Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số vấn đề về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu thực trạng và giải pháp môn luật dân sự việt nam module 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.12 KB, 30 trang )

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1
A.

Đặt vấn đề.................................................................................................................................................2

B. Nội dung.......................................................................................................................................................2
I. Một số vấn đề về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu........................................................................2
1. Quyền sở hữu:.....................................................................................................................................2


Quyền chiếm hữu:........................................................................................................................3



Quyền sử dụng:............................................................................................................................4



Quyền định đoạt:..........................................................................................................................4

2. Bảo vệ quyền sở hữu:.........................................................................................................................5
II. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự.........................................................6
1.Chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp..........6
2. Chủ sở hữu yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại:...............10
3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái
pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại:..........13
3.1. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực
hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu:...............................................................................................14


3.2. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản.......................................................15
3.3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải bồi thường thiệt hại.............................................23
III. Thực trạng và giải pháp....................................................................................................................25
1. Nên cụ thể hoá hơn quy định về bảo vệ quyền chiếm hữu............................................................26
2. Cần có biện pháp bảo vệ người thứ ba ngay tình mạnh mẽ hơn...................................................28
3. Hoàn thiện pháp luật và thiết chế đăng ký tài sản.........................................................................28
4. Nâng cao hiệu quả của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong thực tiễn...............................29
C. Kết thúc vấn đề........................................................................................................................................29

A. Đặt vấn đề
Quyền sở hữu là một trong những loại quyền dân sự cơ bản được pháp luật
ghi nhận và bảo vệ. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền của chủ sở hữu và người

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

chiếm hữu hợp pháp tài sản, pháp luật sở hữu còn ghi nhận các biện pháp pháp lý
để bảo vệ quyền sở hữu chống lại các hành vi xâm phạm. Bảo vệ quyền sở hữu là
biện pháp Nhà nước tác động bằng pháp luật tới hành vi xử sự của con người nhằm
thông qua đó bảo đảm cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện quyền
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của mình.
Ở Việt Nam, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua nhiều biện pháp khác
nhau, do nhiều ngành luật điều chỉnh. Trong các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu,
biện pháp dân sự có ý nghĩa thực tế nhất vì nó khôi phục lại tình trạng ban đầu về
mặt vật chất cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp. Bảo vệ quyền sở hữu
bằng biện pháp dân sự là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, Tòa án hoặc

các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản
trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi
thường thiệt hại.

B. Nội dung
I. Một số vấn đề về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu
1. Quyền sở hữu:
Điều 164 BLDS quy định:
“ Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài
sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”.
Như vậy, BLDS đã đưa ra một định nghĩa về quyền sở hữu bằng cách liệt kê
những nội dung của quyền sở hữu và chủ thể của quyền này. Đây có thể xem là
một phương pháp lập pháp rất riêng của Việt Nam, vì luật dân sự của các nước trên

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

thế giới, họ không đưa ra khái niệm về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự, mà khái
niệm này chỉ tồn tại trong khoa học luật.
 Quyền chiếm hữu:
Theo cách hiểu thông thường nhất thì chiếm hữu là sự nắm giữ, chi phối vật
về mặt thực tế. Điều 182 BLDS quy định: “ Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ,
quản lý tài sản”.
Như vậy, BLDS đã coi chiếm hữu là một quyền năng, là một trong ba bộ
phận cấu thành quyền sở hữu. Liên quan đến vấn đề này, ở Việt Nam hiện nay đang

còn nhiều tranh luận. Tựu trung lại có hai quan điểm phổ biến sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền sở hữu chỉ bao gồm hai nội dung:
quyền sử dụng và quyền định đoạt. Còn chiếm hữu thực ra là một tình trạng chứ
không phải là một quyền năng. Chiếm hữu là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của
quyền sở hữu. Đây cũng là quan điểm trong luật dân sự của đa số các nước trên thế
giới như Đức, Pháp, Nhật Bản…
- Quan điểm thứ hai cho rằng cách quy định như Điều 173 BLDS hiện nay là
hoàn toàn hợp lý. Những người theo quan điểm này lý giải chiếm hữu là sự nắm
giữ vật, tuy nhiên do sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà hiện nay có những vật
không thể nắm giữ được (như năng lượng, sóng truyền hình…). Vấn đề chiếm hữu
đã có từ thời nguyên thuỷ, từ khi chưa có pháp luật thì loài người đã chiếm hữu
những vật sẵn có trong thiên nhiên. Khi có pháp luật rồi thì mới phát sinh khái
niệm quyền chiếm hữu. Muốn chứng minh mình là chủ sở hữu thì tuỳ từng trường
hợp: đối với bất động sản phải dựa vào việc đăng ký tài sản, còn đối với động sản
thì bản thân sự chiếm hữu cũng là một cách thức để chứng minh. Không nên để
‘‘tình trạng chiếm hữu’’ như là khi xã hội chưa có luật pháp.

