Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số, sưu tầm và phân tích ví dụ cụ thể liên quan đến quyền của cổ đông thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.48 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Do
ưu thế vượt trội về khả năng huy động vốn lớn và nhanh chóng, khả năng chuyển
nhượng vốn linh hoạt, hình thức công ty này thích hợp cho các danh nghiệp có quy
mô sản xuất lớn, kinh doanh đã ngành nghề ở Việt Nam, CTCP ngày càng thu hút
các nhà đầu tư. Một trong những nhân tố góp phần vào sự phát triển bền vững của
CTCP là việc bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số vì nó thúc đẩy đầu tư
góp vốn vào công ty. Xuât phát từ nhận thức trên, nhóm chúng em xin chọn đề tài:
“…
NỘI DUNG
I.
1.

QUAN NIỆM VỀ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ TRONG CÔNG TY CỔ
PHẦN
Quan niệm về công ty cổ phần

1.1. Khái niệm
Công ty cổ phần là loại hình thức công ty đối vốn, vốn của công ty được
chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ
đông, chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà
họ sở hữu.
1.2. Đặc điểm của CTCP:
Thứ nhất, thành viên công ty: trong suốt quá trình hoạt động phải có ít nhất 3
thành viên tham gia công ty cổ phần mà không khóng chế số lượng tối đa, vì vậy
nó có khả năng huy động vốn rộng rãi đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau…
Thứ hai, vốn điều lệ của công ty: được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần. giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong
cổ phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hay nhiều cổ phần. Việc
góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể
mua nhiều cổ phần.Tự do chuyển nhượng phần vốn góp: phần vốn góp của các


thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát
0


hành là một loại hàng hóa. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo
quy định của pháp luật.
Thứ ba, về chế độ trách nhiệm: công ty cổ phần chịu trách nhiệm về tài sản
bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Thứ tư, trong quá trình hoạt động CTCP có quyền phát hành chứng khoán theo
quy định của pháp luật để huy động vốn. Thể hiện khả năng huy động vốn cao của
công ty cổ phần.
Thứ năm, CTCP có tư cách pháp nhân: công ty có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2. Quan niệm về cổ đông thiểu số(CĐTS)
Cổ đông đều là những người góp vốn vào công ty thông qua hình thức mau
cổ phần.Cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp ít nhất
một cổ phần trong CTCP.Có nhiều cách phân loại cổ đông, nhưng dựa vào tỷ lệ cổ
phần mà cổ đông nắm giữ trong công ty, cổ đông có thể chia than: cổ đông lớn và
cổ đông thiểu số. Pháp luật thực định của VN chưa có một định nghĩa về cổ đông
thiểu số hay các đặc điểm của cổ đông thiểu số. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp
luật cụ thể tồn tại nhiều thuật ngữ dùng để chỉ CĐTS như cổ đông ít vốn, cổ đông
nhỏ. Về mặt lý luận, có quan điểm chia cổ đông thành cổ đông ít vốn và cổ đông
đa số, có quan điểm thì cho rằng “người nắm giữ phần vốn đáng kể trong công ty
được gọi là cổ đông đa số.Ngược lại, “các cổ đông nhỏ không có ảnh hưởng đáng
kể trong quản lý và điều hành công ty được xem là cổ đông thiểu số”.Một số văn
bản pháp luật VN hiện hành không định nghĩa cổ đông thiểu số mà đưa ra quy định
về cổ đông lớn.Định nghĩa về cổ đông lớn hiện nay có hai văn bản luật trực tiếp
điều chỉnh là Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật Chúng khoán 2006. Theo quy
định tại khoản 6, Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng “Cổ đông lớn là cá nhân hoặc

tổ chức sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền
bỏ phiếu của một tổ chức tín dụng”. Cũng tương tự như vậy, khoản 9, Điều 6 luật
chúng khoán 2006 quy định “Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián
tiếp từ năm phần trăm trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát
hành”.Như vậy, cả Luật các tổ chức tín dụng và Luật chứng khoán đã đưa ra một tỷ
1


