Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở trường thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 59 trang )

1
LỜI CÁM ƠN
Xin chân thành cám ơn quý Thầy Cô giảng viên Trường Đại
học sư phạm TP Hồ Chí Minh, Phòng Trung học phổ thông Sở
GD&ĐT Bình Dương đã tổ chức bồi dưỡng, tận tình hướng dẫn
giúp đỡ tôi hoàn thành lớp Bồi dưỡng thay sách lịch sử lớp 10
trong Hè 2006 và lớp Bồi dưỡng thường xuyên môn lịch sử Chu
kỳ III (2004-2007).
Đặc biệt, xin chân thành cám ơn Ban giám hiệu, Ban chấp
hành Công đoàn Trường THPT Dĩ An, Tổ Sử - Địa - Giáo dục
công dân đã trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn và đóng góp những ý
kiến chủ đạo cho nội dung đề tài sáng kiến kinh nghiệm nầy.
Những nội dung đã học tập và kinh nghiệm tích lũy được từ
đề tài nầy sẽ là hành trang vô cùng quý báu cho quá trình đổi mới
phương pháp dạy học lịch sử của bản thân chúng tôi trong thời
gian sắp tới.
Dĩ An, ngày 19 tháng 5 năm 2007
Người thực hiện,
Nguyễn Chí Thuận
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………….7
2. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu……………………………….9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………11
3.1. Mục đích nghiên cứu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài, mức độ nghiên cứu……………… 15
4.1. Tình hình nghiên cứu đề tài.
4.2. Mức độ nghiên cứu đề tài.
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu……………………… 16
5.1. Đối tượng nghiên cứu.


5.2. Khách thể nghiên cứu.
5.3. Phạm vi nghiên cứu.
6. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu…………….17
2
6.1. Cơ sở lý luận thực tiễn.
6.2. Phương pháp nghiên cứu.
7. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài……………………………………… 20
7.1. Đối với cấp lãnh đạo quốc gia.
7.2. Đối với cấp lãnh đạo cơ sở.
8. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm……………………… 22
NỘI DUNG
Phần I. Nêu thực trạng vấn đề.
1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài nghiên cứu…………………………23
1.1. Tình hình giảng dạy môn lịch sử ở đơn vị.
1.2. Tình hình trường, lớp, học sinh.
1.3. Tình hình đội ngũ cán bộ quản lý.
1.4. Tình hình cán bộ, giáo viên, nhân viên.
1.5. Ưu điểm khi dạy học bằng giáo án điện tử.
2. Khó khăn khi thực hiện đề tài nghiên cứu……………………… 26
2.1. Hạn chế khi giảng dạy bằng giáo án điện tử.
2.2. Hạn chế khi áp dụng cho phần thảo luận, thuyết trình.
2.3. Hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu trước khi học bài mới.
2.4. Giáo viên cần có thời gian nghiên cứu nắm vững cấu trúc, lôgic của
toàn bộ bài dạy, chương, khóa trình trong SGK khi soạn giảng phương
pháp tích cực.
Phần II. Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính.
1. Nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử………………. 29
1.1. Định hướng về phương pháp đổi mới dạy học lịch sử.
1.1.1. Tính phù hợp của đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
1.1.2. Chất lượng của đổi mới dạy học lịch sử đòi hỏi.

1.2. Định hướng giá trị xã hội trong việc đổi mới dạy học lịch sử đối với
giáo dục liên môn trong trường THPT để đào tạo học sinh.
1.2.1. Con người có niềm tin vững chắc và quyết tâm cao.
1.2.2. Con người đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2.3. Con người có bản sắc nhân văn, nhân đạo, nhân ái trong quan hệ giữa
người với người.
1.2.4. Con người khoa học.
1.2.5. Con người công nghệ.
1.2.6. Con người có thể lực cường tráng.
1.2.7. Con người công dân.
1.2.8. Con người có cá tính và bản sắc riêng.
1.3. Một số yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học lịch sử ở trường
THPT hiện nay.
1.4. Một số nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
1.5. Đổi mới dạy học lịch sử theo phương pháp giải quyết vấn đề được chia
thành những bước, những giai đoạn có tính chuyên biệt.
1.5.1. Theo Jonh Dewey đề nghị có 5 bước để giải quyết vấn đề.
3
1.5.2. Theo Kudriasev chia làm 4 giai đoạn để học sinh giải quyết vấn đề.
1.6. Đổi mới dạy học lịch sử theo phương pháp giải quyết vấn đề bao gồm
nhiều hình thức tổ chức đa dạng.
1.7. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử theo hướng kết hợp kiểu truyền
thống (nghe giảng – đọc – chép ) với kiểu đưa vào vấn đề (kết quả do
học sinh tự nghiên cứu, tổng kết nhằm giải quyết vấn đề thực tế do giáo
viên đưa ra).
2. Nhận thức về quá trình dạy học lịch sử theo hướng tích cực………36
2.1. Muốn đạt được chất lượng trong giáo dục, trước hết phải giảng dạy có
hiệu quả bài học lịch sử.
2.2. So sánh giữa phương pháp giảng dạy truyền thống với giảng dạy mang
tính hỗ trợ khuyến khích quá trình học tập và tham gia tích cực.

3. Làm thế nào để hướng tới việc dạy học lịch sử có hiệu quả………. 38
3.1. Mỗi giáo viên đều có những khả năng đặc trưng khác nhau, phong cách
giảng dạy khác nhau. Học sinh cũng có những động cơ và phong cách
học tập khác nhau.
3.2. Các phong cách học tập của học sinh.
3.3. Muốn giảng dạy đạt hiệu quả, giáo viên cần phải kiểm soát và thực
hành để trao dồi kỹ năng của mình.
4. Giáo viên sử dụng phương pháp giao tiếp thích hợp để giảng dạy có
hiệu quả……………………………………………………………… 42
4.1. Quá trình giảng dạy là hạt nhân của công cuộc giáo dục.
4.2. Một số ví dụ về học tập tích cực.
4.3. Phương pháp đổi những câu đơn giản thành những câu khó.
4.4. Khi đặt câu hỏi giáo viên cần lưu ý.
4.5. Giáo viên cần ghi nhật ký rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy.
5. Vận dụng lý thuyết áp dụng vào thực tế trong 1 tiết dạy bằng giáo án
điện tử…………………………………………………………………45
5.1. Giáo viên tiến hành nghiên cứu toàn chương, nội dung bài học.
5.2. Giáo viên tìm hiểu các tư liệu lịch sử có liên quan đến bài học.
5.3. Giáo viên soạn giáo án theo mẫu bình thường, theo đúng mẫu quy định
của Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn ở lớp tập huấn thay sách hè 2006.
5.4. Giáo viên soạn giáo án điện tử (đính kèm giáo án điện tử in sang dĩa
mềm).
5.5. Giáo viên tiến hành giảng dạy trên lớp.
Phần III. Kết quả đạt được và kinh nghiệm rút ra được
từ sáng kiến kinh nghiệm.
1. Kết quả đạt được…………………………………………………… 71
2. Bài học kinh nghiệm rút ra được từ sáng kiến kinh nghiệm……… 72
2.1. Giáo viên lớn tuổi vẫn có thể áp dụng phương pháp soạn giảng bằng
giáo án điện tử.
2.2. Tìm nguồn tư liệu từ trường đại học sư phạm và đồng nghiệp.

2.3. Tìm nguồn tư liệu từ sách báo, thư viện, internet, đài truyền hình.
4
2.4. Chuẩn bị thay thế tiết dạy trên lớp khi phòng máy cúp điện có giáo
khác đăng ký sử dụng.
2.5. Áp dụng phần mềm để kiểm tra học sinh môn lịch sử.
2.6. Áp dụng phần mềm cộng điểm kiểm tra xếp loại học kì.
2.7. Kết hợp Đoàn thanh niên tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động
tìm hiểu lịch sử.
2.8. Ghi nhật ký giảng dạy rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy.
Phần IV. Khả năng ứng dụng, triển khai sáng kiến kinh
nghiệm…….77
KẾT LUẬN………………………………………………………………81
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………… 85
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài :
Đất nước ta đang thực hiện đường lối đổi mới và tiến hành công cuộc
công nghiệp hóa-hiện đại hóa (CNH-HĐH). CNH-HĐH không chỉ đơn
thuần là công cuộc xây dựng nền kinh tế đất nước đang trên quá trình hội
nhập quốc tế, mà còn là quá trình cách mạng làm biến đổi sâu sắc tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH-
HĐH ở Việt Nam, Đảng ta đã xác định “Phải lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong
các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội (tài nguyên, thiên nhiên, vốn, nguồn
nhân lực, khoa học công nghệ ) thì nguồn nhân lực giữ vai trò quyết
định”.
Hiện nay, bên cạnh những thành tựu quan trọng về kinh tế, văn hóa xã
hội, đời sống của nhân dân ta tiếp tục được cải thiện, giáo dục và đào tạo
(GD&ĐT) cũng đang phát triển về quy mô và cơ sở vật chất. trình độ dân
trí và chất lượng nguồn nhân lực được nhân lên.
Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ CNH-HĐH ở nước ta

