền lợi của từng nhà đầu tư có thể bị ảnh hưởng, đặc biệt
khi họ cùng có chiến lược đầu tư vào cùng một loại chứng khoán.
III. Tham gia quỹ đầu tư chứng khoán.
1. Khái niệm, đặc trưng và bản chất pháp lí của quỹ đầu tư chứng
khoán

Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ tiền hình thành từ nguồn góp vốn của các
nhà đầu tư để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Công ty
quản lý quỹ tạo lập quỹ đầu tư chứng khoán bằng cách phát hành chứng chỉ
hưởng lợi để thu hút vốn từ nhà đầu tư trên thị trường. Tiền của quỹ sau đó được
công ty quản lý quỹ đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu, các công cụ của thị trường
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

8


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

tiền tệ và các chứng khoán hoặc tài sản khác phù hợp với mục tiêu đầu tư ghi
nhận trong điều lệ của quỹ.
Xét một cách khái quát, mô hình quỹ đầu tư chứng khoán có những đặc
điểm sau đây:
Thứ nhất, bản thân quỹ đầu tư chứng khoán chỉ thể hiện một lượng tiền do
các nhà đầu tư đóng góp chứ không phải là một pháp nhân, không có tổ chức bộ
máy riêng, vì vậy toàn bộ việc huy động vốn thành lập quỹ, quản lý điều hành
hoạt động của quỹ cho tới việc sử dụng vốn của quỹ để đầu tư thu lời đều do
công ty quản lý quỹ đảm nhiệm. Đến lượt mình toàn bộ hoạt động của công ty
quản lý quỹ lại chịu sự giám sát của một pháp nhân, thường là ngân hàng độc
lập với quỹ và với công ty quản lý quỹ. Ngân hàng vừa đóng vai trò bảo quản tài
sản của quỹ đồng thời vừa là người giám sát toàn bộ hoạt động của quỹ để bảo
đảm công ty quản lý quỹ tuân thủ pháp luật và những mục tiêu chính sách đề ra
trong điều lệ của quỹ
Thứ hai, quỹ đầu tư chứng khoán luôn dành đa số vốn đầu tư của Quỹ để
đầu tư vào chứng khoán. Đặc điểm này phân biệt quỹ đầu tư chứng khoán với

các loại quỹ đầu tư khác. Quỹ có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng và hợp
lý theo quyết định của các nhà đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu
rủi ro. Trước đây, Nghị định 144/2003/NĐ-CP quy định quỹ đầu tư chứng khoán
phải dành tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào lĩnh vực chứng khoán. Ngoài
việc chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán cũng có thể tiến
hành đầu tư vào những lĩnh vực khác như góp vốn, kinh doanh bất động sản v.v..
Thứ ba, quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý và đầu tư một cách chuyên
nghiệp bởi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Những người đầu tư chứng
khoán không phải là cổ đông mà chỉ là những người hưởng lợi từ hoạt động của
quỹ, họ bỏ tiền góp vốn lập quỹ nhưng không trực tiếp quản lý quỹ. Các nhà đầu
tư đã uỷ thác cho công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán việc quản lý quỹ và
tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ số vốn của quỹ. Công ty quản lý quỹ
có thể cử ra một cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện việc quản lý quỹ gọi là nhà
quản trị quỹ. Nhà quản trị được chọn thường phải là người có thành tích và được
sự ủng hộ của đa số nhà đầu tư. Để đảm bảo công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

9


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

khoán tiến hành hoạt động đúng như mong muốn của các nhà đầu tư, quỹ đầu tư
chứng khoán cần phải có một ngân hàng giám sát. Ngân hàng này sẽ thay mặt
các nhà đầu tư để giám sát cũng như giúp đỡ quỹ đầu tư chứng khoán hoạt động
đúng mục tiêu mà các nhà đầu tư đã đề ra, tránh tình trạng công ty quản lý quỹ
tiến hành các hoạt động đi ngược lại lợi ích của nhà đầu tư.
Thứ tư, quỹ đầu tư chứng khoán có tài sản độc lập với tài sản của công ty