lệ chính xác là 10% và 5% để phân định ranh giới giữa cổ đông lớn và loại cổ đông
còn lại trong CTCP. Và liệu có thể hiểu theo cách hiểu thông thường để gọi loại cổ
đông còn lại ở đây là những CĐTS hay cổ đông nhỏ cho phù hợp với mối quan hệ
của cặp phạm trù lớn – nhỏ được hay không?.Như vậy, ta có thể suy luận 5% là
ranh giới để xác định cổ đông lớn cổ đông nhỏ theo Luật chứng khoán. Tương tự
tại khoản 4 Điều 86 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Cổ đông sở hữu 5% tổng
số cổ phần trở lên phải được đăng ký với cơ quan kinh doanh có thẩm
quyền…”.Theo quy định này ta cũng có thể suy luận những cổ đông sở hữu từ 5%
tổng số cổ phần chính là các cổ đông lớn.Từ sự không thống nhất trong quy định
của pháp luật chúng ta rất khó đưa ra một định nghĩa đầy đủ về CĐTS.Nghiên cứu
về CĐTS cần chú ý: thứ nhất: loại cổ phiếu họ sở hữu: phải là cổ phiếu có quyền
biểu quyết. Bao gồm: cổ phiếu phổ thông, hoặc cổ phiếu ưu đãi biểu quyết. Vì cổ
phiếu ưu đãi cổ tức và cổ phiếu ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết.Thứ
hai, tỉ lệ số cổ phiếu của họ trong tổng số cổ phiếu có quyền biểu quyết trong công
ti là dưới 5%.
Nếu xem xét vấn đề dưới góc độ thực tiễn, chúng ta có thể hiểu rằng “ cổ đông
thiểu số thì không chi phối đến được công ty, họ không có khả năng áp đặt quan
điểm, đường lối sách lược của mình cho công ty, không thể quyết định được việc
lựa chọn đa số thành viên trong Hội đồng quản trị hay Ban kiểm soát, không có
khả năng ảnh hưởng trong việc quản lý và điều hành công ty” .
Dù hiện tại tồn tại nhiều quan điểm khác nhau; tuy nhiên, về mặt lý luận chúng
ta có thể hiểu CĐTS là cổ đông không chi phối được công ty, không có khả năng

áp đặt quan điểm, ý chí, đường lối, sách lược của mình trong công ty… khi các cổ
đông thực hiện các quyền của mình. Thuật ngữ “cổ đông thiểu số” được hiểu là các
cổ đông nhỏ không phải là ít về số lượng cổ đông mà nhỏ về giá trị vốn góp so với
các cổ đông khác.Dấu hiệu xác định CĐTS:
Thứ nhất, nói đến cổ đông thiểu số phải nói đến vốn góp của họ là tổng số cổ
phần mà họ sở hữu (là phần trăm cổ phần có quyền biểu quyết) hay phần vốn góp
của họ (tỉ lệ phần trăm) trong vốn điều lệ của công ty;
Thứ hai, nói đến cổ đông thiểu số là nói đến khả năng của họ trong việc tác
động tới chính sách kế hoạch kinh doanh, chiến lược phát triển, lựa chọn người
2


quản lý công ty hay nói cách khác là nói tới vai trò của họ khi biểu quyết thông qua
các vấn đề tại cơ quan quyền lực cao nhất trong công ty.
Có thể thấy rằng, sự phân biệt giữa cổ đông lớn (cổ đông đa số) và cổ đông nhỏ
(cổ đông thiểu số) được dựa trên tiêu chí về số lượng cổ phần có quyền biểu quyết
mà mỗi cổ đông sở hữu điều này được chứng thực rõ ràng khi LDN 2005 quy định
cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu 10% tổng số cổ phần trở lên sẽ có thêm một số
quyền khác so với cổ đông phổ thông. Đồng thời LDN cũng quy định cổ đông sở
hữu 5% tổng số vốn điều lệ có thể tham gia Hội đồng quản trị. Tuy nhiên tại điểm
a, khoản 1 Điều 79 LDN 2005 quy định “ Cổ đông phổ thông có các quyền sau
đây: tham dự và phát biểu trong các Đại hội cổ đông và thự hiện quyền biểu quyết
trực tiếp hoặc thông qua đại diện được ủy quyền; mỗi cổ phần phổ thông có một
phiếu biểu quyết”. Như vậy LDN không quy định cổ đông phổ thông cần nắm giữ
bao nhiêu phần trăm tổng số cổ phần của công ty mới được biểu quyết mà tất cả
các cổ đông phổ thông của công ty đều có quyền tham gia biểu quyết tại các cuộc
họp ĐHĐCĐ. Các quyền và nghĩa vụ của các cổ đông phổ thông là như nhau, bất
kể họ là CĐ đa số hay CĐ thiểu số.Điều này làm cho việc xác định cổ đông đa số
và cổ đông thiểu số có ý nghĩa pháp lý rất to lớn để thực hiện và bảo vệ quyền của
các cổ đông nhỏ trong CTCP thông qua hình thức dự họp và tham gia biểu quyết