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

Tranh luận chiếm hữu là một tình trạng hay là một quyền sẽ có nguy cơ sa
vào tranh luận về mặt học thuật. Vấn đề có ý nghĩa đặt ra là: cách quy định chiếm
hữu là một bộ phận của quyền sở hữu như BLDS có ích lợi gì không? Dù chiếm
hữu là một tình trạng hay một quyền thì vẫn cần phải có những quy định để bảo vệ
sự chiếm hữu đó. Có nghĩa là để đảm bảo sự ổn định của các quan hệ pháp luật dân
sự thì nên công nhận tình trạng chiếm hữu thực tế. Nếu không ta sẽ phải chứng
minh tình trạng sở hữu tuyệt đối – một điều rất khó thực hiện và nhiều khi làm đảo
lộn, thậm chí làm đảo lộn các quan hệ pháp luật dân sự. Qua tìm hiểu pháp luật của

các nước trên thế giới (Pháp, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc…) chúng ta thấy các
nước đều quy định theo hướng đó và do vậy, các quy định về chiếm hữu là một chế
định riêng so tách khỏi chế định sở hữu.
 Quyền sử dụng:
Điều 192 BLDS quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”.
Nói một cách dễ hiểu thì quyền sử dụng là quyền khai thác những lợi ích mang
lại từ tài sản.
 Quyền định đoạt:
Điều 195 BLDS quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở
hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”.
Quyền định đoạt có thể thực hiện bằng hai cách: quyết định về mặt thực tế
hoặc quyết định về mặt pháp lý của tài sản.
2. Bảo vệ quyền sở hữu:

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân,
nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những quy định để bảo vệ
quyền sở hữu. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa
kế của công dân”.
Theo lý luận truyền thống của luật dân sự thì bảo vệ quyền sở hữu được hiểu
là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con
người, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu,
khắc phục những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu. Còn phương thức bảo vệ quyền
sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng để bảo vệ chủ sở hữu

khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục những thiệt hại vật chất
cho chủ sở hữu. Quyền sở hữu được bảo vệ bằng các biện pháp hình sự, hành
chính hay dân sự.
BLDS năm 2005 đã dành hẳn Chương XV (Phần thứ hai), bao gồm 7 điều từ
Điều 255 đến Điều 261 để quy định về bảo vệ quyền sở hữu. Ngoài ra, quy định về
bảo vệ quyền sở hữu còn nằm rải rác ở một số điều khác, theo đó, chủ sở hữu có
quyền bảo vệ quyền sở hữu thông qua các phương thức sau :
- Tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu;
- Yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt
hại;
- Yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi
cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu
bồi thường thiệt hại.

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

II. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự
1.Chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu hợp pháp
Tự bảo vệ quyền sở hữu là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài
sản tự mình tiến hành các biện pháp trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp của mình.
Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp được
áp dụng các biện pháp nhất định để ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, truy tìm, đòi lại tài sản bị người

khác chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của họ. Hành vi xâm phạm trước tiên làm phát sinh quan hệ giữa chủ thể quyền và
người xâm phạm. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp hơn ai hết là người biết
rõ mức độ và hậu quả của hành vi xâm phạm. Việc tự bảo vệ gắn liền với quyền lợi
thiết thân của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vì vậy, tự bảo vệ cũng chính
là việc thực hiện hành vi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp.
Như chúng ta đã biết, đặc trưng lớn nhất của quyền dân sự là nguyên tắc tự
định đoạt. Cũng chính vì lý do này mà luật dân sự được xếp vào luật tư ở những
nước có sự phân biệt hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư. Theo BLDS thì
chủ sở hữu có quyền tự thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu hợp pháp của chính mình. Ví dụ: chủ sở hữu nhà ở xây tường bao xung

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

quanh nhà của mình để bảo vệ nhà của mình khỏi bị xâm phạm từ bên ngoài, chủ
vườn cây ăn quả rào vườn và thuê người bảo vệ, trông nom vườn cây của mình…
Quyền của chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản của mình không phải là tuyệt đối, mà có
giới hạn của nó. Giới hạn đó chính là “ không được xâm phạm đến lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác ”. Các hành vi như: giăng dây
điện quanh ao cá, vườn cây để chống trộm, làm hố chông quanh gốc cây ăn quả …
dẫn đến làm người khác bị chết (kể cả kẻ trộm), đều bị coi là hành vi trái pháp
luật, phải bồi thường thiệt hại và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm.
Việc tự bảo vệ là một yêu cầu cần thiết trong mọi phương thức bảo vệ quyền
sở hữu. Dù tự bảo vệ hay yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ, chủ sở

hữu, người chiếm hữu hợp pháp luôn đóng vai trò quan trọng trong quá trình bảo
vệ. Khi yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ, chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp phải cung cấp các chứng cứ, tài liệu là cơ sở để giải quyết. Các biện
pháp bảo vệ quyền sở hữu chỉ được thực hiện có hiệu quả nếu chủ thể thực sự tự
bảo vệ một cách tích cực. Nói một cách khác, chủ sở hữu, người chiếm hữu không
chỉ thể hiện vai trò chủ động của mình trong việc tự bảo vệ mà ngay cả khi có sự
hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Việc tự bảo vệ là biện pháp thể hiện tính định đoạt cao độ của chủ thể: Khi
phát hiện ra hành vi xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp có quyền chủ động lựa chọn cách thức bảo vệ phù hợp
như: yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, yêu cầu người chiếm
hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Chủ thể có quyền

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

chủ động thương lượng, hòa giải bất cứ lúc nào trong quá trình giải quyết tranh
chấp.
Về cách thức : Biện pháp tự bảo vệ có thể tiến hành dưới bất kỳ cách thức
nào, miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội, trong khi việc khởi kiện hoặc
yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết phải tuân thủ theo những điều
kiện, trình tự, thủ tục nhất định như: điều kiện về chủ thể khởi kiện, thẩm quyền
giải quyết, hình thức tiến hành…
Về tính kinh tế : Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp có tính kinh tế cao nhất do
tiết kiệm được thời gian, chi phí tốn kém cho việc giải quyết tranh chấp. Trong khi
việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp khởi kiện không chỉ tốn kém về thời
gian cho việc giải quyết theo trình tự tố tụng mà còn tốn kém chi phí cho việc tham
gia tố tụng, chi phí giám định.

