Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

BAÌ học kì lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới so sánh nhà nước phong kiến phương đông và nhà nước phong kiến phương tây (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.2 KB, 8 trang )

MỤC LỤC:

A. Phần mở đầu:
B. Phần nội dung:
I, Khái quát về nhà nước phong kiến
II, So sánh nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phong
kiến phương Tây.
1. Sự giống nhau
2. Sự khác nhau
C. Phần kết luận
D. Danh mục giáo trình và tài liệu tham khảo
E. Mục lục

1


LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước đã tồn tại ở hầu hết các quốc gia. Tuy nhiên, ở
mỗi quốc gia, mỗi khu vực nhà nước phong kiến lại có những đặc trưng, đặc điểm riêng,
đặc biệt là ở phương Đông và phương Tây. Vậy nhà nước phong kiến phương Đông và
phương Tây có những nét tương đồng và khác biệt gì, chúng giống và khác nhau như thế
nào và biểu hiện cụ thể ra sao? Bài viết này sẽ góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên bằng việc
so sánh nhà nước phong kiến phương Đông và phong kiến phương Tây, qua các khía cạnh:
thời điểm ra đời, hình thức nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, bản chất và chức
năng nhà nước.

NỘI DUNG
I, Khái quát về nhà nước phong kiến:
Về mặt thuật ngữ, chế độ phong kiến (phong tước, kiến địa) là một từ gốc Hán-Việt: xuất
phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây Chu, Trung Quốc. Đặc điểm chung của chế độ
phong kiến là giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu phần lớn ruộng đất (gồm cả


sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô (dưới nhiều hình thức như
tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp) đối với nông dân không có
hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau). Xã hội phân
hoá thành những giai cấp và đẳng cấp khác nhau. Hệ thống chính trị có thể là phân quyền
cát cứ hay tập quyền theo chính thể quân chủ. Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp dựa
trên sản xuất nhỏ của nông dân, những giai đoạn cuối, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh
dẫn đến sự ra đời của kết cấu kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.
II. So sánh nhà nước phong kiến Phương Đông và phương Tây
Để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt cũng như có những đánh giá đúng đắn
hơn về nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phong kiến phương Tây, có thể so
sánh dựa trên các tiêu chí: Thời điểm ra đời, hình thức nhà nước, cơ cấu tổ chức bộ máy
nhà nước, bản chất và chức năng nhà nước.
1. Sự giống nhau:
2


 Thời điểm ra đời (Quá trình hình thành, phát triển và suy vong): Sự hình thành chế
độ phong kiến cũng như nhà nước phong kiến chính là quá trình phong kiến hóa, đó là cả
một quá trình, diễn ra trong thời gian dài và có hai con đường: Một là, hình thành từ nền
tảng là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Hai là, có những nước từ chế độ công xã nguyên thủy
đang tan rã, bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ tiến thẳng lên chế độ phong kiến và thiết lập
nhà nước phong kiến. Sự suy vong của hai nhà nước phong kiến phương Đông và phương
Đông và phương Tây cũng đều cùng xuất phát từ mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân với
quý tộc phong kiến.

 Cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng: Về cơ sở kinh tế: nhà nước phong kiến
phương Đông và phương Tây đều có nền kinh tế nông nghiệp, bên cạnh là kinh tế thủ
công nghiệp và buôn bán nhỏ, kinh tế mang tính chất tự cung, tự cấp. Quan hệ sản xuất
chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất (chủ yếu là
ruộng đất) và sản phẩm lao động. Xã hội hình thành hai giai cấp cơ bản: nông dân (ở

phương Tây gọi là nông nô) và địa chủ phong kiến (ở phương Tây thường gọi là lãnh
chúa, hoặc chúa đất). Bóc lột địa tô là phương thức bóc lột đặc trưng và phổ biến; đặc
điểm tiêu biểu của nhà nước phong kiến là phân chia đẳng cấp. Về chính trị,tư tưởng: chế
độ phong kiến phân quyền được hình thành và đi từ phân quyền đến tập quyền. Cả hai nhà
nước phong kiến phương Đông và phương Tây đều lấy tôn giáo làm cơ sở lí luận cho sự
thống trị của mình (Trung Quốc là Khổng giáo hay Nho giáo, Ấn Độ là Hồi giáo, châu Âu
là Thiên Chúa giáo).