hiện nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển. trước tác động
ngày càng mạnh của xu thế toàn cầu hóa, chúng ta cũng đang gặp nhiều khó
khăn trở ngại do chất lượng và hiệu quả GD&ĐT còn thấp so với yêu cầu.
Những năm gần đây kết quả thi đại học môn lịch sử không chỉ gây buồn
phiền cho nhiều người mà còn gây cảm giác bất an cho văn hóa xã hội. Hơn
bao giờ hết, chúng ta hiểu rõ rằng, cái nền móng quốc hồn, quốc túy; cái
phần cốt lõi tạo nên lòng yêu nước, bản lĩnh dân tộc đang bị lung lay trong
trái tim và nhận thức của nhiều thế hệ. Đã đến lúc phải coi đó là mối nguy
hiểm thực sự đe dọa đến tương lai của giống nòi.
5
GD&ĐT có vị trí quan trọng trong chiến lược đào tạo nguồn nhân lực,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong giai đoạn CNH-
HĐH hiện nay. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII nêu rõ : “Thực sự coi GD&ĐT là quốc sách hàng đầu.
Nhận thức GD&ĐT cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định
sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho GD&ĐT là đầu tư
cho phát triển”.
Ngay khi giành được độc lập, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác
định tầm quan trọng của việc học môn lịch sử : “Dân ta phải biết sử ta, cho
tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Trước những thay đổi to lớn của nền khoa học thế giới, nền giáo dục
thế giới đã có bước tiến dài và chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp
(cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba, giáo dục được song hành tại các
nước xem là nguồn tri thức bổ trợ chủ lực công cuộc phát triển quốc gia).
Hòa chung vào dòng biến đổi của thế giới, nền giáo dục nước ta cũng đã có
những biến đổi qua quá trình “đổi mới” từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI khi nền kinh tế thị trường bắt đầu được áp dụng vào Việt Nam. Tuy
nhiên căn bệnh thành tích tại các bậc học phổ thông đã làm suy giảm chất
lượng của việc dạy và học bộ môn lịch sử, qua kết quả thi tốt nghiệp THPT
và nhất là thi đại học, những thí sinh chọn môn sử là ngành thi đại học của

mình mà có cả đến chục ngàn thí sinh có điểm 0, điểm 1.
Lịch sử là môn học tái hiện lại cho học sinh biết về quá khứ dân tộc qua
các thời kì để các thế hệ nối tiếp theo vận dụng những bài học kinh nghiệm
của người xưa vào công cuộc đấu tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Môn
lịch sử còn giáo dục những phẩm chất truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
giáo dục lòng yêu nước, biết ơn tiền nhân, hoài bão và ý chí xây dựng đất
nước cho các thế hệ tiếp theo. Mặt khác, trong giai đoạn mở cửa hiện nay,
môn lịch sử còn là một trong những môn học quan trọng trong việc bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Môn lịch sử ở trường THPT được coi là môn trụ cột của ngành khoa
học xã hội, vì nó liên quan đến nhiều môn học khác từ văn học, địa lý cho
đến các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật … đều gắn liền với lịch sử.
Những năm gần đây Bộ GD&ĐT liên tiếp cho thi môn lịch sử trong kì
thi tốt nghiệp THPT cùng với hai môn thi bắt buộc là văn, toán. Đó là chủ
trương đúng đắn để học sinh không còn tâm lý xem thường môn lịch sử là
môn học phụ trong trường THPT.
Việc dạy và học môn lịch sử hiện nay đang thu hút sự quan tâm chú ý
của toàn xã hội. Qua bốn năm cải cách ở bậc THCS, kể từ năm học 2006 –
2007, Bộ GD&ĐT bắt đầu triển khai chương trình thay sách lớp 10 bậc
THPT và mở chuyên đề giảng dạy bồi dưỡng kiến thức cho giáo viên môn
lịch sử về “Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch
sử ở trường THPT”.
6
Việc cải cách, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử đòi hỏi giáo viên
phải có một trình độ hiểu biết liên quan đến nhiều bộ môn thì mới có thể
đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của việc dạy học lịch sử.
Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt ra
cho toàn xã hội, cho ngành giáo dục, nhất là đội ngũ giáo viên dạy lịch sử
nhiều nhiệm vụ phải bổ sung, nâng cao kỹ năng giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng dạy học lịch sử, làm thế nào cho môn lịch sử ở trường THPT

xứng đáng với vị trí vốn có của nó.
2. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu :
Hiện nay nền kinh tế tri thức đang đóng vai trò quyết định trong sản
xuất vật chất. Nhờ những phương tiện thông tin hiện đại mà khoảng cách
về không gian được rút ngắn hơn. Xu thế toàn cầu hóa yêu cầu con người
phải thay đổi nhịp sống của mình thì mới nắm bắt kịp những thay đổi nhanh
chóng của nhân loại, mới thích ứng và phát triển theo nhịp sống đương đại.
Khối lượng kiến thức của nhân loại ngày càng nhiều, thời gian và điều
kiện tiếp thu lại có hạn mà yêu cầu của ngành giáo dục về chất lượng đào
tạo phải ngày càng cao. Chính vì thế việc đổi mới nội dung và phương pháp
dạy học lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt. Làm thế nào để học sinh không
bị nhồi nhét kiến thức, lo học tủ, học vẹt để thi cử?
Với chủ trương vận động của Bộ GD&ĐT “Nói không với tiêu cực
trong thi cử, chống bệnh thành tích trong giáo dục” càng đòi hỏi người
giáo viên dạy học môn lịch sử phải cải tiến phương pháp soạn giảng, làm
thế nào để học sinh có hứng thú, phát huy tư duy, óc phán đoán trong các
vấn đề về các sự kiện lịch sử để các em hiểu được nguyên nhân, ý nghĩa và
bài học kinh nghiệm lịch sử trong quá trình dạy học lịch sử.
Qua một năm giảng dạy sách giáo khoa mới, về hình thức trình bày,
cách thể hiện nguồn kiến thức trong mối quan hệ giữa kênh hình và kênh
chữ đã tạo điều kiện cho giáo viên có thể tiến hành đổi mới phương pháp
dạy học lịch sử.
Luật Giáo dục của nước ta được thông qua năm 1998, trong chương I
“Những quy định chung”, đã nhấn mạnh yêu cầu đổi mới phương pháp giáo
dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng là : “Phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng
lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Từ công tác bồi dưỡng thay sách trong hè năm 2006, việc đổi mới dạy
học lịch sử ở trường THPT đã trở thành một yêu cầu cấp bách của giáo viên
môn lịch sử, vì không chỉ để đáp ứng mục tiêu và nhiệm vụ của bộ môn

lịch sử ở trường THPT mà còn góp phần làm thế nào để thay đổi nhận thức
của xã hội về vị trí, tầm quan trọng của bộ môn lịch sử đối với việc giáo
dục thế hệ trẻ.
Đảng ta vạch ra mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm
(2001-2010) là : “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao
7
rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng,
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế thị trường
định hướng XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao”.
Nhiệm vụ GD&ĐT cũng được xác định rõ là : “Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới về nội dung, phương pháp dạy và học,
hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa; đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân
bằng những hình thức chính quy và không chính quy, thực hiện bằng giáo
dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập”.
Việt Nam đang bước vào hội nhập quốc tế và khu vực cho nên càng đòi
hỏi cấp bách việc giáo dục phải đổi mới và nâng cao chất lượng để đáp ứng
yêu cầu trên. Trước tiên và quan trọng hơn cả là việc dạy học lịch sử phải
phấn đấu vươn tới chuẩn chung về chương trình đào tạo, về mô hình quản
lý, đặc biệt là phải đạt chuẩn về chất lượng và các điều kiện đảm bảo chất
lượng đào tạo. Nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng tìm được lời giải cho
vấn đề nầy cũng có nghĩa là tìm được hướng cải cách chương trình, thay
sách giáo khoa, cũng chính là mục dích tìm ra một hướng di cho phù hợp
tình hình hiện nay của đơn vị.
Đề tài “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT qua một
tiết dạy bằng giáo án điện tử” nhằm giải quyết vấn đề cấp bách của giáo
viên bộ môn lịch sử và của công tác dạy học lịch sử mà xã hội đang quan