Hiệu quả bảo vệ : Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp mang tính kịp thời, tạo
khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm ngay từ đầu. Ngay khi phát hiện ra có hành
vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm, chủ thể có thể áp dụng ngay lập tức mà
không cần chờ bất kỳ một thủ tục nào. Đặc điểm này cũng phần nào tránh được vụ
việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn. Biện pháp tự bảo vệ bên cạnh những ưu
điểm về hiệu quả bảo vệ như: nhanh chóng, kịp thời, một hạn chế lớn nhất của biện
pháp này là hiệu quả bảo vệ không cao do không được bảo đảm bằng tính cưỡng
chế nhà nước. Yêu cầu của chủ thể không được bảo đảm bằng cơ chế mang tính
quyền lực Nhà nước mà hoàn toàn trông chờ, phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện
chí của bên xâm phạm. Do vậy, nếu bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí
chấm dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì biện pháp này không
mang lại hiệu quả.

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

Các hành vi tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp trong thực
tế rất đa dạng. Hiệu quả của các biện pháp này đến đâu phụ thuộc vào chính khả
năng của bản thân chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Vấn đề đặt ra là khi chủ
sở hữu không có năng lực hành vi dân sự để có thể tự mình bảo vệ quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản, thì pháp luật dự liệu như thế nào ?
BLDS Việt Nam đã có một cơ chế để xử lý vấn đề này, đó chính là chế định giám
hộ. Theo Điều 65 BLDS, người giám hộ có nghĩa vụ:
“1. Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;
2. Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp
pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự;
3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;

4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ”.
Tất nhiên, bù lại, người giám hộ sẽ được thanh toán các chi phí cần thiết cho
việc quản lý, bảo vệ tài sản của người được giám. Nếu người giám hộ có hành vi vi
phạm pháp luật (như lợi dụng việc giám hộ để chiếm đoạt tài sản của người được
giám hộ), thì phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trong trường hợp này,
việc giám hộ bị chấm dứt để thay thế bằng một quan hệ giám hộ mới, với mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Một biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu rất có hiệu quả của chủ sở hữu là biện
pháp đăng ký quyền sở hữu. Cơ sở pháp lý của quyền này là Điều 167 - BLDS.
Tuy nhiên, để xác định những loại tài sản nào phải đăng ký thì không chỉ dựa vào
Bộ luật dân sự mà còn dựa vào các văn bản pháp luật chuyên ngành (Bộ luật Hàng
hải, Luật Đất đai, Luật Hàng không dân dụng…). Thông thường, tài sản đó là nhà

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

ở, quyền sử dụng đất, ô tô, xe máy, tàu thuỷ, thuyền, máy bay… Việc đăng ký tài
sản rất có ý nghĩa, vì trong các hợp đồng dân sự đòi hỏi phải đăng ký, nó là thời
điểm hoàn tất việc chuyển giao quyền sở hữu, đồng thời là cũng là thời điểm để
chủ sở hữu có thực hiện quyền của mình với người thứ ba khi tài sản có tranh chấp.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng việc đăng ký tài sản ở Việt Nam hiện nay được thực
hiện chưa nghiêm túc. Nguyên nhân là do thủ tục hành chính còn rườm rà, lệ phí
cao so với mức sống trung bình của người dân, song nguyên nhân chủ yếu là do ý
thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa tốt. Đây là một thực tế gây rất
nhiều khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi có
tranh chấp xảy ra.
Trên thực tế, biện pháp tự bảo vệ quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
của mình là biện pháp diễn ra phổ biến nhất và cũng có hiệu quả nhất. Người Việt

Nam có truyền thống “ dĩ hòa vi quý ”, kiện nhau ra Toà cũng chỉ là trường hợp bất
đắc dĩ. Tuy nhiên, với sự phát triển của cơ chế thị trường, trong những năm gần
đây, các hành vi vi phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp bắt đầu có xu
hướng tăng. Trong những trường hợp này, biện pháp tự bảo vệ xem ra không còn
phát huy tác dụng, và chủ sở hữu phải sử dụng đến các biện pháp khác để có thể
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Chủ sở hữu yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực
hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp phải chấm dứt hành vi vi phạm,
bồi thường thiệt hại:
Ví dụ 1: A là chủ sở hữu của một căn nhà. B là hàng xóm của A, trong khi
đào móng làm nhà, đã đào sát tường nhà A, làm sụt và nứt tường của nhà A.
Ví dụ 2: C là chủ sở hữu một căn nhà. D là hàng xóm của C đã để ống thoát
nước mưa của nhà mình chảy dội sang nhà C, làm ngấm tường của nhà C. Trong