tại ĐHCĐ.Không ít trường hợp cho rằng từ thiểu số được hiểu là các cổ đông này
chiếm số ít trong công ty, cách hiểu này chưa chính xác và thiếu cơ sở lí luận thực
tiễn.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra định nghĩa về CĐTS một cách tương
đối như sau: Cổ đông thiểu số là cổ đông sở hữu một tỷ lệ cổ phần nhỏ trong công
ty cổ phần và không có khả năng chi phối, kiểm soát hoạt động của công ty một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
3. Mục đích phải bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần
Thứ nhất, CĐTS luôn yếu thế hơn so với cổ đông đa số (CĐĐS) là một thực tế
hiện nay.CĐTS là những người nắm giữ ít cổ phần bởi vậy khả năng chi phối của
họ đối với các hoạt động của công ty là rất hạn chế. Mặc dù LDN có quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 79 LDN 2005 song chỉ có cổ đông nắm giữ ít nhất 5% tổng
số cổ phần phổ thông mới có cơ hôi trở thành thành viên của HĐQT (trừ điều lệ
3


công ty có quy định khác). Như vậy, các CĐĐS có khă năng chi phối và có nhiều
cơ hội nhiều hơn trở thành người điều hành công ty. Về quyền lợi của các cổ đông
trong CTCP theo quy định của LDN năm 2005 là ngang nhau khi họ sở hữu cùng
một loại cổ phần. Tuy nhiên trên thực tế quyền lực thuộc về các cổ đông lớn.Trong
các cuộc họp ĐHĐCĐ, CĐTS thường là những người thua thiệt, không có ý kiến
quyết định gì khi đại hội lấy ý kiến thông quan các vấn đề cơ bản có liên quan.Các
CĐTS thường bị rơi vào tình trạng buộc phải chấp nhận mọi quyết định của những
người điều hành công ty mà không được nói tiếng nói của mình.
Thứ hai,bảo vệ quyền lợi của CĐTS được bảo vệ sẽ tạo ra sự ổn định cho
CTCP. Mặc dù số lượng cổ phần mà CĐTS nắm giữ không phải là con số đáng kể
nhưng CĐTS thường chiếm số đông trong CTCP. Do vậy, khi quyền lợi của họ
được bảo vệ sẽ tạo ra sự tin tưởng cho các nhà đầu tư, làm cho họ gắn vó với công
ty từ đó tạo ra sự ổn định nhất định cho CTCP.
Thứ ba, hạn chế được sự lạm quyền của cổ đông lớn trong hoạt động kinh

doanh.Việc chiếm ưu thế về tổng số cổ phần trong công ty đã tạo điều kiện cho các
cổ đổng lớn thực hiện các hoạt động làm quyền trong công ty và timg mọi cách để
hạn chế các quyền của CĐTS.
II.

CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CÓ QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN
LỢI CỦA CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ.

Pháp luật hiện nay chua có một văn bản chính thức nào đề cập chuyên sâu đến
vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số. Các quy định này nằm rải rác trong các Luật
chuyên ngành, tùy theo từng lĩnh vực liên quan:
• Luật Doanh nghiệp 2005
• Luật chứng khoán 2006
• Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 1/10/2010.
• Nghị định số 01/2010/NĐ- CP ngày 4/1/2010.
• Nghị định 85/2010/NĐ-CP về xử phạt hành chính về chứng khoán

4


Trong suốt nhiều năm qua, bắt đầu từ khi Luật Công ty 1990 ra đời, mặc dù đã
cố gắng xây dựng một chế định pháp lý hoàn chỉnh nhằm bảo vệ CĐTS nhưng cho
đến nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có được một định nghĩa chung, thống nhất
về CĐTS . Trước đây,theo quy định tại Điều 2, Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày
11/07/1998 thì “Cổ đông thiểu số là người nắm giữ dưới 1% cổ phiếu có quyền
biểu quyết của tổ chức phát hành”. Như vậy, theo quy định này, CĐTS được định
nghĩa một cách rất cụ thể và rõ ràng. Theo đó, một cổ đông được gọi là CĐTS khi
cổ đông đó sở hữu dưới 1% cổ phiếu của tổ chức phát hành. Hay nói cách khác, tỷ
lệ sở hữu 1% cổ phiếu của tổ chức phát hành là căn cứ để xác định một cổ đông là
CĐTS hay không phải là CĐTS. Tuy nhiên, Nghị định này đã hết hiệu lực và các

văn bản mới ban hành để điều chỉnh về lĩnh vực này dường như cũng “bỏ quên”
luôn định nghĩa này..
TÌM TIẾP TRONG LUẬT