tâm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của việc nghiên cứu việc đổi mới dạy học lịch sử ở trường
THPT là nhằm nâng cao hiệu quả của một bài, một chương hay cả khóa
trình trong việc dạy học lịch sử. Vì thế mục đích áp dụng việc đổi mới nội
dung và phương pháp dạy học lịch sử chính là tìm ra lời giải về hiệu quả
hay chất lượng của việc dạy học lịch sử.
Hiện nay việc dạy và học lịch sử còn nhiều bất cập, nhiều học sinh sau
khi học xong vẫn không thể nhớ và hiểu biết đúng lịch sử. Các em thường
có quan niệm sai lầm là học lịch sử chỉ cần học thuộc lòng, ghi nhớ các sự
kiện, không cần phải suy luận tư duy hiểu biết sâu sắc về các sự kiện lịch
sử.
Tuy nhiên, từ thực tế đã cho thấy rằng việc ghi nhớ các sự kiện lịch sử
sẽ không bền vững nếu như không hiểu được các sự kiện vì sao lại diễn ra.
Nếu chỉ ghi nhớ các sự kiện lịch sử chưa phải là hoàn thành yêu cầu của
việc học tập môn lịch sử. Biết để hiểu và có hiểu thì mới biết một cách sâu
sắc và vững chắc.
8
Tất cả các nước hiện nay, đặc biệt là các nước phát triển, đều phải tiến
hành đổi mới giáo dục, coi đổi mới giáo dục là một trong những chiến lược
để phát triển đất nước của mình. Hội đồng về “ Giáo dục thế kỉ XXI ” của
UNESCO, Liên Hiệp quốc đã đưa ra khuyến cáo về 4 trụ cột của giáo dục
là:
-Học để biết.
-Học để làm việc.
-Học để cùng chung sống.
-Học để làm người.
Vì thế ngoài mục tiêu đào tạo ra những con người sống tốt có trách
nhiệm với cộng đồng, nền giáo dục hiện nay còn phải chú trọng để trang bị

những năng lực chìa khóa để học sinh có thể thích ứng và phát triển trong
một xã hội phát triển và thường xuyên biến đổi. Đó chính là năng lực sáng
tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự khẳng định mình, năng lực hành động có
hiệu quả.
Học sinh sau khi rời khỏi trường THPT không thể là những con người
thụ động mà phải có tư duy nhạy bén, vừa là con người dân tộc Việt Nam,
vừa là con người quốc tế, hoàn thành nhiệm vụ của mình trong gia đình,
cộng đồng xã hội và lao động hợp tác quốc tế.
Trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế, vấn đề giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trở thành một yêu cầu cấp thiết, đặc biệt là đổi mới
phương pháp dạy học môn lịch sử là môn học có liên quan đến quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, liên quan đến tất cả các môn khoa
học xã hội - nhân văn nhằm hình thành phẩm chất đạo đức và tính cách của
con người Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Từ những mục đích nghiên cứu nêu trên, muốn chất lượng dạy học môn
lịch sử được nâng lên, giáo viên cần phải chú ý các nhiệm vụ sau đây :
-Nắm chính xác các sự kiện lịch sử cơ bản, có biểu tượng về quá khứ.
-Hiểu đúng các sự kiện để rút ra những kết luận khoa học (nắm được
các khái niệm, nêu quy luật, rút ra bài học lịch sử).
-Vận dụng vào cuộc sống (trong học tập và trong hoạt động thực tiễn).
Nhiệm vụ nghiên cứu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử
của người giáo viên đó là :
+Xem xét hiệu quả giáo dục : Xem kết quả thu được so với mục tiêu và
công sức bỏ ra gồm hiệu quả bên trong và hiệu quả bên ngoài.
-Hiệu quả bên trong : xem xét kết quả giảng dạy của giáo viên qua việc
tiếp nhận của học sinh, mức độ hiểu biết kiến thức và xử lý những kiến
thức đã thu nhận được để củng cố nhận thức.
-Hiệu quả bên ngoài : xem biểu hiện của việc nhận thức, vận dụng kiến
thức vào học tập và đời sống.

9
+Về mặt kiến thức : Việc giảng dạy của giáo viên có hiệu quả trước hết
phải làm cho học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của bài học, của
từng chương và của cả khóa trình lịch sử. Hiệu quả của việc nắm vững kiến
thức là học sinh phải trả lời được các câu hỏi như thế nào, vì sao và để làm
gì ?
Để trả lời câu hỏi như thế nào tức là yêu cầu học sinh phải biết miêu tả
và khôi phục lại quá khứ, có khả năng sử dụng các tài liệu tham khảo và đồ
dùng trực quan.
Học sinh biết trả lời câu hỏi vì sao tức là biết xem xét các sự kiện, nhân
vật lịch sử trong bối cảnh nó xuất hiện và tồn tại. Biết phân tích, giải thích,
đánh giá, nhận xét để từ đó rút ra những quy luật và bài học lịch sử để áp
dụng trong đời sống xã hội.
+Về mặt giáo dục : Bộ môn lịch sử cũng “thông qua dạy chữ để dạy
người”, những hình ảnh sinh động, tấm gương quá khứ, bài học lịch sử phải
tạo được sự cảm xúc trong lòng học sinh, rung động trước hiện thực lịch sử,
từ đó giúp học sinh hình thành những tình cảm, thái độ yêu ghét rõ ràng,
phân biệt cái thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa. Từ đó sẽ hướng dẫn
hành động của học sinh trong hiện tại và tương lai.
+Về mặt kỹ năng : Giáo dục học sinh phát triển toàn diện : làm việc có
phương pháp, có tư duy độc lập sáng tạo, khả năng tri giác, tưởng tượng,
phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, kỹ năng thực
hành bộ môn. Từ đó học sinh có khả năng tự tìm tòi kiến thức mới để hoàn
thiện kiến thức của mình.
Khi nghiên cứu giáo viên cần phải chú ý :
-Thứ nhất phải thục hiện 3 mục tiêu : kiến thức mới cần thu thập, giáo dục
thái độ tình cảm và kỹ năng cho học sinh.
-Thứ hai phải hiện đại hóa nội dung cho phù hợp với yêu cầu mới của thời
đại, đảm bảo tính dân tộc và tính quốc tế; giữa tính dân tộc và tính khu vực;
giữa truyền thống và hiện đại, đồng thời phải tùy thuộc vào đặc điểm và

điều kiện của học sinh.
-Thứ ba là không cần phải có phương tiện dạy học hiện đại, có cơ sở vật
chất thật đầy đủ, mà phải tùy theo điều kiện cho phép, bằng những phương
pháp dạy học phù hợp, giáo viên phải phát huy tính tích cực của học sinh,
làm cho học sinh hứng thú trong học tập, từ chỗ thụ động thành chủ động
trong quá trình học tập.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài, mức độ nghiên cứu.
4.1. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong tình hình hiện nay môn lịch sử với chất lượng giảm sút, học sinh
còn có thành kiến xem là môn học phụ thì giáo viên phải tìm biện pháp làm
thế nào để tạo sự hứng thú học tập ở học sinh. Những phương pháp vận
dụng còn tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng trường, tùy lớp học và học
10
sinh. Điều nầy đòi hỏi người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ về giáo án,
dụng cụ trực quan, câu hỏi và bài tập.
Theo phương pháp dạy truyền thống, giáo viên là người truyền đạt kiến
thức cho học sinh. Kiến thức đã được thầy chuẩn bị sẵn và cung cấp cho
học sinh ở trên lớp theo kiểu giáo viên giảng (đọc), học sinh chép. Giáo
viên là trung tâm của lớp học, còn học sinh đóng vai trò thụ động.
Nếu đề tài cần tìm hiểu do quá trình chủ động lĩnh hội kiến thức của
học sinh và do học sinh “tự đào tạo” thì việc nắm vững kiến thức của học
sinh mới lâu dài và bền vững.
Dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức cho học sinh
trong dạy học lịch sử là dạy học nêu vấn đề, học liên môn, sử dụng kiến
thức lịch sử thế giới để dạy lịch sử Việt Nam.
Ngoài ra giáo viên còn phải nghiên cứu việc đổi mới kiểm tra đánh giá
kết quả học tập của học sinh trong giảng dạy môn lịch sử để làm thước đo
trình độ nắm vững kiến thức, kỹ năng, tình cảm, tư tưởng của học sinh. Từ
việc kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh để giáo viên điều
chỉnh phương pháp dạy học của mình cho phù hợp.