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

một lần mưa to, lượng nước mưa chảy xuống nhiều đã làm hư hỏng bức tranh quý
của nhà C treo trên tường.
Các ví dụ trên xảy ra rất phổ biến trong thực tế. Trong các trường hợp trên, A
và C với tư cách là chủ sở hữu có quyền gì đối với B và D không? Theo các quy
định của BLDS Việt Nam, thì A và C, với tư cách là chủ sở hữu có quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm, có quyền yêu cầu B và D – những người có hành vi cản trở
việc thực hiện quyền sở hữu của mình – phải chấm dứt hành vi vi phạm. Tức là A
có quyền yêu cầu B phải ngừng việc đào móng sát tường nhà của mình để tìm biện
pháp khác; C có quyền yêu cầu D phải dẫn nước thoát theo đường ống khác để
nước không chảy và ngấm sang tường nhà mình.
Tuy nhiên, tường nhà của A đã bị sụt và nứt, bức tranh quý của nhà C đã bị

hư hỏng. A và C có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo cách thức và mức do
hai bên thoả thuận.
Đây chính là cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế thường thông qua con
đường các bên tự thỏa thuận. Như đã nói ở trên, xuất phát từ nguyên tắc tự định
đoạt, nên các bên hoàn toàn có quyền tự bàn bạc, thu xếp với nhau mà không cần
thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cơ chế này tỏ ra rất hữu hiệu
trong rất nhiều trường hợp, vì nó có những lợi ích cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, các bên không phải mất thời gian, chi phí để khởi kiện tại Toà án
hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
- Thứ hai, xét về mặt tình cảm, như đã nói ở trên, với truyền thống “ dĩ hòa
vi quý ” của người Việt Nam, thì phương thức tự dàn xếp này nếu thành công sẽ
giữ gìn được mối quan hệ tình cảm tốt đẹp giữa các bên, duy trì được tình làng
nghĩa xóm;

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

- Thứ ba, nếu dàn xếp được, thì thông thường là các bên sẽ tự nguyện chấm
dứt hành vi vi phạm, khắc phục và bồi thường thiệt hại, khỏi phải thông qua cơ chế
thi hành bản án, quyết định dân sự - một vấn đề rất nhức nhối hiện nay khi các bản
án, quyết định dân sự còn tồn đọng, không được thi hành trên thực tế còn đang
chiếm một tỷ lệ rất lớn;
- Thứ tư, có một thực tế ở Việt Nam hiện nay là nhiều vụ án hình sự ( giết
người, cố ý gây thương tích, cố ý huỷ hoại tài sản…) có nguồn gốc từ các tranh
chấp dân sự. Nếu hoà giải thành thì có thể tránh được những trường hợp đau lòng,
gây thiệt hại cho các bên và cho xã hội.
Rõ ràng, cơ chế trên vừa đem lại lợi ích cho các bên cũng như cho Nhà
nước. Nhận thức được những lợi ích này, Nhà nước ta đã thiết lập cả một thể chế,

thiết chế về hoà giải. Về thể chế, đó là Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải
ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về thiết chế, đó là các Tổ hoà giải ở cơ
sở ( xóm, thôn, tổ dân phố ) dưới sự quản lý và hướng dẫn về chuyên môn nghiệp
vụ của Ban Tư pháp xã phường và Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Đây chính
là một trong những điểm ưu việt của pháp luật Việt Nam, được quốc tế đánh giá
cao.
Cũng giống như biện pháp chủ sở hữu tự mình thực hiện hành vi bảo vệ
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp, biện pháp tự dàn xếp này cũng có giới
hạn của nó. Giới hạn đó cũng chính là “ lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác ”. Các hành vi như tự ý tổ chức “ cưỡng chế đòi nợ ”, thoả
thuận dàn xếp với nhau để vi phạm quyền lợi của người thứ ba… đều bị coi là
hành vi trái pháp luật và bị xử lý ( cả về mặt hình sự hoặc hành chính nếu có đủ
yếu tố cấu thành tội phạm hoặc vi phạm ). Pháp lệnh hoà giải cũng quy định phạm
vi hoà giải không bao gồm các vụ việc có dấu hiệu hình sự hoặc hành chính. Trong

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

những trường hợp trên, việc chủ sở hữu thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền sở
hữu của mình đã vượt quá giới hạn cần thiết và do vậy bị coi là bất hợp pháp.
Sự tự thỏa thuận sẽ không phát huy tác dụng nếu bên vi phạm vẫn cố tình vi
phạm mặc dù chủ sở hữu đã yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, các bên đương sự
không thoả thuận được với nhau về cách thức, mức bồi thường thiệt hại… Trong
các trường hợp này, chủ sở hữu nếu muốn thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu của
mình, thì chỉ còn cách yêu cầu Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác
can thiệp.
3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác buộc
người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản,

chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại:
Xét về mức độ can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ pháp luật, thì trong
quan hệ pháp luật dân sự, sự can thiệp này ở mức độ thấp nhất, xuất phát từ chính
bản thân quan hệ pháp luật dân sự là quan hệ mang tính bình đẳng thoả thuận giữa
các bên, Nhà nước chỉ can thiệp khi thật cần thiết. Trong trường hợp quyền và lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, mặc dù chủ sở hữu đã yêu cầu người có hành
vi vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại, nhưng không đạt
được kết quả như mong muốn, thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền khác – với tư cách là cơ quan công quyền – buộc người
có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu
cầu bồi thường thiệt hại.