 Về hình thức nhà nước: Hình thức chính thể phổ biến của nhà nước phong kiến là
quân chủ, trải qua hai giai đoạn - phân quyền cát cứ và trung ương tập quyền. Từ góc độ
hình thức cấu trúc nhà nước thì hầu hết các nhà nước phong kiến đều là những nhà nước
đơn nhất. Về chế độ chính trị, các nhà nước phong kiến, kể cả phương Đông và phương
Tây đều sử dụng các phương pháp cai trị độc đoán, chuyên quyền để thực thi quyền lực
của giai cấp địa chủ phong kiến, bắt nông dân và những người lao động khác phải phục
tùng tuyệt đối quyền lực đó.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước: So với bộ máy nhà nước chủ nô, bộ máy nhà
3


nước phong kiến phát triển hơn về cách thức tổ chức, phương thức hoạt động, phân định
chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước. Bộ máy nhà nước đứng đầu là vua, giúp
vua là quan. Vua, quan là những giai cấp thống trị nhân dân.
 Về bản chất và chức năng nhà nước: Xét về mặt bản chất, nhà nước phong kiến là
công cụ chuyên chính của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân và những người
lao động khác nhằm duy trì, củng cố địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội.
Về chức năng nhà nước, cả nhà nước phong kiến phương Đông và phương Tây đều thực
hiện 2 chức năng chính là chức năng đối nội (bảo vệ, củng cố và phát triển chế độ sở hữu
của giai cấp địa chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất, duy trì chế độ bóc lột, đàn áp
nông dân và các tầng lớp khác) và chức năng đối ngoại (phòng thủ chống xâm lược từ bên
ngoài, gây chiến tranh xâm lược các nước khác, hoạt động đối ngoại hữu hảo ở từng thời

điểm với các quốc gia khác,...)
2. Sự khác nhau:

 Thời điểm ra đời (các quá trình hình thành, phát triển, suy vong):
Ở phương Đông nhà nước phong kiến xuất hiện sớm hơn ở phương Tây, do nhu cầu trị
thủy, làm thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, đoàn kết chống ngoại xâm; và hình thành
sớm nhất ở Trung Quốc, từ thế kỷ III trước công nguyên. Tuy nhiên, quá trình phát triển
lại rất chậm (Trung Quốc thế kỷ VII - XVI), các nước Đông Nam Á (thế kỷ X - XIV). Quá
trình suy vong dài, bởi có sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân nên mâu thuẫn dân tộc,
giai cấp đã làm chế độ phong kiến suy yếu, khủng hoảng. Nhân dân phương Đông phải
tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống thực dân, lật đổ phong kiến. Ở
phương Tây, chế độ phong kiến xuất hiện muộn hơn (thế kỷ V - X), nó được hình thành
sớm nhất đã là thế kỷ V sau công nguyên (ở Tây Âu). Nó phát triển rất nhanh (Thế kỷ XI –
XIV) và thời gian suy vong ngắn (Thế kỷ XV – XVI). Ở phương Tây, nhà nước phong
kiến ra đời trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô
lệ mang tính chất điển hình. Sự hình thành quan hệ phong kiến trong lòng đế quốc La Mã
là yếu tố cơ bản, quyết định, công cuộc chinh phục các bộ lạc của người Giécmanh là yếu
4


tố thúc đẩy quá trình phong kiến hóa. Còn ở phương Đông, chế độ phong kiến ra đời trên
cơ sở chế độ nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng.

 Về cơ sở kinh tế - chính trị - xã hội - tư tưởng:
Cơ sở kinh tế: Ở phương Tây (Tây Âu), chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ
thời cổ đại. Đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến ở đây là kinh tế lãnh địa, giai cấp lãnh
chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa trên quan hệ lãnh chúa - chư hầu, tình trạng phân
quyền cát cứ kéo dài. Ở trung kì (thời kì phát triển), thủ công, thương nghiệp phát triển,
dẫn tới sự xuất hiện thành thị trung đại. Khác với phương Tây, kinh tế phương Đông lại bó
hẹp ở công xã nông thôn. Kinh tế địa chủ với quan hệ địa chủ - tá điền chiếm ưu thế,

ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, một phần ruộng đất được phân phong cho quý tộc,
quan lại, một phần được cấp cho nông dân theo định kỳ để nhà nước thu thuế, như chế độ
quân điền ở Trung Quốc, chế độ ban điền ở Nhật Bản,..(sở hữu tư nhân phát triển chậm).
Về cơ sở xã hội: Giai cấp thống trị phương Đông là địa chủ, quý tộc, còn ở phương Tây
thế lực thống trị gồm lãnh chúa, quý tộc, tăng lữ. Giai cấp bị trị: Nông dân tá điền
(phương Đông) so với nông nô (phương Tây) có phần dễ chịu và ít khắt khe hơn. Mâu
thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong chế độ phong kiến phương tây nặng nề và gay gắt hơn
phương Đông. Về chính trị, tư tưởng: Chế độ quân chủ phương Đông xuất hiện sớm hơn
ở phương Tây. Sự chuyển biến từ chế độ phân quyền sang tập quyền ở phương Đông (thời
Tần Thủy Hoàng) và A-sô-ka diễn ra sớm. Trong khi đó ở phương Tây sự tập quyền diễn
ra chậm trễ (thế kỉ XIV) và nhà vua được sự giúp đỡ của thị dân mới dẹp được sự cát cứ
của các lãnh chúa. Sự can thiệp của tầng lớp tăng lữ phương Tây vào hệ thống chính trị là
rõ ràng và chặt chẽ hơn phương Đông.