4.2. Mức độ nghiên cứu đề tài :
Năm học 2006-2007 là năm học đầu tiên trường THPT áp dụng chương
trình sách giáo khoa mới cho học sinh lớp 10 trong lộ trình cải cách giáo
dục. Vì thế đề tài “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT
qua một tiết dạy bằng giáo án điện tử” là vấn đề thời sự. Bộ GD&ĐT chưa
tổng kết đánh giá việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn
lịch sử vì nước ta đang trong quá trình tiếp tục thực hiện đổi mới.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài nầy, mức độ nghiên cứu chỉ giới hạn
trong 3 vấn đề lớn :
-Vận dụng phương pháp giảng dạy tích cực qua một tiết dạy cụ thể của
môn lịch sử lớp 10 ban cơ bản.
-Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
-Sử dụng giáo án điện tử trong quá trình soạn giảng bài dạy.
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu :
5.1. Đối tượng nghiên cứu : “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử trong
trường THPT qua một tiết dạy bằng giáo án điện tử”.
5.2. Khách thể nghiên cứu : Bậc THPT và môn lịch sử cơ bản lớp 10.
5.3. Phạm vi nghiên cứu :
-Phần một : Lịch sử thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại.
-Chương một : Xã hội nguyên thủy.
-Bài một ( tiết 1) : Sự xuất hiện loài người và bầy người nguyên thủy.
11
6. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu .
6.1. Cơ sở lý luận thực tiễn :
Thực tiễn hiện nay, học sinh tốt nghiệp THPT là sản phẩm của nền giáo
dục Việt Nam. Qua kết quả khảo sát của Sở GD&ĐT Bình Dương, kết quả
thi tốt nghiệp THPT năm học 2005-2006 môn lịch sử đã đánh giá tình hình
chất lượng dạy học môn lịch sử (nguồn tài liệu do đồng chí Nguyễn Nhung
chuyên viên Phòng Trung học phổ thông cung cấp) :
-Một bộ phận học sinh không hứng thú học tập môn lịch sử. Qua khảo

sát có 259 học sinh (17,9%) trả lời thẳng vào phiếu là không hứng thú học
tập do nhiều nguyên nhân như sau :
+Về vai trò, tầm quan trọng của môn học :
-Không ứng dụng nhiều trong cuộc sống.
-Không cần thiết lắm cho hướng đi tương lai.
-Chưa thấy lợi ích cho mình sau nầy nên thật sự em không hứng thú.
-Không thiết thực trong hiện tại.
-Không có tính khoa học lắm
-Học sử chỉ mang tính lý thuyết.
-Là môn phụ không quan trọng.
-Chỉ thích học môn tự nhiên, không thích học môn xã hội.
-Em chọn thi khối A, không thích học bài.
-Thầy cô và học sinh trong trường không xem trọng, phân biệt đối xử với
các lớp xã hội …
+Về nội dung, chương trình, sách giáo khoa (SGK) :
-Chương trình và SGK lịch sử chưa thu hút học sinh.
-SGK quá dài, không sát thực tế lắm, nhiều ý kiến lăng nhăng, khó hiểu.
-SGK khô khan, nếu không có lời giảng của cô giáo chắc em cũng chán nó.
-SGK chưa đúng với tiến trình hiện đại hóa.
-SGK viết khó hiểu.
-Lịch sử thế giới quá nhiều, khó nhớ.
-Chưa học hết lịch sử của dân tộc phải học lịch sử của nước khác.
+Về phương pháp học tập, sự quá tải :
-Quá nhiều ngày tháng, sự kiện khó nhớ.
-Nội dung quá nhiều, bài dài 6, 7 trang không thể nào nhớ hết.
-Học hoài mà không thuộc, nhức cả đầu.
-Làm cho đầu óc em muốn nổ tung.
-Học sử đòi hỏi trí nhớ tốt, mà trí nhớ em thì không tốt.
-Món ăn nhàm chán, khó nuốt.
-Nhiều chỗ khó hiểu, khó học, em rất ghét.

-Em ngại học bài, môn lịch sử quá dài.
-Chưa nắm rõ cách học nên em chưa hứng thú học môn sử lắm.
12
+Về phương pháp và phương tiện dạy học :
-Mong nhà trường tạo điều kiện cho tiết học môn lịch sử thêm sinh động,
dễ tiếp thu hơn.
-Có giáo viên giỏi, am hiểu thực tế học sinh, áp dụng phương pháp đổi mới
thì lịch sử là môn học hứng thú.
-Đề nghị có phương pháp tích cực trong giảng dạy để chúng em hứng thú
học, nhớ lâu.
-Nếu phương pháp dạy và SGK hay hơn thì em thích học.
-Có những chỗ chưa rõ mà giáo viên không giải thích.
-Bắt học thuộc lòng, không hiểu gì cả.
-Có khi không hiểu mà cũng phải chép.
-Nên có phương pháp dạy ngắn gọn, giúp học sinh thuộc bài ngay trên lớp.
-Thích lúc nghe giảng, không thích lúc học bài.
-Ít tư liệu tranh ảnh, thiếu tài liệu tham khảo.
-Nên cho xem phim tài liệu lịch sử nhiều hơn.
-Nên sản xuất những bộ phim lịch sử.
-Toàn dạy chay không khiến chúng em không hứng thú.
+Về thầy cô :
-Thầy cô giảng sinh động, cung cấp nhiều kiến thức cuốn hút học sinh.
-Thầy dạy hay đi sâu vào tâm hồn học sinh.
-Cô giảng rất hay, tiết học thú vị.
-Quan trọng là giáo viên, có thầy cô dạy rất hứng thú, có thầy cô dạy rất
buồn ngủ.
-Khi thầy cô giảng sinh động thì thích, còn nếu thầy cô chỉ vào lớp đọc bài
cho chép thì rất buồn ngủ và chán.
-Giáo viên chưa tạo cho em sự say mê, niềm hứng thú.
-Thầy cô giảng bài không hiểu gì hết.

-Có thể là giáo viên dạy khô khan, lý thuyết sau một buổi là em quên ngay.
Từ thực tế những câu trả lời của học sinh nêu trên trong quá trình dạy
học lịch sử qua kết quả khảo sát, giáo viên cần phải quan tâm suy nghĩ tìm
biện pháp để giảng dạy tốt hơn. Kết quả thi tốt nghiệp THPT năm học
2005-2006, môn lịch sử của 25 trường THPT tỉnh Bình Dương còn 24,9%
xếp loại yếu đã phản ảnh phù hợp với kết quả khảo sát của Phòng THPT,
Sở GD&ĐT Bình Dương.
6.2. Phương pháp nghiên cứu :
Sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, hệ thống hóa so sánh,
nghiên cứu kết quả điều tra xã hội học … kết hợp lý luận với thực tiễn. Đặc
biệt là nghiên cứu qua các bài giảng, các đề tài nghiên cứu về đổi mới nội
dung và phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT của các trường Đại
học sư phạm, Viện nghiên cứu xã hội, khảo sát chất lượng dạy học môn
lịch sử ở các trường THPT của Sở GD&ĐT Bình Dương để định hướng
làm sáng tỏ hơn các luận điểm khoa học mà đề tài quan tâm đang giải
quyết. Kết hợp với thực tế qua quá trình giảng dạy chương trình thay sách
13
lịch sử lớp 10 năm học 2006-2007 và những vấn đề có thể đề xuất những
biện pháp khả thi vận dụng vào nội dung đề tài đang nghiên cứu giải quyết.
7. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài .
7.1. Đối với cấp lãnh đạo quốc gia :
Lãnh đạo đảng và nhà nước trung ương : nhận thấy việc đổi mới nội
dung và phương pháp giảng dạy môn lịch sử ở trường THPT có ý nghĩa
quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực con người mới trong thế kỷ
XXI là phải tính đến những nhân tố mới, trong đó cần xét đến tính quốc tế
và dân tộc của các giá trị lịch sử, giá trị văn hóa theo nghĩa rộng, sự giao
lưu quốc tế ngày nay phát triển khác với trước đây rất xa, đặt ra nhiều vấn
đề mới cho công tác giáo dục lịch sử về mặt tiếp thu, truyền bá, bảo vệ và
phát huy những cái hay, cái tốt của các giá trị văn hóa, trong đó bộ môn
lịch sử ở trường THPT có vai trò to lớn chuẩn bị cho đội ngũ lao động có

niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam để xây dựng và bảo
vệ tổ quốc theo định hướng XHCN, hòa nhập nhưng không hòa tan trong
quá trình hội nhập quốc tế, sẽ là người kế thừa sự nghiệp cách mạng mai
sau.
Đó là những nhân tố tác động đến cách tổ chức dạy, học và thi cử phải
có đổi mới thay đổi, không giống trước đây thì mới phù hợp với sự cải cách
và phát triển của xã hội.
Lãnh đạo cần nghiên cứu, hợp tác với tập đoàn viễn thông quốc tế, tăng
cường sự giúp đỡ của tập đoàn máy tính Microsoft và đầu tư cơ bản vào cơ
sở hạ tầng các trường THPT nhằm hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, từng bước
giảm sỉ số học sinh mổi lớp cho phù hợp với quá trình cải cách giáo dục thì
mới có thể thay đổi kiến trúc thượng tầng phù hợp và tương ứng.
Từ đó nhà nước sẽ có chính sách vĩ mô về đổi mới dạy học và thi môn
lịch sử cho phù hợp tình hình thực tế hiện nay của nước ta trong quá trình
hội nhập khu vực và quốc tế; chú trọng đầu tư trang thiêt bị vật chất kỹ
thuật giảng dạy và công nghệ thông tin, theo kịp trình độ dạy học thế giới;
có chính sách đào tạo, bồi dưỡng người tài, thu hút chất xám trong và ngoài
nước để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH ở nước ta hiện nay.
7.2. Đối với cấp lãnh đạo cơ sở :
Lãnh đạo đảng và nhà nước cấp cơ sở (Sở GD&ĐT Bình Dương,
Trường THPT Dĩ An ) : nhận thức được chất lượng giáo dục của bộ môn
lịch sử ở trường THPT muốn được nâng cao cần phải có sự đổi mới phương
pháp dạy học môn lịch sử, đổi mới nội dung chương trình và đánh giá kết
quả học tập nhằm thực sự phát triển những năng lực trí tuệ của học sinh
bằng cách sử dụng những phương pháp dạy học đạt trình độ cao nhất và
những tiến bộ nhanh chóng của các công nghệ thông tin và viễn thông.
Xét cho cùng chất lượng giáo dục phù thuộc vào chất lượng của đội ngũ
cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, nhưng đồng thời cũng phụ thuộc vào
14
kết cấu hạ tầng và môi trường giáo dục của nhà trường. Vì vậy quá trình