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

3.1. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác
buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải chấm dứt
hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu:
Xét về mặt khoa học luật, người ta thường gọi đây là phương thức kiện buộc
chấm dứt hành vi. Trở lại ví dụ đã dẫn ở phần trên:
A là chủ sở hữu căn nhà mình đang ở. B là hàng xóm của A. Trong lúc đào
móng làm nhà, do không tuân thủ quy trình, quy phạm kỹ thuật xây dựng, B đã đào
móng sát tường của nhà A và đã làm tường nhà A sụt, nứt một đoạn. A đã yêu cầu
B chấm dứt việc đào móng nhà để hai bên bàn bạc cách giải quyết, nhưng B vẫn
tiếp tục đào móng làm nhà và hậu quả là tường nhà A tiếp tục bị sụt, nứt ngày càng
nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống bình thường trong gia đình.

Trong trường hợp này, theo quy định của BLDS, A có quyền làm đơn gửi
đến Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ( Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh ), để đề nghị các
cơ quan này can thiệp. Theo pháp luật hiện hành thì cần phân biệt 2 trường hợp:
+ Nếu A gửi đơn yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết, thì Toà án sẽ áp dụng
thủ tục tố tụng dân sự (theo Bộ luật tố tụng dân sự) để giải quyết. Trong trường hợp
này, theo yêu cầu của A và xét thấy có đủ các điều kiện cần thiết, Toà án sẽ áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời để buộc B ngừng việc xây dựng nhằm đảm bảo
quyền lợi cho A. Sau khi có phán quyết của Toà án đã có hiệu lực pháp luật về việc
buộc B chấm dứt hành vi đào móng sát tường nhà của A, nếu B không tự nguyện
thi hành, thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ buộc B phải thi hành bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án.
+ Nếu A gửi đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền giải quyết, thì
Uỷ ban nhân dân sẽ áp dụng các quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

để giải quyết. Theo Pháp lệnh này cũng có cơ chế áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính bằng cách buộc B chấm dứt hành
vi đào móng sát tường của nhà A.
Trong thực tế, các tranh chấp có đối tượng là hành vi trái pháp luật như trên
chủ yếu liên quan đến bất động sản. Một ví dụ nữa cũng rất điển hình là hành vi
xây tường bao hoặc tường rào chắn lối đi của nhà hàng xóm. Qua thực tiễn giải
quyết các tranh chấp dạng này tại Toà án hoặc Uỷ ban nhân dân các cấp, có thể rút
ra một số nhận xét sau:
+ Hành vi là đối tượng của việc kiện phải là hành vi trái pháp luật. Hành vi
trái pháp luật ở đây được hiểu không chỉ là trái với các quy định của Bộ luật dân

sự, mà còn trái với quy định của các văn bản pháp luật khác ( như đất đai, xây
dựng…). Đặc điểm chung của các hành vi này là cản trở chủ sở hữu hay người
chiếm hữu hợp pháp thực hiện những quyền năng của mình trong khuôn khổ pháp
luật.
+ Trên thực tế, loại việc này thường liên quan đến bất động sản liền kề như
nhà ở, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất, lối đi chung…
3.2. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác
buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài
sản.
Phương thức kiện này được gọi phổ biến là kiện vật quyền ( kiện đòi lại tài
sản ). Loại việc này diễn ra khá phổ biến tại các Toà án trong những năm vừa qua,
đặc biệt là kiện đòi nhà, đất.
Liên quan đến vấn đề này, Bộ luật dân sự đã quy định về nghĩa vụ hoàn trả
tài sản do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

luật. Theo đó, trong mọi trường hợp, người chiếm hữu, sử dụng tài sản của người
khác mà không có căn cứ pháp luật, thì có nghĩa vụ hoàn trả cho chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp tài sản đó. Điều kiện để thực hiện biện pháp kiện vật quyền
là :
+ Vật rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thông qua
quan hệ hợp đồng.
Ví dụ: bị mất, bị lấy cắp, bị cướp…
+ Người thực tế đang chiếm hữu, sử dụng tài sản là người chiếm hữu, sử
dụng không có căn cứ pháp luật.
+ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phải chứng minh được vật đang

bị chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật là vật thuộc quyền sở hữu, quyền
chiếm hữu hợp pháp của mình. Trên thực tế, để chứng minh được thì tài sản
thường phải là vật đặc định.
+ Vật là đối tượng của việc kiện vẫn chưa bị xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu.
Liên quan đến vấn đề thời hiệu, Điều 247 BLDS đã quy định rất rõ ràng:
“ 1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi
năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ
pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu
cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”.