Trong nghị định 102/2010 NĐ-CP hướng dẫn thi hành chi tiết một số điều của
luật đoang nghiệp.Trong đó vấn đề về quyền của cổ đông thiểu số. nghị định đã
quy định rõ hơn phần nào được bảo vệ cụ thể : Tại điều 29 của nghị định ghi nhận
về số lượng ứng cử viên cụ thể mà mỗi nhóm cổ đông được đề cử, số lượng này
phụ thuộc tỉ lệ sở hữu cổ phần của mỗi nhóm và số lượng ứng cử viên do Đại hội
đồng cổ đông quy định. Đối với quyền đề cử người vào HĐQT và BKS, quy định
này có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ quyền của cổ đông nói chung và quyền của
cổ đông thiểu số nói riêng vì nó quy định một khả năng gom nhóm của cổ đông để
nâng cao quyền lực cho cổ đông, thực hiện quyền một cách tập thể . Bằng cách
gom nhóm các cổ đông thiểu số có quyền đề cử, ứng cử người vào HĐQT, BKS
góp tiếng nói về quản lý công ty và từ đó hạn chế sự lạm dụng quyền lực của
những người quản lý công ty.
III.

NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ

1. Bảo vệ quyền liên quan đến vốn và các chế độ tài chính khác của công ty
cổ phần- quyền đối với sở hữu vốn.
5


Trước hết, pháp luật pháp luật đảm bảo cho cổ đông thiểu số có quyền đối
với chuyển nhượng vốn. Theo điểm d khoản 1 Điều 77 LDN 2005 xác định
rằng công ty cổ phần là doanh nghiệp mà cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác… Điểm d khoản 1 Điều 79 cũng quy

định cổ đông phổ thông có quyền được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho cổ đông khác và cho người không phải là cổ đông… Quyền chuyển nhượng
cổ phần là một trong những ưu thế của CTCP so với phần vốn góp trong công
ty TNHH hay phần vốn góp của các xã viên HTX. Pháp luật quy định cho các
cổ đông quyền tự do chuyển nhượng cổ phần tạo cho các cổ đông có thể di
chuyển vốn đầu tư nhằm đảm bảo quyền lợi của mình mà không ảnh hưởng đến
sự tồn tại của CTCP. Chính điều này là một trong những biện pháp giúp cho các
cổ đông thiểu số tự bảo vệ mình khi họ nhận thấy quyền lợi của mình có khả
năng xâm phạm hoặc mục đích đầu tư của mình không đạt được.
Bảo vệ quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông, pháp luật đã
gián tiếp bảo vệ quyền đối với sở hữu vốn của họ. Khi bảo vệ quyền đối với tự
do chuyển nhượng cổ phần pháp luật đã bảo vệ chính quyền định đoạt đối với
tài sản của chủ sở hữu. Khi quyền sở hữu của cổ đông đối với cổ phần của công
ty được xác lập thì đồng thời pháp luật sẽ bảo vệ cho họ quyền tự định đoạt đối
với tài sản đó- quyền tự do chuyển nhượng cổ phần.
Hai là,pháp luật bảo về quyền yêu cầu công ty mua lại vốn góp cho các cổ
đông thiểu số. Theo quy định tại khoản 1 Điều 90 LDN 2005 thì “cổ đông biểu
quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền và
nghĩa vụ của cổ đông quy định tại điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty
mua lại cổ phần của mình” .Quyền này tạo điều kiện cho cổ đông được rút vốn
ra khỏi công ty bằng việc yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình mà không
ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông khác. Khi những quyết sách của công
ty được thông qua nhằm hướng đến lợi ích chung chủa công ty nhưng đôi khi
các cổ đông đa số nắm quyền chi phối ở công ty biểu quyết đưa ra những quyết
định vì lợi ích của chính bản thân họ nhờ vào số lượng cổ phần chiếm ưu thế.
Bởi vậy, không phải lúc nào những quyết định của công ty cũng thỏa mãn được
tất cả những lợi ích của các cổ đông và có những trường hợp xâm phạm đến
chính quyền lợi của bộ phận cổ đông thiểu số.Và lúc này, pháp luật với sự bảo
6