đánh giá và kiểm tra chất lượng phải áp dụng trước hết đối với đội ngũ
giảng dạy.
Từ đó sẽ vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của địa phương, của đơn vị để
đề ra các chủ trương cụ thể thiết thực, xây dựng trường THPT có cơ sở vật
chất và trang thiết bị hiện đại đưa vào giảng dạy, thí nghiệm thực hành
nhằm mục đích đào tạo đội ngũ học sinh tốt nghiệp có đủ kiến thức văn hóa
phổ thông, am hiểu tình hình lịch sử trong nước và thế giới, có đạo đức
chính trị vững vàng để thi vào các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp dạy nghề để học tiếp chuyên ngành và sẵn sàng vào làm việc
trong các thành phần kinh tế hiện nay. Nâng cao uy tín nhà trường về chất
lượng đào tạo học sinh tốt nghiệp, bằng cấp tốt nghiệp THPT được khu vực
và thế giới công nhận.
8. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm :
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 4 phần :
-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.
-Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính.
-Phần III : Kết quả đạt được và kinh nghiệm rút ra từ sáng kiến kinh
nghiệm.
-Phần IV : Khả năng ứng dụng, triển khai kết quả sáng kiến kinh nghiệm.
15
NỘI DUNG
Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề.
Đề thi tốt nghiệp THPT năm học 2005-2006 của Bộ GD&ĐT đòi hỏi
học sinh phải hiểu bài, biết tư duy phân tích, nhận xét, phán đoán, tổng hợp,
sử dụng kiến thức của ba bài học để trả lời cho một câu hỏi như : “Những
công lao của Nguyễn Ái Quốc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc ” Qua
khảo sát của Sở GD&ĐT Bình Dương toàn tỉnh có 24,9% học sinh xếp loại
yếu. Lý do học sinh không biết vận dụng kiến thức đã học để trả lời câu hỏi
mà chủ yếu chỉ chép nội dung phần giáo viên đã cung cấp trên lớp nên rất ít
học sinh đạt điểm tối đa.

1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài nghiên cứu .
1.1. Tình hình giảng dạy môn lịch sử ở đơn vị :
Trong hè 2005-2006, giáo viên bộ môn lịch sử được bồi dưỡng chuyên
đề thay sách cải cách môn lịch sử lớp 10. Trong tổ có 10 người, trong đó có
4 giáo viên dạy sử, 1 giáo viên được Sở GD&ĐT cử tập huấn về triển khai
lại (Châu Thúy Loan), trường có 10 lớp 10 dạy lịch sử theo chương trình cơ
bản và đầu năm học kì 1 Ban giám hiệu đã phân công tôi dạy sử cho 10 lớp
10 (1 tiết/tuần) và 6 lớp 11 (1 tiết/tuần), học kì 2 còn dạy 6 lớp 10 (2
tiết/tuần) và 6 lớp 11 (1 tiết/tuần).
Trong tổ có 2 giáo viên có nhiều kinh nghiệm giảng dạy môn lịch sử là
Nguyễn Thị Ánh đã đạt danh hiệu Nhà giáo ưu tú, Châu Thúy Loan là giáo
viên giỏi bồi dưỡng học sinh giỏi vòng toàn quốc nhiều năm, vì thế qua
công tác dự giờ thao giảng đã đóng góp ý kiến giúp cho bản thân nhiều
kinh nghiệm quý báu để vận dụng khi lên lớp. Giáo viên môn lịch sử sinh
hoạt chung với giáo viên môn địa lý và giáo dục công dân nên cũng đã hỗ
trợ lẫn nhau về công tác chuyên môn của ngành xã hội và nhân văn.
1.2. Tình hình trường, lớp, học sinh :
Trường THPT Dĩ An được tặng danh hiệu lá cờ đầu của các trường
THPT năm học 2005-2006, chất lượng học tập của học sinh khá đồng đều ở
các bộ môn, kết quả tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng đạt tỉ lệ
khá cao.
Năm học 2006-2007 điểm tuyển sinh vào lớp 10 cao hơn cao hơn 2
trường THPT trong huyện nên tinh thần học tập và đạo đức của học sinh
lớp 10 có nhiều tiến bộ hơn so với năm học trước. Học sinh lớp 10 đã qua 4
năm học chương trình cải cách ở bậc THCS nên đa số các em thích ứng với
16
phương pháp giảng dạy tích cực, gần 100% học sinh chăm ngoan, lễ phép,
vâng lời thầy cô, không có học sinh cá biệt.
Huyện Dĩ An đang chuyển dần thành đô thị hóa, mức sống của người
dân đã tăng cao nên phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của học sinh.

Trong năm học, công tác giáo viên chủ nhiệm, công tác giám thị được Ban
giám hiệu có kế hoạch chỉ đạo thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ huynh
khi có vấn đề liên quan đến học sinh. Trong năm học có 4 lần họp phụ
huynh học sinh từng lớp học để giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn
thông báo kết quả học tập của học sinh vào giữa học kì và cuối học kì, nhà
trường có biện pháp phối kết hợp việc dạy - học giữa nhà trường và gia
đình rất tốt.
1.3. Tình hình đội ngũ cán bộ quản lý :
Ban giám hiệu có trình độ chuyên môn vững vàng, tạo môi trường sư
phạm kỷ luật nghiêm túc, đoàn kết thân ái, giúp đỡ giáo viên tiến bộ. Tập
thể Hội đồng sư phạm cùng có quyết tâm phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ
được giao và cố gắng giữ vững thành tích đã đạt được. Bộ máy nhà trường
hoạt động nhịp nhàng, từ tổ văn phòng, nhân viên phục vụ đến tổ chuyên
môn đều có sự phấn đấu vươn lên khắc phục khó khăn, hỗ trợ lẫn nhau
trong công tác dạy và học.
1.4. Tình hình cán bộ, giáo viên, nhân viên :
Tính kỷ luật tự giác ở mỗi người trong tập thể được thể hiện rất cao,
biểu hiện qua giờ giấc, tác phong lên lớp, thực hiện quy chế chuyên môn,
tuy nhiên cũng thể hiện tính dân chủ, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm
qua sự phối kết hợp thi đua giữa các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể
trong nhà trường.
Ban giám hiệu tổ chức các kỳ thi kiểm tra chất lượng học kì rất nghiêm
túc, chặc chẽ giống như một kỳ thi tốt nghiệp THPT nên đã tạo cho học
sinh có nề nếp trong học tập và kiểm tra đánh giá thi cử. Nhà trường
nghiêm khắc xử lý kỹ luật, hạ hạnh kiểm đạo đức đối với những học sinh vi
phạm như vắng mặt không phép, quay cóp trong kiểm tra, đánh nhau … dù
chỉ một lần cũng bị hạ hạnh kiểm đạo đức. Vì thế mỗi giáo viên phải phấn
đấu làm tấm gương cho học sinh noi theo và mỗi học sinh đều tự giác thực
hiện tốt nội quy của Ban giám hiệu đề ra.
Hàng tuần và cuối đợt thi đua đều có sơ kết đánh giá khen thưởng, kịp