quản lý quỹ và các quỹ khác do công ty này quản lý. Đặc điểm này đảm bảo
việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán tuân thủ đúng mục đích đầu tư, không
bị chi phối bởi lợi ích khác của công ty quản lý quỹ. Sự tách bạch về tài sản giữa
công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán nhằm đảm bảo công ty quản lý
quỹ hoạt động quản lý vì lợi ích của các nhà đầu tư vào quỹ chứ không vì mục
đích của riêng mình. Từ yêu cầu tách bạch về tài sản đã chi phối rất lớn đến nội
dung những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công ty quản lý quỹ
2. Ưu điểm, nhược điểm của hình thức tham gia quỹ đầu tư chứng
khoán
2.1. Ưu điểm
- Trước hết, tham gia vào quỹ đầu tư chứng khoán cho phép các nhà đầu
tư có thể tham gia đầu tư vào nhiều loại thị trường với chủng loại hàng hóa khác
nhau, từ đó đa dạng hóa danh mục đầu tư và giảm thiểu rủi ro.
Một cá nhân bình thường với số vốn hạn chế khó có thể cùng lúc đầu tư
vào thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ và thị trường bất động sản. Nguồn
vốn hạn hẹp của từng nhà đầu tư riêng lẻ không cho phép họ dàn trải vốn đầu tư
vào nhiều loại chứng khoán và tài sản khác nhau để phân tán rủi ro, nhưng bằng
phương thức kết hợp vốn cùng với nhiều người khác trong các quỹ đầu tư,
những nhà đầu tư mỏng vốn nhất cũng có thể tham gia vào nhiều loại thị trường.
Nhà đầu tư có thể đầu tư gián tiếp vào các công ty lớn (blue-chips) hoặc sở hữu
nhiều loại chứng khoán khác nhau với mức vốn tối thiểu thông qua việc sở hữu
chứng chỉ quỹ. Với các nhà đầu tư không chuyên, khi uỷ thác vốn hay mua
chứng chỉ quỹ của các quỹ đầu tư, nhà đầu tư có thể đa dạng hoá danh mục đầu
tư với số tiền không lớn. Đa dạng hóa danh mục đầu tư cũng chính là phân tán
nguồn vốn đầu tư. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với nhà đầu tư vì khi
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

10



Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

nguồn vốn của nhà đầu tư được đầu tư vào nhiều loại tài sản khác nhau, nếu rủi
ro xảy ra đối với một loại tài sản nào đó, nhà đầu tư chỉ mất một phần chứ không
mất toàn bộ số vốn của mình.
Trong các hoạt động của nền kinh tế, rủi ro là điều không thể tránh khỏi,
an toàn trong hoạt động đầu tư chỉ mang tính chất tương đối mà thôi. Việc tham
gia vào quỹ đầu tư cũng không phải là một ngoại lệ. Quỹ đầu tư chứng khoán
không thể đưa ra những lời hứa chắc chắn với các nhà đầu tư rằng họ sẽ nhận
được bảm đảm mức thu nhập hay số vốn của họ sẽ không bị mất giá. Tuy nhiên,
quỹ đầu tư là tổ chức hoạt động rất chặt chẽ thông qua cơ chế quản trị quỹ đầu
tư chứng khoán và chịu sự quản lý và giám sát của Ủy ban chứng khoán nhà
nước. Quỹ đầu tư chứng khoán phải cung cấp các thông tin chính xác đầy đủ về
các hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán cho các nhà đầu tư.
Quỹ đầu tư chứng khoán sau khi tập hợp vốn của các nhà đầu tư thành
những khoản tiền lớn sẽ sử dụng số vốn đó để đầu tư dài hạn vào chứng khoán
cũng như các dự án lớn. Quỹ đầu tư có thể đầu tư vào hàng chục thậm chí hàng
trăm loại chứng khoán của các ngành công nghiệp khác nhau theo mục tiêu của
quỹ. Như vậy, mỗi nhà đầu tư đã có thể sở hữu nhiều lợi chứng khoán khác
nhau, được tham gia vào nhiều dự án lớn nhỏ. Việc sở hữu một nhóm các loại
chứng khoán khác nhau dù không loại bỏ hoàn toàn các rủi ro tiềm ẩn, nhưng có
thể giúp hạn chế rủi ro do giá của mỗi loại chứng khoán khác nhau có thể bù đắp
cho nhau và tối ưu hóa lợi nhuận.
- Thứ hai, tham gia vào quỹ đầu tư có thể giúp các nhà đầu tư có được
quyết định đầu tư đúng đắn.
Khi tham gia vào quỹ đầu tư, việc đầu tư của nhà đầu tư cũng dễ thành
công với độ an toàn cao. các nhà quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là những
chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư với trình độ chuyên môn, kiến thức cao và chỉ