vệ quyền yêu cầu mua lại cổ phần cho các cổ đông thiểu số trở nên hữu hiệu
hơn bao giờ hết, giúp các cổ đông có thể rút vốn ra khỏi công ty bảo vệ quyền
lợi cho chính mình.
Thứ ba,pháp luật quan tâm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số đối
với quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành và quyền chuyển nhượng quyền
ưu tiên mua cổ phần. Điểm c khoản 1 điều 79 Luật Doanh nghiệp 2005 quy
định: “cổ đông phổ thông có quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán
tương ứng với tỉ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty”.Có thể
thấy rằng pháp luật trao cho các cổ đông quyền ưu tiên này là một điều cần thiết
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các cổ đông mà đặc biệt là cổ đông thiểu
số.Bởi vì, khi công ty tăng vốn điều lệ bằng hình thức phát hành thêm cổ phần
mới thì quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty bị chia nhỏ hơn và lợi nhuận
của công ty sẽ được phân chia cho nhiều người hơn. Trong công ty cổ phần, các
cổ đông nắm giữ quyền sở hữu theo số cổ phần. Khi công ty tăng vốn điều lệ
thông qua việc chào bán cổ phần mơi, nếu các cổ đông hiện hữu không được
quyền ưu tiên mua đối với cổ phần mới chào bán này thì tỉ lệ cổ phần mà cổ
đông sở hữu sau khi công ty tăng vốn thay đổi; đồng thời quyền đối với sở hữu
công ty cũng thay đổi theo. Điều này làm cho quyền lợi của các cổ đông, nhất là
cổ đông thiểu số không được đảm bảo.
Do đó, bằng cách ghi nhận quyền ưu tiên mua cổ phần mới chào bán cho các cổ
đông theo tỉ lệ cổ phần mà họ đang sở hữu, LDN 2005 đã cho phép các cổ đông
thiểu số hiện hữu duy trì tỉ lệ sở hữu của mình trong công ty sau khi công ty
tăng thêm vốn. Điều này cũng giúp cho các cổ đông thiểu số không bị ngày một
yếu thế hơn, quyền lợi của họ cũng được đảm bảo một cách công bằng.
2. Bảo vệ quyền tham gia hoạt động quản lí công ty cổ phần.
a. Quyền tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005, tại điểm a Khoản 1 Điều 79 quy định: “ Cổ
đông phổ thông có quyền tham dự và phát biểu trong các ĐHĐCĐ…”. Khoản 1
Điều 101 LDN 2005 cũng quy định: “Cổ đông là cá nhân, người đại diện theo

ủy quyền của cổ đông là tổ chức trực tiếp hoặc ủy quyền bằng văn bản cho một
người khác dự họp ĐHĐCĐ”.Theo đó, cổ đông thiểu số có quyền tham dự cuộc
7


họp ĐHĐCĐ, được nghe báo cáo về hoạt động hiện tại, nói lên nguyện vọng
của mình. Quyền dự họp đại hội cổ đông là một trong những quyền cơ bản và
tối thiểu của các cổ đông và cũng là nền tảng để cổ đông thiểu số thực hiện các
quyền khác của mình.
b. Quyền biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ.
Khoản 2 Điều 96 LDN 2005 quy định các cổ đông thiểu số có thể tham gia
vào quá trình ra quyết định, quản lí và điều hành công ty về các vấn đề thuộc
quyền quyết định của ĐHĐCĐ: thông qua hướng phát triển của công ty, quyết
định loại cổ phần, tổng số cổ phần có quyền chào bán; bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm thành viên HĐQT;…Đây là hình thức để cổ đông thiểu số thể hiện ý chí
của mình và giúp cho họ có quyền được tham gia vào các quyết định có ảnh
hưởng đến sự phát triển của công ty, ảnh hưởng đến chính quyền lợi của cổ
đông. Việc tham gia quyết định ở ĐHĐCĐ thể hiện rằng cổ đông thiểu số đã
trực tiếp hay gián tiếp đưa ra các quyết định, thể hiện ý chí của mình tại công
ty; giúp cổ đông thiểu số tham gia định hướng được sự phát triển của công ty
theo hướng mang lại quyền lợi cho mình, cho các cổ đông khác và thông qua đó
có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình.Nhằm đảm bảo quyền biểu quyết của cổ
đông thiểu số, pháp luật đã giới hạn mức tối thiểu tỉ lệ biểu quyết, còn mức cụ
thể, do công ti thỏa thuận quy định trong Điều lệ.
Như vậy, pháp luật đã bảo đảm cho các CĐTS quyền được biểu quyết tại
cuộc họp ĐHĐCĐ như bất cứ CĐ nào khác. Bản thân mỗi CĐTS không thể độc
lập đưa ra quyết định nhưng họ có thể tham gia vào việc quyết định, xem xét,
thảo luận các ý kiến được trình bày bởi HĐQT thể hiện rằng CĐTS đã trực tiếp
hay gián tiếp đưa ra các quyết định thể hiện ý chí của mình tại công ty giúp
CĐTS tham gia định hướng được sự phát triển của công ty sao cho mang lại