thời động viên nêu gương tốt hoặc nhắc nhở kịp thời những học sinh vi
phạm nội quy nhà trường.
Đơn vị được Sở GD&ĐT Bình Dương trang bị đầy đủ các trang thiết bị
dạy học và phương tiện nghe nhìn như phòng bộ môn, phòng lab, phòng vi
tính, phòng thí nghiệm thực hành, phòng thư viện … có đầy đủ cán bộ
chuyên trách sẵn sàng giúp đỡ giáo viên trong các tiết giảng dạy khi cần sử
dụng dụng cụ trực quan dạy học.
1.5. Ưu điểm khi dạy học bằng giáo án điện tử :
17
Giáo viên có thể sử dụng các hình ảnh, tư liệu, sự kiện lịch sử từ các
nguồn phim ảnh đa dạng từ internet, băng ghi hình, tranh ảnh trong sách
báo mà không phải mang theo đồ dùng dạy học cồng kềnh khi lên lớp.
Các tư liệu lịch sử được chuyển thể thành phim theo chủ đề bài học
được các đài truyền hình trong cả nước đưa lên màn ảnh và phổ biến rộng
rãi trên phương tiện thông tin đại chúng, giáo viên có thể tìm mua ở các
trung tâm dịch vụ truyền hình để phục vụ minh họa cho bài giảng sinh động
hơn.
Giáo viên có thể trình chiếu các sơ đồ, bài tập nhóm, các câu hỏi trắc
nghiệm khách quan khi kiểm tra bài cũ hay kết thúc bài học để học sinh
tiện theo dõi, vận dụng làm bài thi kiểm tra học kì, thi tốt nghiệp theo chủ
trương đổi mới công tác đánh giá chất lượng học tập của học sinh và thực
hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử, chống bệnh thành
tích trong giáo dục” mà toàn ngành đang hưởng ứng hiện nay.
Việc sơ đồ hóa, hệ thống hóa toàn bộ kiến thức bài học cũ theo từng
chương, từng chủ đề cũng thuận lợi hơn khi sử dụng các bảng phụ giảng
dạy.
Khi soạn một giáo án điện tử, giáo viên có thể lưu lại để giảng dạy ở
nhiều lớp khác nhau. Giáo viên có thể bổ sung hoặc sửa đổi giáo án sau
phần rút kinh nghiệm ở các tiết dạy tiếp theo hoặc những năm học sau.


2. Khó khăn khi thực hiện đề tài .
2.1. Hạn chế khi giảng dạy bằng giáo án điện tử :
Trình độ tin học và sử dụng máy vi tính của giáo viên còn nhiều hạn
chế, đòi hỏi giáo viên ở nhà phải có máy vi tính để soạn bài, có dĩa mềm
USB để sao chép nhập vào máy tính của trường, có máy chụp ảnh kỷ thuật
số để chụp các hình ảnh minh họa đưa vào máy tính, máy scane để coppy
hình ảnh vào USB (ở dịch vụ là 2.000đ/ảnh), truy cập hình ảnh qua internet
(3.000đ/giờ), các phim ảnh tư liệu minh họa do công ty thiết bị trường học
hoặc đài truyền hình bán còn khá đắt (40.000đ/đĩa VCD), phóng to sơ đồ
hoặc in ra giấy A3 để sử dụng giảng dạy trên lớp khi cúp điện hoặc phòng
nghe nhìn đang có giáo viên khác sử dụng (6.000đ/tờ) . . .
Giáo viên phải thực sự yêu thích công việc soạn giảng giáo án điện tử,
cần có thời gian và kinh phí để thực hiện. Vì thế dù biết rằng giáo án điện
tử phục vụ đắc lực cho công tác dạy học lịch sử nhưng trên thực tế chưa
được áp dụng đồng bộ ở tất cả các giáo viên.
Nhà trường chỉ có một phòng nghe nhìn sử dụng chung cho tất cả các
bộ môn nên đầu tuần giáo viên phải đăng ký trước với cán bộ phụ trách để
sắp xếp giờ dạy. Bộ môn Anh văn có 1 phòng lab và tin học có 3 phòng vi
tính mới nối mạng internet nên phòng nghe nhìn chỉ dùng cho bộ môn
khác.
Việc hướng dẫn học sinh lên lớp mất thời gian, tuy nhiên nhờ có 5 phút
chuyển tiết đủ cho học sinh đi đến phòng máy ổn định chỗ ngồi trước khi
18
chuông báo vào tiết mới. Âm thanh, ánh sáng, nhiệt độ, chỗ ngồi của học
sinh cũng cần được chú ý đảm bảo phục vụ cho giảng dạy.
Giáo viên cần chuẩn bị phương án thay thế phương pháp giảng dạy khi
cúp điện, phòng nghe nhìn có giáo viên khác sử dụng. Một số trường
chuyên, dân lập, tư thục ở các thành phố lớn có điều kiện kinh phí đã trang
bị mỗi lớp một máy chiếu projector, máy tính xách tay cho giáo viên sử
dụng khi lên lớp, nên giáo viên thuận lợi hơn khi cần sử dụng nhiều phương

pháp giảng dạy trên lớp mà không cần phải di chuyển học sinh đến phòng
nghe nhìn.
Nếu giáo viên quá lạm dụng công nghệ thông tin, tiết học sẽ biến thành
một giờ biểu diễn trình chiếu mà không có hiệu quả giảng dạy. Nếu giáo
viên sử dụng quá nhiều tranh ảnh, bản đồ minh họa cho tiết dạy, đôi khi
làm mất mục đích chính của tiết dạy hoặc phần trọng tâm cần ghi nhớ của
học sinh.
2.2. Hạn chế khi áp dụng cho phần thảo luận, thuyết trình :
Giáo viên cần rèn luyện thói quen cho học sinh thảo luận nhóm, lên
trình bày trước lớp có trật tự nề nếp, nếu không tiết học sẽ nhàm chán, học
sinh thụ động ngồi im không phát biểu, hoặc quá ồn ào làm ảnh hưởng đến
các tổ khác, lớp khác bên cạnh.
2.3. Hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu trước khi học bài mới :
Để giúp học sinh có thể tự nghiên cứu bài học trước khi lên lớp dòi hỏi
giáo viên phải soạn bài trước một tuần để từ nội dung giáo án giáo án bài
giảng mà đưa ra hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh tự nghiên cứu trước ở
nhà theo tiến trình tổ chức một tiết học của mình.
Việc vận dụng phương pháp tích cực vào dạy học lịch sử cần có sự phối
kết hợp giữa giáo viên và học sinh. Sự chuẩn bị trước lúc đầu sẽ gặp nhiều
khó khăn vì cần có sự đầu tư nhiều công sức của giáo viên, nhưng bù lại
tiết học sẽ thuận lợi hơn, giờ học sẽ trở nên sôi nổi hơn, hiệu quả hơn với
sự tham gia đóng góp những ý kiến có chất lượng của nhiều học sinh và
học sinh sẽ thực sự chủ động quá trình dạy học, giáo viên có thể hoàn thành
vai trò hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức bền vững hơn
2.4. Giáo viên cần có thời gian nghiên cứu nắm vững cấu trúc, lôgic của
toàn bộ bài dạy, chương, khóa trình trong sách giáo khoa khi soạn
giảng phương pháp tích cực :
Nếu bản thân giáo viên không chịu khó nghiên cứu, học tập nắm vững
toàn bộ hệ thống kiến trúc bài giảng, toàn chương và cả khóa trình lịch sử
theo đặc trưng bộ môn, không nắm được cấu trúc lôgic của chương trình

môn học lịch sử và hiểu được vị trí của từng bài, từng chương thì không thể
dạy theo phương pháp tích cực được và học sinh cũng không thể học theo
phương pháp mới với đầy đủ yêu cầu, đặc trưng của môn học, bài học.
Nếu cả giáo viên và học sinh đều tiếp cận tài liệu học ở trạng thái tĩnh
và công nhận những cái sẵn có trong sách giáo khoa, sùng bái nó như
khuôn vàng thước ngọc thì đó là phương pháp dạy học theo truyền thống
19
cũ. Giáo viên phải cố gắng vận dụng sách hướng dẫn giảng dạy, nghiên cứu
kỹ sách giáo khoa để giúp học sinh tiếp cận tài liệu dạy học ở trạng thái vận
động theo hệ thống và phê phán thì phương pháp mới nầy mới đào sâu tìm
tòi khám phá, khắc sâu kiến thức cho học sinh sau mỗi tiết dạy lịch sử.
Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính .
“Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT
qua áp dụng một tiết dạy bằng giáo án điện tử”.
1. Nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử.
1.1. Định hướng về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử .
1.1.1. Tính phù hợp của đổi mới phương pháp dạy học lịch sử :
Dạy học lịch sử có sứ mạng về mặt giáo dục, nghiên cứu và phục vụ với
những mối liên hệ của giáo dục lịch sử với thế giới lao động; với những tác
động qua lại giữa giáo dục lịch sử với các môn học khác; với những chờ
đợi của nền kinh tế hiện đại ở học sinh tốt nghiệp THPT : đó là những
người có khả năng thường xuyên cập nhật được kiến thức của mình, chiếm
lĩnh được những kiến thức cơ bản của trường THPT cung cấp có thể tiếp
tục học chuyên ngành ở bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,
dạy nghề để có khả năng tạo ra được việc làm trong nền kinh tế thị trường
đầy biến động.
1.1.2. Chất lượng của đổi mới dạy học lịch sử đòi hỏi :
+Đổi mới việc dạy và học lịch sử : đổi mới chương trình nhằm thực sự
phát triển những năng lực trí tuệ của học sinh, tăng cường nội dung giáo
dục liên môn của việc học tập và sử dụng những phương pháp học tập,