chuyên sâu vào đầu tư. Họ sẽ phân tích tình hình và đánh giá dự án tốt hơn so
với nhà đầu tư đơn lẻ hay những tổ chức đầu tư không chuyên nghiệp. Họ thu
nhận và xử lý thông tin mới trên thị trường chứng khoán và họ có thể hành động
ngay vì lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của quỹ đầu tư chứng khoán. Trong khi
đó, nhà đầu tư đơn lẻ và các tổ chức đầu tư không chuyên nghiệp lại không đủ
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

11


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

kiến thức, kinh nghiệm Với một số tiền đầu tư không lớn, muốn đầu tư vào
nhiều loại chứng khoán (đây là cách nhà đầu tư có thể phân tán giảm thiểu rủi ro
trong việc đầu tư một số vồn nhất định của họ vào chứng khoán sẽ rất khó bởi
nhà đầu tư với hạn chế về trình độ, không thể thu nhận và xử lý thông tin chính
xác, kịp thời như các nhà quản lý chuyên nghiệp của quỹ đầu tư chứng khoán.
- Thứ ba, nhà đầu tư có được nhiều lợi nhuận khi đầu tư vào quỹ đầu tư
chứng khoán
Nhà đầu tư có thể liên lạc với quỹ đầu tư trực tiếp hoặc thông qua điện
thoai, thư. Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ gửi báo cáo tài chính theo định kỳ cho
các nhà đầu tư và gửi lợi tức cho họ hoặc tự động tái đầu tư theo yêu cầu của
nhà đầu tư. Trường hợp nhà đầu tư yêu cầu quỹ đầu tư chứng khoán tái đầu tư
phần cổ tức mà quỹ đầu tư chứng khoán trả cho họ thì nhà đàu tư không những
không phải trả thêm chi phí mà đồng vốn của họ lại được quay vòng nhanh,
trong khi đó, nếu nhà đầu tư đơn lẻ muốn tái đầu tư phần cổ tức của họ, nhà đầu
tư phải trả phí hoa hồng cho người môi giới.
Bên cạnh đó, khi đầu tư vào quỹ đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư có thể

biết trước loại chứng khoán nào mà quỹ sẽ đầu tư cho họ bởi mỗi quỹ có một
đối trượng đầu tư được định trước (ví dụ, quỹ đầu tư cổ phiếu chỉ đầu tư vào các
lọai cổ phiếu, quỹ đầu tư trái phiếu chỉ đầu tư vào các loại trái phiêu)
Quỹ đầu tư chứng khoán, công ty chứng khoán là những hình thức đầu tư
rất linh hoạt, có thể đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau và nhiều dự án
lớn. Điều này giúp nhà đầu tư có khả năng đầu tư gần như bất kỳ số vốn nào của
họ dù nhiều hay ít vào các loại chứng khoán hoặc sự án mà quỹ đầu tư chứng
khoán tiến hành. Quỹ đầu tư chứng khoán dạng mở chào bán chứng khoán liên
tục và sãn sàng muc lại chứng chỉ quỹ, cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán
nếu nhà đầu tư có nhu cầu. Có nghĩa là tính thanh khoản vốn đầu tư rất cao, tạo
sức hấp dẫn cũng như thuận lợi cho các nhà đàu tư khi góp vốn vào quỹ đầu tư
chứng khoán.
Hơn nữa, nhiều nhà đầu tư nhỏ khó đạt hiệu năng quản lý các hoạt động
đầu tư của mình một cách khôn ngoan nhất, họ cũng không có khả năng hoặc
thấy không còn có lợi nếu phải trả các khoản phí cần thiết để “mua” sự quản lý
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