nhiều lợi ích cho mình, cho các CĐ khác và thông qua đó có thể tự bảo vệ
quyền lợi cho mình. Khi các CĐTS luôn yếu thế hơn các CĐĐS khác trong việc
chi phối hoạt động của CTCP thì quyền được biểu quyết trở nên có ý nghĩa rất
thiết thực trong việc bảo vệ quyền lợi cho chính các CĐTS trong CTCP.
c. Quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ.

8


Điểm c khoản 2 Điều 79 LDN 2005 quy định: “ Cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng
hoặc một tỉ lệ khác nhỏ hơn quy định tại điều lệ công ty có quyền yêu cầu triệu
tập họp ĐHĐCĐ” trong các trường hợp pháp luật quy định. Đó là HĐQT vi
phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lí hoặc ra
quyết định vượt quá thẩm quyền được giao; nhiệm kì của HĐQT đã vượt quá 6
tháng mà HĐQT mới chưa được bầu thay thế , những trường hợp khác theo quy
định của điều lệ công ty (khoản 3 Điều 79 LDN) và trường hợp quy định taị
khoản 6 Điều 97 LDN: trường hợp ban kiểm soát không triệu tập họp ĐHĐCĐ
theo quy định tại khoản 5 điều này thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại
khoản 2 Điều 79 của luât này đã có yêu cầu có quyền thay thế HĐQT, ban kiểm
soát triệu tập họp ĐHĐCĐ theo quy định của luật này. Như vậy, quyền triệu tập
ĐHĐCĐ của cổ đông thiểu số vẫn được đảm bảo.
d. Quyền đề cử người vào HĐQT hay Ban kiểm soát.
Tại điểm a khoản 2 Điều 79 LDN 2005 thì các cổ đông thiểu số có thể liên
kết với nhau để đủ điều kiện bầu cho mình một người đại diện vào cơ quan
quản lí cao nhất nhằm bảo về quyền lợi cho nhóm cổ đông trong những trường
hợp nhất định.Tại điểm c, khoản 3, Điều 104 Luật Doanh nghiệp 2005 có đề
cập đến vấn đề bầu dồn phiếu trong việc bầu thành viên Hội đồng quản trị và
Ban kiểm soát cụ thể: "Việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và
Ban kiểm soát phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu, theo đó mỗi cổ

đông có tổng số phiếu biểu quyết tương ứng với tổng số cổ phần sở hữu nhân
với số thành viên được bầu của Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát và cổ
đông có quyền dồn hết tổng số phiếu bầu của mình cho một hoặc một số ứng cử
viên". Phương thức dồn phiếu bầu được quy định tại Điều 29, Nghị định
102/2010/ NĐ-CP ngày 1/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của LDN.Như vậy, phương thức bầu dồn phiếu là một trong những
biên pháp hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi của những cổ đông thiểu số.
3. Bảo về quyền về thông tincủa CĐTS
Cũng theo Quyết định số 15, cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ trên 5%
tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục từ 6 tháng trở lên có quyền
9


kiểm tra và nhận bản sao hoặc bản trích dẫn danh sách các cổ đông có quyền
tham dự và bỏ phiếu tại ĐHCĐ; yêu cầu ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ
thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần
thiết.
f, Quyền tham gia các giao dịch có giá trị lớn, giao dịch phát sinh tư lợi.
Về mặt bản chất, những giao dịch này xâm hại đến tài sản của công ty, cũng
đồng nghĩa với khả năng xâm hại đến quyền lợi của các cổ đông trong công ty,
mà đặc biệt là quyền lợi của CĐTS. Bởi lẽ, CĐTS là những người không có khả
năng kiểm soát công ty, họ thực sự không thể trực tiếp kiểm soát được các giao
dịch tư lợi của người quản lý và với số vốn ít ỏi của mình, thì thiệt hại tài sản
của công ty xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn của họ.
Theo đó, LDN 2005 quy định cụ thể các hợp đồng, giao dịch có giá trị bằng
hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp được ghi trong báo cáo tài
chính gần nhất phải được ĐHĐCĐ thông qua, còn đối với các giao dịch có giá
trị nhỏ hơn 50% sẽ thuộc thẩm quyền của HĐQT1. Đồng thời, vấn đề này cũng
được quy định tại các Điều 118 và Điều 120 LDN 2005.Bên cạnh đó, luật
chứng khoán cũng quy định, tại Điều 24 Quy chế quản trị công ty quy định các