phương pháp kiểm tra đánh giá nhằm đạt trình độ cao nhất và những tiến bộ
nhanh chóng của công nghệ thông tin và lưu thông hiện nay trên toàn cầu.
+Công tác nghiên cứu là chức năng chủ yếu của đổi mới dạy học lịch sử :
đây là điều kiện không thể thiếu được của giáo viên và học sinh để làm cho
nhà trường phù hợp với xã hội và đảm bảo chất lượng.
+Chất lượng của đổi mới dạy học lịch sử phụ thuộc vào : chất lượng của
đội ngũ cán bộ quản lý, chương trình, giáo viên, học sinh và cũng phụ
thuộc vào kết cấu hạ tầng, môi trường sư phạm. Vì vậy quá trình đánh giá
và kiểm tra chất lượng dạy học lịch sử phải áp dụng trước hết với đội ngũ
giảng dạy, nghiên cứu. Những đầu tư cơ bản vào cơ sở hạ tầng của nhà
trường như thư viện, phòng thí nghiệm, phòng máy tính có kết nối internet
… cho đến xa lộ thông tin phải được xem như những công trình công cộng,
tạo nên bộ phận không thể tách rời được của sự nổ lực tổng thể nhằm hiện
đại cơ sở hạ tầng của trường THPT hiện nay. Tuy nhiên phải tạo không khí
học tập, nghiên cứu và đưa vào sử dụng có hiệu quả để đáp ứng việc đổi
mới dạy học lịch sử hiện nay.
20
+Sự quốc tế hóa của việc đổi mới dạy học lịch sử : trước hết đó là nội dung
chương trình lịch sử phải phản chiếu tính chất toàn cầu của những thành
tựu về hiểu biết và nghiên cứu của dạy học lịch sử. Khuynh hướng đó được
tăng cường bởi những quá trình liên kết kinh tế - chính trị và sự cần thiết
hiểu nhau ngày một tăng về văn hóa giữa các nước trong khu vực và các
vùng miền của các châu lục. Tiến bộ không ngừng của công nghệ thông tin
và lưu thông tạo ra những điều kiện rất thuận lợi cho sự mở rộng mạnh mẽ
những hình thức đa dạng của sự giao lưu giữa giáo viên và học sinh, của sự
gắn kết những mạng lưới trường học và sự hợp tác quốc tế.
1.2. Định hướng giá trị xã hội trong việc đổi mới dạy học lịch sử với
giáo dục liên môn trong trường THPT để đào tạo học sinh.
1.2.1. Con người có niềm tin vững chắc và quyết tâm cao : thực hiện nhiệm
vụ lịch sử trọng đại là người kế thừa sự nghiệp cách mạng của đảng và nhà

nước XHCN, thực hiện thành công CNH-HĐH đất nước, đưa đất nước ra
khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu bằng ý chí quật cường và tài năng, trí
tuệ của con người Việt Nam, bằng khoa học và công nghệ, con người có ý
chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ XHCN của đất nước.
1.2.2. Con người đậm đà bản sắc dân tộc : có tinh thần yêu nước, yêu độc
lập tư do, tự hào dân tộc, tự lực tự cường, có tinh thần hòa hợp, hòa bình và
hữu nghị.
1.2.3. Con người có bản sắc nhân văn, nhân đạo, nhân ái trong quan hệ
giữa người với người : con người có ý thức cộng đồng; có ý thức trách
nhiệm đối với đất nước, với gia đình, với bản thân; có quan hệ đầy tình
nghĩa, coi trọng chữ tín, có tinh thần làm chủ.
1.2.4. Con người khoa học : phát triển cao về trí tuệ, ham học hỏi, tiếp thu
tinh hoa nhân loại, có ý thức nghiên cứu, khai thác các di sản văn hóa dân
tộc và phương Đông, có tư duy tổng hợp, linh hoạt, sáng tạo.
1.2.5. Con người công nghệ : có tính năng động, tự chủ, làm việc có tính
toán hiệu quả, có đầu óc quản lý, kinh doanh; có ý thức tiết kiệm, làm giàu
chính đáng cho mình, cho nhà, cho nước; có tác phong công nghiệp; có khả
năng thích ứng cao.
1.2.6. Con người có thể lực cường tráng : có kiến thức và kỹ năng rèn
luyện thân thể, giữ gìn sức khỏe, biết kết hợp làm việc có năng suất cao với
nghỉ ngơi, giải trí, biết tổ chức cuộc sống có văn hóa, phong phú, lành
mạnh để có thể lao động bền bỉ, dẻo dai.
1.2.7. Con người công dân : có ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ công dân;
hiểu biết và tự giác chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng một nhà nước
pháp quyền; có ý thức sâu sắc về công bằng xã hội, về dân chủ, tự do, về
quyền con người, về bảo vệ môi trường.
1.2.8. Con người có cá tính và bản sắc riêng : có hoài bão, có bản lĩnh tự
chủ, năng động, sáng tạo, có ý chí vươn lên, cạnh tranh lành mạnh, đồng
21
thời có tinh thần tôn trọng và hợp tác với người khác, với tập thể vì sự

nghiệp chung.
1.3. Một số yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học lịch sử ở trường
THPT hiện nay :
Từ những yêu cầu đổi mới về dạy học lịch sử, chương trình, nội dung
và phương pháp cần phải có một sự chuyển đổi mạnh về quan niệm. Đó là
chuẩn bị cho học sinh thái độ, khả năng đặt và giải quyết vấn đề ngay trong
quá trình học tập ở tại lớp, trên cơ sở lựa chọn những vấn đề, chủ đề cụ thể
trong một khoảng thời gian nhất định. Cách giảng dạy theo hướng tích hợp,
liên môn, dựa trên chủ đề, vấn đề là việc cần thiết hiện nay.
Trước tình hình kiến thức gia tăng, bùng nổ cả về khối lượng và chất
lượng, cả về tốc độ và phạm vi lãnh vực, cách nâng cao chất lượng chủ yếu
dựa vào kiến thức là ở thế bị động, khó đạt mục tiêu đào tạo con người có
bản lĩnh giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra (đặc biệt trong thời đại
ngày nay, đặc trưng bởi sự thay đổi hết sức nhanh chóng với quy mô rộng
lớn) mà phải chú trọng đúng mức hơn, thậm chí phải đặt lên hàng đầu vấn
đề đào tạo về phương pháp, theo hướng biết đặt và giải quyết vấn đề.
1.4. Một số nhận thức về đổi mới pháp dạy học lịch sử :
Để có năng lực thích nghi và sáng tạo, học sinh phải được đào tạo trên
tinh thần chủ động học tập, độc lập tư duy, học theo kiểu nghiên cứu khoa
học, hướng vào năng lực “đặt và giải quyết vấn đề”, học theo kiểu “xử lý
các tình huống”, mặt khác phải có năng lực tổ chức, quản lý quá trình xử lý
thông tin, giải quyết vấn đề trong tập thể làm việc, trong môi trường học tập
của một tiết dạy.
+Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một
nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắc cần tháo gỡ … và do vậy, kết quả
của việc nghiên cứu và giải quyết tình huống có vấn đề sẽ là trí thức mới,
nhận thức mới hoặc phương thức hành động mới đối với học sinh.
+Tình huống có vấn đề được đặc trưng bởi một trạng thái tâm lý ở học sinh
trong giải quyết một câu hỏi của giáo viên đưa ra, mà việc giải quyết vấn đề
đó lại cần đến tri thức mới, cách thức hành động mới mà học sinh chưa hề

biết trước đó.
Có 3 yếu tố cấu thành tình huống có vấn đề :
-Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của học sinh.
-Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động mà học sinh
chưa biết.
-Khả năng trí tuệ của học sinh, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
+Đặc trưng cơ bản của việc giải quyết tình huống có vấn đề là học sinh gặp
lúng túng về lý thuyết và thực hành để giải quyết vấn đế; nó xuất hiện nhờ
tính tích cực nghiên cứu của chính học sinh. Tình huống có vấn đề là một
hiện tượng chủ quan, một trạng thái tâm lý của chủ thể, trạng thái lúng túng
22
xuất hiện trong quá trình nhận thức như một mâu thuẫn giữa chủ thể và
khách thể trong họat động của học sinh.
+Ứng với mục tiêu xác định, những thành phần chủ yếu của một tình huống
học tập gồm có như sau :
-Nội dung của bài học hoặc chủ đề trong từng mục.
-Tình huống khởi đầu.
-Hoạt động trí lực của học sinh trong việc trả lời câu hỏi hoặc giải
quyết vấn đề.
-Kết quả hoặc sản phẩm của hoạt động làm được.
-Đánh giá kết quả.
1.5. Đổi mới dạy học lịch sử theo phương pháp giải quyết vấn đề được
chia thành những bước, những giai đoạn có tính chuyên biệt :
1.5.1. Theo Jonh Dewey đề nghị có 5 bước để học sinh giải quyết vấn đề :
-Tìm hiểu vấn đề.
-Xác định vấn đề.
-Đưa ra những giả thuyết khác nhau để giải quyết vấn đề.
-Xem xét hệ quả của từng giả thuyết dưới ánh sáng của những kinh nghiệm
trước đây.
-Thử nghiệm giải pháp thích hợp nhất.