12


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

chuyên nghiệp riêng cho mình. Bằng cách chung vốn tập thể vào các quỹ đầu tư,
những cá nhân này có thể yên tâm sẽ được các nhà điều hành chuyên nghiệp
quản lý số tiền đầu tư của mình với một chi phí thấp hơn so với việc họ phải tự
lo liệu.
- Thứ tư, tham gia vào quỹ đầu tư giúp nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí
giao dịch. Một trong những nhân tố quan trọng khiến hình thức quỹ đầu tư hấp

dẫn các nhà đầu tư, đó là chi phí đầu tư. So với từng nhà đầu tư đơn lẻ, đầu tư
tập thể có thể giúp giảm bớt được chi phí nghiên cứu và giao dịch trên một đồng
vốn. Lý do là chi phí giao dịch trong hầu hết các thị trường từ trước đến nay đều
có liên quan chặt chẽ với quy mô giao dịch. Chi phí giao dịch của các nhà đầu tư
cá nhân đối với các khoản mua bán nhỏ thường cao hơn nhiều vì giá trị của mỗi
giao dịch họ thực hiện nhỏ hơn nhiều so với các quỹ đầu tư khi họ giao dịch với
số lượng chứng khoán lớn hơn. Hơn nữa, quỹ đầu tư chứng khoán có khả năng
tiếp cận các dự án dễ dàng hơn, có khả năng nhận được những ưu đãi về chi phí
giao dịch .
- Thứ năm, khi tham gia vào quỹ đầu tư, lợi ích của nhà đầu tư được bảo
vệ. Hoạt động của quỹ được điều chỉnh và giám sát bởi Ủy ban chứng khoán
Nhà nước và Sở giao dịch Chứng khoán. Tài sản của Quỹ luôn được giám sát
bởi ngân hàng giám sát và báo cáo định kỳ. Tính minh bạch được bảo đảm nhờ
hệ thống báo cáo rõ ràng, đầy đủ từ công ty quản lý Quỹ. Tham gia vào quỹ, nhà
đầu tư có thể theo dõi tình trạng đầu tư của mình nhờ tính minh bạch cao. Luật
quy định các quỹ phải báo cáo thay đổi tài sản ròng định kỳ, do vậy nhà đầu tư
luôn biết được các tình trạng khoản đầu tư của mình.
2.2. Nhược điểm
- Nhà đầu tư khi góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán chỉ là người thụ
hưởng từ hoạt động đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán với tỉ lệ tương ứng với
tỷ lệ vốn góp cua họ vào quỹ và hưởng các lợi ích và tài sản được chia hợp pháp
từ việc thanh lý quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Nhà đầu tư không trở thành cổ
đông của quỹ bởi lẽ, quỹ đầu tư chứng khoán không phải là một pháp nhâ độc
lập. Sau khi góp vốn vào quỹ, nhà đầu tư không có quyền kiểm soát trực tiếp
việc đầu tư của quỹ , không chủ động trong việc thành lập và hoạt động đàu tư
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

13



Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

của quỹ mà ủy thác cho một công ty quản lý quỹ thực hiện. Như vậy khi tha, gia
vào quỹ đầu tư chứng khoán có những hạn chế nhất định như không huy động
vốn để đầu tư chứng khoán do không có tư cách pháp nhân, nhà đàu tư khi góp
vốn vào quỹ không có quyền chủ động từ khâu thành lập đến hoạt động đầu tư
của quỹ.
Các nhà đầu tư rất khó có thể giám sát được hoạt động của các quỹ đầu tư
và rất dễ xảy ra gian lận tại các quỹ này. Với một mức phí quản lý dành cho các
nhà quản lý lên tới 20% mức tăng giá trị hàng năm của quỹ, rất có thể đây là
động cơ thúc đẩy các nhà quản lý quỹ chấp nhận mạo hiểm một cách thái quá.
Hơn nữa, hầu như không bao giờ nhà quản lý quỹ phải chịu bất cứ một hình thức
phạt nào vì việc đã làm cho giá trị của quỹ bị giảm và nhà quản lý hoàn toàn có
thể thu hẹp quy mô của quỹ để làm lại từ đầu. Khi tiền đổ vào các quỹ đầu tư
càng nhiều thì việc kiếm được các nhà quản lý quỹ có tài năng thực sự càng khó
khăn.
Khoảng một nửa trong số hơn 9.000 quỹ đầu tư tại Mỹ áp dụng chiến lược
nắm giữ cổ phiếu của một số công ty nhất định, trong khi bán khống những loại
cổ phiếu khác để giảm thiểu rủi ro. Không thiếu cổ phiếu để cho các quỹ đầu tư
này đầu tư vào, vì vậy không cần lo lắng về việc những luồng vốn đầu tư mới sẽ
thổi phồng một cách quá đáng “quả bong bóng” giá của các quỹ đầu tư được
nhiều người ưa chuộng. Nhiều quỹ đầu tư có thâm niên đã không tiếp nhận thêm
các nhà đầu tư mới, nhờ đó kìm hãm được phần nào sự tăng giá do các luồng
đầu tư mới gây ra. Tuy nhiên, cũng có nhiều quỹ đầu tư không cưỡng nổi sự cám
dỗ của việc phát triển quá lớn. Các quỹ này thường gặp khó khăn hơn trong việc
đầu tư vốn một cách hiệu quả và những vấn đề về mặt quản lý khi đội ngũ nhân
viên của mình tăng lên.
Quy định về quyền của nhà đầu tư góp vốn vào từng lợi quỹ đầu tư chứng