công ty niêm yết phải áp dụng các biện pháp cần thiết để để ngăn ngừa những
người có liên quan tiến hành các giao dịch làm thất thoát vốn, tài sản hoặc các
nguồn lực khác của công ty. Khoản 4, Phần IV Thông tư 09/2010/TT-BTC của
Bộ Tài chính ngày 15/01/2010 hướng dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK
và Công văn số 582/UBCK-TT của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
(UBCKNN) ngày 14/04/2009 về công bố thông tin của cổ đông nội bộ khi thực
hiện giao dịch cổ phiếu của công ty niêm yết cũng quy định việc các cổ đông
nội bộ khi thực hiện các giao dịch cổ phiếu với những người có liên quan phải
công bố thông tin.
Ngoài ra cổ đông thiểu số trong CTCP còn có các quyền: quyền chấm dứt tư
cách cổ đông,quyền yêu cầu thanh tra, kiểm tra các hoạt động của công ty và
thành viên công ty….

1

Khoản 2 và khoản 3, Điều 120 LDN 2005.

10


2. Thực trạng vi phạm các quy đinhg về bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số
trong CTCP
LDN đã quy định các quyền cơ bản của cổ đông trong công ty cổ phần một
cách rõ ràng, nhưng trong thực tế tình trạng vi phạm quyền của cổ đông vẫn diễn ra
thường xuyên:
-Quyền tham dự và biểu quyết tại ĐHĐCĐ bị hạn chế: LDN đã quy định rất rõ
ràng rằng tất cả các cổ đông phổ thông đều có quyền tham dự và biểu quyết mọi
vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Mỗi một cổ phần phổ thông có một phiếu
biểu quyết, như vậy về nguyên tắc, đã là cổ đông nắm giữ cổ phần của công ty thì
dù ít hay nhiều đều có quyền ngang nhau trong việc tham dự và biểu quyết tại cuộc

họp ĐHĐCĐ.Trên thực tế, hầu hết các công ty cổ phần đều không thực hiện triệt
để nguyên tắc này. Lý do mà các công ty đưa ra đều không dựa trên cơ sở pháp lý
cụ thể mà chỉ là ý chí của từng công ty để biện minh cho sự vi phạm của mình như:
Do địa điểm tổ chức chật hẹp, không đủ diện tích cho tất cả các cổ đông trong công
ty tham dự ngồi họp.
-Quyền thông tin của cổ đông: Phần lớn các cổ đông không được tiếp cận các
thông tin trọng yếu của công ty hoặc không đầy đủ, hoặc thiếu chính xác và trung
thực. Các cổ đông thiểu số hầu như không nhận được thông báo về quyết định của
ĐHĐCĐ, tóm tắt báo cáo tài chính, thông báo về việc trả cổtức.
-Sự vi phạm quyền của cổ đông thiểu số trên thực tế: Trên thực tế, tiến trình xây
dựng hành lang pháp lý để bảo vệ cổ đông thiểu số dường như đang diễn ra chậm
chạp. Nếu xem mỗi cổ đông là chủ nhân một phần của doanh nghiệp thì những cổ
đông nhỏ lẻ là những ông chủ thấp cổ bé miệng nên chưa có được sự tôn trọng cần
thiết.Cổ đông nhỏ cũng là những người đóng góp tài chính vào doanh nghiệp, tuy
nhiên, quyền lợi của họ chưa được đảm bảo đầy đủ khiến những chủ nhân nhỏ này
chịu nhiều thiệt thòi khi những chủ nhân lớn gây sức ép.
-Cách thức thực hiện quyền cổ đông: Bản thân nhận thức còn yếu của cổ đông
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những tranh chấp kéo dài trong nội
bộ công ty. Khi HĐQT vi phạm điều lệ, không hoàn thành nghĩa vụ, các cổ đông
không thực hiện quyền thay thế HĐQT của mình mà viết đơn tố cáo yêu cầu cơ
quan Nhà nước can thiệp; khi công ty có dấu hiệu vi phạm chế độ quản lý tài chính
11


thì cổ đông không yêu cầu BKS của công ty làm rõ mà lại yêu cầu cơ quan nhà
nước thanh tra, kiểm soát.
Về cơ bản, LDN 2005 đã có những cố gắng trong việc xây dựng một cơ chế
để bảo vệ các cổ đông thiểu số, vốn luôn là những nhóm lợi ích nhỏ trong công ty
cổ phần, ít có khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình trước các cổ đông lớn. Tuy
nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định này đã làm phát sinh nhiều vấn đề cần phải

tiếp tục nghiên cứu và tổng kết để hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo điều
kiện thuận lợi cho cổ đông thiểu số bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng như
xây dựng một cơ chế hiệu quả để công ty cổ phần hoạt động.
IV.