1.5.2. Theo Kudriasev chia làm 4 giai đoạn để học sinh giải quyết vấn đề.
-Sự xuất hiện của chính vấn đề và những kích thích đầu tiên thúc đẩy học
sinh giải quyết vấn đề.
-Học sinh nhận thức sâu sắc và chấp nhận vấn đề cần giải quyết.
-Quá trình tìm kiếm lời giải cho vấn đề được “chấp nhận” giải quyết, lý
giải, chứng minh, kiểm tra.
-Tìm được kết quả cuối cùng và đánh giá toàn diện các kết quả tìm được.
Như vậy học tập theo phương pháp giải quyết vấn đề là hình thức dạy
học ở đó giáo viên tổ chức được tình huống có vấn đề, giúp học sinh nhận
thức vấn đề, chấp nhận giải quyết và tìm kiếm lời giải trong quá trình
“hoạt động hợp tác” giữa thầy và trò, phát huy tối đa tính độc lập của học
sinh kết hợp với sự hướng dẫn của giáo viên.
Đặc trưng độc đáo của phương pháp đổi mới dạy học lịch sử theo
phương pháp giải quyết vấn đề là việc học sinh tiếp thu tri thức trong hoạt
động tư duy sáng tạo.
1.6. Đổi mới dạy học lịch sử theo phương pháp giải quyết vấn đề bao
gồm nhiều hình thức tổ chức đa dạng :
Quá trình học tập có thể diễn ra với những cách tổ chức đa dạng lôi
cuốn học sinh tham gia cùng tập thể, động não, tranh luận dưới sự dẫn dắt,
gợi mở, cố vấn của giáo viên :
-Làm việc theo nhóm nhỏ : trao đổi ý kiến, khuyến khích tìm tòi Thực
hiện những kỹ thuật hỗ trợ tranh luận : ngồi vòng tròn, chia nhóm theo
những ý kiến cùng loại …
23
-Tấn công não : đây thường là bước thứ nhất trong sự tìm tòi giải quyết vấn
đề, học sinh thường được yêu cầu suy nghĩ, đề ra những ý kiến hoặc giải
pháp ở mức độ tối đa có thể có của mình.
-Xếp hạng : một cách kích thích học sinh suy nghĩ sâu hơn về một vấn đề
gay cấn và làm rõ những ưu tiên.
-Sắm vai : tập luyện cho học sinh tăng thêm khả năng nghĩ ra những hướng

khác, phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề và giải quyết xung đột …
-Mô phỏng : có thể coi như sự mở rộng của cách sắm vai, thu hút cả lớp
đồng thời tham gia, trên cơ sở tất cả học sinh đã hiểu rõ những gay cấn gốc,
nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp liên quan đến những con người,
những nhóm học sinh có những quan tâm đa dạng.
-Những chiến lược ra quyết định : nhằm đạo tạo những kỹ năng cần thiết
cho học sinh tham gia dân chủ trong tương lai.
-Báo cáo và trình bày : thực hiện nhiều cách làm, từ việc học sinh viết,
trình bày ở nhóm nhỏ, báo cáo của nhóm trước cả lớp …
1.7. Đổi mới dạy học lịch sử theo hướng kết hợp kiểu truyền thống
(nghe giảng - đọc - chép) với kiểu đưa vào vấn đề (kết quả do học sinh
tự nghiên cứu, tổng kết nhằm giải quyết vấn đề thực tế do giáo viên
đưa ra) :
Một hướng rất quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở
trường THPT hiện nay là bên cạnh tiếp tục dạy học các kiến thức, kỹ năng
theo kiểu truyền thống là xoay quanh trục “môn học”, coi như tế bào, đơn
vị cơ sở của việc dạy học, cần phải coi trọng một kiểu dạy học mới, bổ
sung cho kiểu truyền thống là xoay quanh trục “đặt vấn đề”, coi như kết
quả của nghiên cứu khoa học công nghệ, của tổng kết thực tiễn sáng kiến
kinh nghiệm.
Học sinh đảm bảo phải có sách giáo khoa khi học lịch sử, giáo viên sử
dụng công nghệ thông tin thay cho bảng đen phấn trắng, giáo viên thay việc
đọc chép bằng các gợi ý các vấn đề trong nội dung bài học để học sinh
tranh luận, tìm hiểu qua thư viện điện tử, qua mạng internet, tự thực hành
giải quyết vấn đề theo yêu cầu của giáo viên ở lớp và tiếp tục ở nhà cho đến
khi xong nội dung bài học, nội dung chương trình cần ứng dụng vào thực
tiễn.
Giáo viên thay thế việc kiểm tra đánh giá bằng các hình thức mới phù
hợp, chủ yếu là đánh giá qua thực tế học sinh xử lý, giải quyết tình huống
vấn đề của giáo viên đã đưa ra.

Để có năng lực thích nghi và sáng tạo, không những giáo viên cần có
kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn dạy học, mà quan trọng hơn, cơ bản hơn,
học sinh phải được đào tạo để có nền kiến thức cơ bản đủ vững, nền kiến
thức đại cương đủ rộng và có kỹ năng vận dụng những cái cơ bản, đại
cương ấy một cách thích hợp, mà trọng tâm là học sinh được giáo viên
hướng dẫn về phương pháp tự đi tìm kiếm những kiến thức, tự rèn luyện
24
những kỹ năng để có biện pháp tự học, tự cập nhật thường xuyên sau khi đã
tốt nghiệp THPT.
Đó chính là giáo viên đã dạy cho học sinh biết cách “học cách học” từ
việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử hiện nay.
2. Nhận thức về quá trình dạy học lịch sử theo hướng tích cực.
2.1. Muốn đạt được chất lượng trong giáo dục, bài học lịch sử trước hết
phải giảng dạy có hiệu quả :
Giảng dạy là mục tiêu chính của trường học, được ví như là trái tim và
tâm hồn của một trường học. Đó là cốt lõi của hoạt động giáo dục. Học sinh
đến trường không chỉ để tiếp thu kiến thức, chúng cần phải được chỉ bảo
làm gì với các kiến thức đó và làm thế nào để áp dụng nó vào trong cuộc
sống hàng ngày.
Mỗi giáo viên đều có các phương pháp giảng dạy khác nhau, bởi vì họ
có triết lý giảng dạy khác nhau bao gồm những quan điểm mà giáo viên
đánh giá cao và sử dụng nó trong hoạt động giảng dạy. Nó bao gồm quan
điểm của giáo viên về học sinh, việc học, việc giảng dạy và vai trò với tư
cách là một nhà giáo dục. Quan điểm và thái độ của giáo viên khác nhau vì
cá nhân mỗi người có những kinh nghiệm và suy nghĩ riêng.
Thành tích của nhà trường phụ thuộc vào những triết lý giảng dạy của
giáo viên có đóng góp như thế nào đối với mục tiêu giảng dạy.
2.2. So sánh giữa phong cách giảng dạy truyền thống với giảng dạy
mang tính hỗ trợ khuyến khích quá trình học tập và tham gia tích cực :
Trong đó giáo viên chỉ có vai trò là người hướng dẫn và không phải là

nguồn kiến thức duy nhất mà học sinh có được. Đây là đặc điểm phong
cách giảng dạy mới. Phong cách nầy cho phép tính độc lập, sự tự do, linh
hoạt, làm cho việc học trở nên dễ dàng hơn cho cả giáo viên và học sinh.
Giáo viên : dân chủ, lấy học sinh làm trung tâm, gián tiếp, có tương tác
giữa giáo viên và học sinh, giao tiếp thân thiện, tìm tòi biện pháp giảng dạy
có tư duy.
Lớp học : lấy học sinh làm trung tâm, ngồi theo nhóm thảo luận khi cần
thiết.
Giảng dạy : học tập từ bạn bè, giao nhiệm vụ công tác, giải quyết vấn đề.
Học sinh có sự tìm tòi : giáo viên bắt đầu giao những bài tập phức tạp, sử
dụng những giáo cụ hỗ trợ giảng dạy và đối thoại với học sinh.
Truyền đạt kiến thức : giao tiếp hai chiều giữa giáo viên và học sinh.
Giáo viên cần nắm một số lý thuyết, quan điểm nền tảng về các phong cách
giảng dạy bao gồm :
-Trí óc của người học chuyển dần từ thụ động sang tích cực.
-Mỗi người học là một cá thể có mục tiêu và có tính tương tác, cùng
lúc tương tác với môi trường xung quanh về nhiều mặt (thể chất và sinh
học).
25

×