khoán còn sơ sài, chung chung, vì vậy, nhà đầu tư có nguy cơ không được bảo
vệ thỏa đáng. Quỹ đầu tư chứng khoán gồm có quỹ đại chúng dạng mở, quỹ đại
chúng dạng đóng và quỹ thành viên. Bên cạnh những đặc điểm chung của quỹ
đầu tư chứng khoán, mỗi dangh quỹ đóng, quỹ mở lại có những đặc thfu riềng
như đặc điểm về chứng chỉ quỹ, đặc điểm về cách thức phát hành chứng chỉ quỹ
Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

14


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

và đặc điểm về địa vị pháp lí của nhà đầu tư của từng loại quỹ. Tuy nhiên, Luật
chứng khoán chỉ quy định chung chung về quyền của nhà đầu tư dố với ba loại
quỹ trên tại Điều 84. quy định chưa cụ thể về quyền của nhà đàu tư đối với mỗi
loại quỹ sẽ không có khả năng bảo vệ một cách hữu hiệu nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà đàu tư. Bởi lẽ, do sự tách rời giữa quền sở hữu và quyền quản
lý trong quỹ đầu tư chứng khoán, quy định quyền của nhà đầu tư của mỗi loại
quỹ cần phải được quy định cụ thể, chặt chẽ để công ty quản lý quỹ hoạt động vì
lợi ích của nhà đầu tư. Việc chỉ quy định những quyền chung chung như Điều 84
Luật chứng khoán làm dẫn đến khả năng xung đột lợi ích giữa nhà đầu tư với
nhân viên của công ty quản lý quỹ khi nhân viên công ty quản lý quỹ hoặc chính
công ty quản lý quỹ lợi dụng lợi thế của mình hoạt động vì lợi ích của cá nhân
hoặc vì lợi ích của công ty quản lý quỹ chứ không hoạt động vì lợi ích của nhà
đầu tư.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên cho thấy, mỗi loại dịch vụ môi giới chứng
khoán, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư hay tham gia vào quỹ đầu tư chứng

khoán đều có những ưu nhược điểm riêng. Việc lựa chọn hình thức nào là tùy
thuộc vào nhu cầu, tình trạng vốn và khả năng thực tế của từng nhà đầu tư. Đối
với các nhà đầu tư có nguồn vốn hạn chế nên lựa chọn hình thức tham gia vào
quỹ đầu tư chứng khoán, đối với các nhà đầu tư có nguồn vốn lớn hơn nhưng
chưa có nhiều kinh nghiệm trong đầu tư chứng khoán nên lựa chọn sử dụng dịch
vụ quản lý danh mục đầu tư, còn đối với các nhà đầu có nguồn vốn lớn và muốn
chủ động, làm chủ giao dịch của mình có thể lựa chọn dịch vụ môi giới chứng
khoán.

Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

15


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Chứng khoán

Đề số 07

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật chứng khoán,Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Lê Thị Thu Huyền, Hoàn thiện pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán
và công ty đầu tư chứng khoán ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội,
2007.
3. Nguyễn Thị Hoa, Tìm hiểu pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng
khoán của công ty chứng khoán, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2007.
4. Đỗ Thị Hiên, Pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán ở
Việt Nam hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2007.
5. Trịnh Văn Quyết, Đào Mạnh Kháng, Triển vọng thị trường chứng
khoán Việt Nam nhìn từ góc độ pháp lý, Nxb. Tư pháp

6. Luật chứng khoán 2006

Khoa pháp luật Kinh tế - KT32E053

16



×