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

Vấn đề đặt ra là quan hệ pháp luật dân sự diễn ra trong thực tế rất sinh động,
không phải trong trường hợp nào tài sản cũng chỉ rời khỏi chủ sở hữu sang người
khác và dừng ở đó, mà có rất nhiều trường hợp người chiếm hữu, sử dụng tài sản
không có căn cứ pháp luật lại chuyển giao tài sản đó cho người thứ ba. Vậy trong
trường hợp này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền đòi lại vật hay
không ? Liên quan đến vấn đề này, Điều 257 và 258 BLDS quy định:
- Điều 257: “ Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu
ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người
không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có
đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất

hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu. ”
- Điều 258: “ Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu
và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài
sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó
người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.”
Qua hai điều luật trên có thể thấy BLDS nghiêng về phía bảo vệ quyền sở
hữu một cách tuyệt đối. Người thứ ba dù ngay tình hay không ngay tình khi chiếm
hữu vật do người chiếm hữu, sử dụng tài sản mà không có căn cứ pháp luật đã
chuyển giao cho mình, thì trong mọi trường hợp, khi bị chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp kiện vật quyền, đều phải có nghĩa vụ hoàn trả tài sản ( tất nhiên trừ
trường hợp xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu ).
Về vấn đề này, pháp luật của các nước có quy định rất khác với luật dân sự
của Việt Nam:

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

- Bộ Luật dân sự của Pháp quy định chủ sở hữu có quyền ưu tiên trong việc
kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình đã rời khỏi sự chiếm hữu của mình mà
không thông qua quan hệ hợp đồng (không thông qua ý chí của chủ sở hữu). Tuy
nhiên, quyền đòi lại vật cũng không phải là tuyệt đối: “ Người nào đã đánh mất
hoặc đã bị lấy trộm một vật thì có thể đòi lại vật từ người đang giữ trong thời hạn
03 năm kể từ ngày mất, nhưng người giữ vật có thể kiện lại người đã chuyển
nhượng vật cho mình ”. Như vậy, trong trường hợp đánh mất hoặc đã bị lấy trộm
một vật, thì chủ sở hữu chỉ có thời hạn là 03 năm để thực hiện quyền đòi lại vật.
Quy định trên của pháp luật các nước là xuất phát từ mục đích bảo vệ sự ổn
định và thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự, mặt khác, tạo cho chủ sở

hữu phải có ý thức cảnh giác cao trong việc bảo quản tài sản của mình để không bị
mất hoặc bị ăn cắp.
Còn trong Bộ luật dân sự Việt Nam, có thể thấy quyền đòi lại vật của chủ sở
hữu là rất mạnh. Trên cơ sở các quy định này, chủ sở hữu có quyền yêu cầu người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình phải trả lại tài sản đó, cho dù
người thứ ba là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình. Tất
nhiên, phương thức hoàn trả sẽ có sự khác nhau: nếu là không ngay tình thì người
chiếm hữu, người sử dụng, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản,
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; còn nếu là ngay tình, thì chỉ phải
hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc
chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Trong
trường hợp người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đã bỏ chi phí ra để làm tăng giá trị của

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

tài sản, thì sẽ được thanh toán những chi phí đó khi họ phải hoàn trả tài sản cho chủ
sở hữu.
Vậy phải chăng người thứ ba ngay tình không được pháp luật bảo vệ ?
Họ vẫn được pháp luật bảo vệ, nhưng theo một phương thức khác, đó là kiện
đòi bồi thường thiệt hại ( kiện trái quyền ).
Giao dịch dân sự chính là công cụ hữu hiệu để các chủ thể tìm kiếm và trao
đổi lợi ích với nhau. Nhưng thực tế cho thấy, đôi khi chủ thể đã xác lập, thực hiện
một giao dịch dân sự nhưng lại không đạt được lợi ích mà mình mong muốn mặc
dù họ hoàn toàn thiện chí và ngay thẳng khi tham gia vào giao dịch đó. Nhà làm

luật gọi những chủ thể này là người thứ ba ngay tình. Nguyên nhân nằm ở chỗ lợi
ích của họ bị đối kháng với lợi ích của một chủ thể khác – đó là chủ sở hữu đích
thực của tài sản trong giao dịch. Hay nói cách khác người xác lập giao dịch với
người thứ ba ngay tình là người không có quyền định đối với tài sản đó. Vậy pháp
luật sẽ quy định như thế nào để bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu tài sản với quyền
lợi của người thứ ba ngay tình.
Một nguyên tắc được thừa nhận trong chế định sở hữu đó là các quyền năng
của chủ sở hữu sẽ được pháp luật tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối, thông qua các quy
định cho phép chủ sở hữu được đòi lại tài sản của mình từ những người chiếm hữu,
người sử dụng, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Chủ sở hữu có
quyền đòi tài sản từ những chủ thể có mối quan hệ trực tiếp với chủ sở hữu là lẽ
hoàn toàn tất yếu, hợp cả về lý lẫn tình. Có thể phân chia mối quan hệ này thành 2
loại :
+ Những quan hệ mà tài sản rời khỏi chủ sở hữu phù hợp với ý chí của chủ
sở hữu như quan hệ cho thuê, cho mượn tài sản, dùng tài sản để cầm cố, cầm đồ…

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

Vậy, theo bản chất của những quan hệ này và sự thoả thuận của các bên trong quan
hệ nên chủ sở hữu hoàn toàn có căn cứ để đòi lại tài sản của mình;
+ Những quan hệ mà tài sản rời khỏi chủ sở hữu ngoài ý chí của họ, có 2
loại: thứ nhất, tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật như bị trộm cắp, cướp giật, lừa
đảo; thứ hai, tài sản của chủ sở hữu mà người khác có được do được lợi, do vô tình
phát hiện nhặt được…nhưng không thông báo theo luật định. Công nhận cho chủ
sở hữu được đòi lại tài sản trong trường hợp này là chính đáng bởi những chủ thể
đang nắm giữ tài sản này có động cơ bất hợp pháp, không trong sáng và tham lam
khi chiếm giữ tài sản