 Về hình thức nhà nước:
Ở phương Tây, một đặc trưng, phổ biến và bao trùm của nhà nước là trạng thái phân
quyền cát cứ. Hình thức chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kì cuối - thời
kì suy vong của chế độ phong kiến và chỉ ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban
Nha,...Còn ở một số nước như Italia, Đức,...trạng thái phân quyền cát cứ tồn tại suốt cả
5


chế độ phong kiến. Tính chuyên chế ở chính thể quân chủ chuyên chế không cao như ở
phương Đông. Ngoài ra, còn có hình thức chính quyền tự trị thành phố là chính quyền cục
bộ, tồn tại trong những khoảng thời gian không lâu. Bên cạnh đó còn có sự ra đời và tồn
tại của các cơ quan đại diện đẳng cấp...Ở phương Đông, hình thức kết cấu của nhà nước
phổ biến là trung ương tập quyền, phát triển thành hình thức chính thể quân chủ chuyên
chế, mang tính chuyên chế cực đoan. Trong chính thể này, vua có uy quyền tuyệt đối, là
đấng chí cao vô thượng và được thần thánh hóa là "thiên tử", "thiên hoàng"...Dạng chính
thể này tồn tại trong suốt thời kì phong kiến.

Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước:
Bộ máy nhà nước phong kiến phương Đông thể hiện tính trung ương tập quyền cao độ,
Vua hay Hoàng đế là người nắm hết mọi quyền lực, quan lại các cấp đều là tôi tớ của vua,
dân chúng trong nước đều là thần dân của vua. Hệ thống quan lại được tổ chức 2 cấp,
trung ương và địa phương với đẳng cấp phân minh, biên chế chặt chẽ. Điển hình cho nhà
nước phong kiến phương Đông là nhà nước phong kiến Trung Quốc. Ở phương Tây, mà
điển hình là Tây Âu, trong giai đoạn phân quyền cát cứ, bộ máy nhà nước ở trung ương
vẫn tồn tại nhưng kém hiệu lực. Bộ máy nhà nước ở các lãnh địa rất mạnh, gồm nhiều cơ
quan quản lý nhưng chủ yếu là cơ quan cưỡng chế. Trên thực tế, các lãnh địa như những
quốc gia nhỏ, các lãnh chúa trở thành vua trên lãnh địa của mình, có đầy đủ quyền: lập
pháp, hành pháp, tư pháp, có bộ máy chính quyền, tòa án, quân đội, luật lệ riêng. Ở chính
quyền tự trị thành phố, thành thị sau khi đã được tự trị, một mặt có đầy đủ quyền hành như
một lãnh chúa, mặt khác, cộng hòa thành thị có địa vị và tính chất như một thần thuộc của
lãnh chúa; do đó nó là cộng hòa phong kiến. Sang giai đoạn nhà nước trung ương tập
quyền, thì nạn phân quyền cát cứ được khắc phục, quyền lực nhà nước đã tập trung vào cơ
quan nhà nước ở trung ương, đứng đầu là vua (có quyền quyết định mọi công việc đối nội,
đối ngoại, bổ nhiệm hoặc cách chức, ban bố hoặc hủy bỏ các đạo luật, trừng phạt, ân xá...)
Về bản chất và chức năng nhà nước:
Cũng như thời kì chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến phương Đông vẫn có một chức
6


năng đặc biệt, quan trọng là tổ chức công cuộc trị thủy và thủy lợi. Còn về bản chất của
nhà nước phong kiến ở đâu cũng là một, tuy nhiên, ở phương Tây, tính chất giai cấp của
nhà nước thể hiện rõ nét hơn ở phương Tây, mâu thuẫn giai cấp sâu sắc hơn (lãnh chúa nông nô), cuộc sống của nông dân, tá điền ở phương Đông) so với nông nô có phần dễ
chịu và ít khắt khe hơn.

KẾT LUẬN
Như vậy, nhà nước phong kiến phương Đông và nhà nước phương Tây tuy có nhiều
điểm khác nhau và những đặc trưng riêng, nhưng đều là những nhà nước phong kiến kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử, nó củng cố bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến

thống trị, góp phần quản lý đời sống xã hội. Nó là kiểu nhà nước điển hình cần được
nghiên cứu, tìm hiểu, có những nhìn nhận, đánh giá chính xác và đầy đủ, sâu sắc hơn.

7


DANH MỤC GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

2. Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2008.
3. Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Khoa Luật – Đại học quốc gia,
Nxb.ĐHQG, Hà Nội, 1997.
4. Lịch sử thế giới cận đại, Vũ Dương Ninh, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006.
5. Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, 2009.
6. ipedia
7.

8



×