Nhưng nếu người đang thực tế chiếm giữ tài sản là người thứ ba ngay tình
(có mối quan hệ bắc cầu với chủ sở hữu qua người trung gian; và hoàn toàn thiện
chí, ngay thẳng khi xác lập, thực hiện các giao dịch này) thì quyền đòi tài sản này
của chủ sở hữu có được duy trì hay không ? Ở đây, cần phải cân nhắc sự xung đột
về lợi ích giữa quyền của chủ sở hữu tài sản và lợi ích hợp pháp của người thứ ba
ngay tình. Thực chất, đứng sau quyền lợi của người thứ ba ngay tình còn là lợi ích
chung của cả xã hội, cụ thể đó là sự ổn định và an toàn của các giao dịch dân sự đã
được các chủ thể xác lập. Nếu tuyệt đối hoá hoàn toàn quyền được đòi tài sản của
chủ sở hữu thì sẽ tất tạo ra tâm lý e dè, lo sợ của các chủ thể khi quyết định thực
hiện một giao dịch dân sự để xác lập quyền sở hữu đối với một tài sản cụ thể. Và
vô hình chung quy định này sẽ tạo ra một rào cản cho sự thúc đẩy các giao lưu dân
sự, thương mại phát triển và kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội nói chung, đặc
biệt trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường đang chuyển mình hội nhập của nước
ta hiện nay. Để cân bằng sự xung đột về lợi ích trong trường hợp này, chế định bảo
vệ quyền sở hữu trong BLDS 2005 đã có những quy định rất mềm dẻo và linh
hoạt, đặc biệt đã dành một thái độ tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình - một điểm tiến bộ hơn hẳn so với quy định của BLDS 1995 trước đó.

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

 Quyền lợi của người thứ ba ngay tình sẽ được bảo vệ trong 2 trường
hợp sau:
Trường hợp 1: Chủ sở hữu được đòi lại tài sản theo các điều kiện luật định
( Điều 257 và 258 – BLDS 2005). Lúc này, người thứ ba ngay tình phải trả lại tài
sản mà mình đang chiếm giữ cho chủ sở hữu đích thực của tài sản và lợi ích của họ
sẽ được pháp luật bảo hộ dưới các góc độ sau:
-


Được yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ( giá trị đòi bồi thường là giá trị

của giao dịch mà họ đã xác lập và các thiệt hại khác nếu có như hệ số trượt giá của
tài sản…) từ người đã trực tiếp chuyển giao tài sản cho mình. Quy định này hoàn
toàn logic về mặt lý thuyết : tuy mục đích trong giao dịch đã xác lập không đạt
được ( họ muốn sở hữu tài sản nhưng nay tài sản đã phải trả về cho chủ sở hữu )
nhưng họ được quyền đòi lại những gì đã mất từ người đã trực tiếp xác lập giao
dịch; nhưng xét dưới góc độ thực tế thì đây không phải là quy định mang tính lý
tưởng. Bởi lẽ, chỉ có thể thi hành quy định này trên thực tế nếu thoả mãn được hai
điều kiện:
+ Tìm được người đã chuyển giao tài sản đó cho người thứ ba ngay tình;
+ Người phải bồi thường có khả năng tài chính và tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ. Điều kiện thứ 1 là khó thực hiện được bởi vốn dĩ họ là người có động cơ
tham lam, không trong sáng nên sau khi thực hiện giao dịch xong, đạt được lợi ích
mong muốn họ thường tìm cách xoá mọi tin tức để tránh trách nhiệm sau này.
Điều kiện thứ hai phụ thuộc vào điều kiện thứ nhất có tồn tại hay không và
cũng thường gặp những phức tạp như: người phải thi hành nghĩa vụ không có tiền
để bồi thường hoặc họ tìm cách biển thủ tài sản để chây ì không chịu thực hiện
nghĩa vụ.

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

- Được hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu đến thời điểm phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu.
- Được thanh toán những chi phí đã bỏ ra để làm tăng giá trị cho tài sản.
Lưu ý: Nếu là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng không ngay tình

phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu đích thực nhưng không bao giờ được hưởng tất
cả các quyền lợi trên, cụ thể như sau:
- Không được quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại từ người đã trực tiếp
chuyển giao tài sản cho mình, bởi họ bị coi như vị trí của người tiêu thụ tài sản do
hành vi bất hợp pháp mà có
- Phải hoàn trả toàn bộ hoa lợi, lợi tức đã thu được từ tài sản.
- Không được thanh toán những chi phí đã bỏ ra để làm tăng giá trị cho tài
sản, bởi nhà làm luật coi đó như là hành vi nguỵ trang đối với tài sản
- Phải bồi thường toàn bộ khoản lợi nhuận mà chủ sở hữu bị mất do khai
thác và giá trị tài sản.
Trường hợp thứ 2: Chủ sở hữu đích thực không có quyền kiện đòi tài sản
trong 2 trường hợp: không đáp ứng được các điều kiện về đòi tài sản được quy
định tại Điều 257, 258 – BLDS 2005 ; và người chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu theo quy định tại
điều 247 - BLDS 2005. Quyền lợi của người thứ ba ngay tình được bảo vệ trong
trường hợp này là được công nhận là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản mà mình
đang chiếm hữu. Đây là phương thức bảo vệ lợi ích của người thứ ba ngay tình ưu
việt nhất và có tính khả thi cao hơn so với cách thức đòi bồi thường thiệt hại như
đã phân tích ở trên. Tuy nhiên cách thức bảo vệ này vẫn bộc lộ những khó khăn
trong việc xác định các loại giấy tờ cần thiết nào và các trình tự thủ tục cụ thể gì để

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

đăng ký quyền sở hữu tài sản cho người thứ ba ngay tình trong trường hợp họ đang
chiếm hữu những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy rằng việc pháp luật quy định người thứ ba ngay tình phải hoàn
trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp sẽ là một bất lợi lớn đối

với họ trong rất nhiều trường hợp. Nếu đó là tài sản mà người này đã đầu tư vào
kinh doanh ( ví dụ máy móc, trang thiết bị kỹ thuật…), thì khi phải trả lại, họ sẽ
phải chịu những xáo trộn nhất định trong công việc của mình. Hoặc nếu đó là
những tài sản quý hiếm ( tranh quý, đồ mỹ nghệ, đồ trang sức…) mà họ đã bỏ tiền
ra mua để sưu tập, làm kỷ niệm… nay dù không muốn trả lại thì họ vẫn buộc phải
trả lại nếu chủ sở hữu có yêu cầu đòi lại tài sản. Tóm lại là dù không muốn trả lại
tài sản vì lý do nào đó, nhưng khi bị chủ sở hữu kiện đòi tài sản, thì người thứ ba
ngay tình vẫn phải trả lại tài sản. Rồi để thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, họ lại phải đeo đuổi một vụ kiện khác: kiện người đã giao tài sản cho mình
phải bồi thường thiệt hại, mà điều này cũng không phải là dễ dàng nhất là trong
trường hợp tài sản đã qua tay nhiều người.
3.3. Chủ sở hữu yêu cầu Toà án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác
buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải bồi thường
thiệt hại.
Phương thức này còn được gọi là kiện trái quyền.
Điều 260 BLDS quy định:
“ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”.
Ngoài chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người thứ ba ngay tình cũng
có quyền khởi kiện yêu cầu người đã xác lập giao dịch với mình phải bồi thường

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

thiệt hại ( kiện trái quyền ), nếu tài sản bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc trả lại
cho người có quyền nhận tài sản đó.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định khá rộng và phức tạp.
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng tôi chỉ xem xét vấn đề dưới góc độ như là

một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, mà không đi sâu phân tích các quy định chi
tiết (như năng lực chịu trách nhiệm bồi thường, xác định thiệt hại, bồi thường thiệt
hại trong từng trường hợp cụ thể…).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản phát sinh từ hành vi xâm phạm
đến quyền sở hữu tài sản của công dân, pháp nhân như làm mất, phá huỷ, huỷ hoại
tài sản… Ý nghĩa của chế định bồi thường thiệt hại về tài sản là một mặt, nhằm
khôi phục những thiệt hại về vật chất mà người gây thiệt hại đã gây ra cho chủ sở
hữu, người chiếm hữu hợp pháp; mặt khác, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ
pháp luật, tôn trọng quyền sở hữu tài sản của người khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu cũng là
một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, do đó, về nguyên tắc, nó chỉ phát sinh
khi có đủ các yếu tố sau đây:
+Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật;
+Có thiệt hại thực tế xảy ra;
+Có lỗi của người gây thiệt hại;
+Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra[5].
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là phải toàn bộ, kịp thời. Các bên có thể thoả
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật, hoặc thực
hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM – MODULE 1

định khác. Tuy nhiên, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu
do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài
của mình.
Về cơ bản, các quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại đối với tài sản
được đánh giá là tương đối hoàn thiện và đã phát huy tác dụng trong thực tiễn áp

dụng pháp luật.
III. Thực trạng và giải pháp
Trong thực tế tranh chấp về quyền sở hữu là hết sức phức tạp. có nhiều vụ
phải xử đi xử lại đến hàng chục lần, nhiều người phải mất hơn chục năm trời mang
đơn đi khiếu kiện tại Toà án nhân dân từ địa phương lên trung ương. Trong việc
giải quyết các tranh chấp thuộc loại này, Toà án thường gặp một số khó khăn
vướng mắc sau :
Thứ nhất, nhiều quy định của pháp luật còn thiếu hoặc chưa rõ ràng nên rất
khó vận dụng, đặc biệt là các văn bản pháp luật về đất đai và nhà ở, nên mỗi địa
phương vận dụng một kiểu;
Thứ hai, vấn đề xác minh nguồn gốc tài sản, đặc biệt là nhà, đất ở Việt Nam
hiện nay rất khó, nguyên nhân là tình trạng đất không có sổ đỏ, nhà không có giấy
chứng nhận quyền sở hữu đang khá phổ biến. Tình hình triển khai cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất trong thời gian qua rất chậm, gây không ít khó khăn cho
các bên đương sự và Toà án các cấp trong việc xác định, đánh giá chứng cứ để giải
quyết các tranh chấp có liên quan;
Thứ ba, vấn đề xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn
gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do phong tục tập quán ở Việt Nam quan
niệm hôn nhân là việc rất đặc thù, không phải là quan hệ dân sự nên không có

4


×