SƯU TÂM VÀ PHÂN TÍCH VÍ DỊ CỤ THỂ LIÊN QUAN ĐẾN
QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG THIỂU
Sưu tầm và phân tích ví dụ cụ thể liên quan đến quyền của cổ đông
thiểu số

1. Tình trạng vi phạm các quyền cơ bản của cổ đông
LDN 2005 đã quy định các quyền cơ bản của cổ đông trong công ty cổ phần
một cách rõ ràng, nhưng trong thực tế tình trạng vi phạm quyền của cổ đông vẫn
diễn ra thường xuyên. Quyền tham dự và biểu quyết tại ĐHĐCĐ bị hạn chế LDN
2005 đã quy định rất rõ ràng rằng tất cả các cổ đông phổ thông đều có quyền tham
dự và biểu quyết mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Mỗi một cổ phần phổ
thông có một phiếu biểu quyết, như vậy về nguyên tắc, đã là cổ đông nắm giữ cổ
phần của công ty thì dù ít hay nhiều đều có quyền ngang nhau trong việc tham dự
và biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các công ty
cổ phần đều không thực hiện triệt để nguyên tắc này. Lý do mà các công ty đưa ra
đều không dựa trên cơ sở pháp lý cụ thể mà chỉ là ý chí của từng công ty để biện
minh cho sự vi phạm của mình như: Do địa điểm tổ chức chật hẹp, không đủ diện
tích cho tất cả các cổ đông trong công ty tham dự ngồi họp. Quyền thông tin của cổ
đông.Phần lớn các cổ đông không được tiếp cận các thông tin trọng yếu của công
ty hoặc không đầy đủ, hoặc thiếu chính xác và trung thực.Các cổ đông thiểu số hầu
như không nhận được thông báo về quyết định của ĐHĐCĐ, tóm tắt báo cáo tài
chính, thông báo về việc trả cổ tức.

12



Một ví dụ điển hình gần đây là CTCP Chế biến Xuất khẩu Thuỷ sản Minh
Hải. Ngày 14/05/2009, Đại hội đồng cổ đông công ty đã quyết định điều kiện tham
dự đại hội cổ đông thường niên bắt đầu từ năm 2010 trở đi là “cổ đông phải sở hữu
từ 5000 cổ phần trở lên mới được tham dự đại hội, cổ đông sở hữu dưới 5000 cổ
phần tập hợp lại cử đại diện tham dự” . Hay đối với công ty giày Sài Gòn,trong
thông báo số 22/2009/TB-HĐQT ngày 06/03/2009 của Hội đồng quản trị Công ty
về việc chốt danh sách cổ đông họp HĐCĐ thương niên năm 2009 thì “thành viên
HĐQT, ban kiểm soát và cổ đông sở hữu hoặc đại diện cho ít nhất 1% vốn điều lệ
trở lên (16000 cổ phần) mới được tham dự họp”.
Và một số ví dụ khác, chẳng hạn như PVFC Land yêu cầu phải sở hữu từ
0,1% vốn điều lệ trở lên (tương đương khoảng 500 triệu đồng) mới được tham dự.
Một số đơn vị khác cũng yêu cầu cổ đông phải sở hữu tối thiểu hàng trăm triệu
đồng mệnh giá cổ phiếu mới được tham dự Đại hội cổ đông thường niên như
CTCP Dược phẩm TW2 (hơn 5.000 cổ phần), Licogi 18 (hơn 15.000 cổ phần),
Lilama 18 (hơn 35.000 cổ phần), CTCP Đầu tư PV-Inconess (hơn 100.000 cổ phần,
tương đương gần 1 tỷ đồng), Công ty Bia Thanh Hóa (hơn 5.000 cổ phần), CTCP
Thương mại Bia Hà Nội (hơn 20.000 cổ phần) .
2. Vi phạm liên quan đến quyền ưu tiên mua
Cổ đông phổ thông được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng
với tỷ lệ cổ phần của từng cổ đông trong công ty. Cụ thể như sau:
+ Một là, quyền ưu tiên mua cổ phần mới chào bán của công ty chỉ đặt ra khi một
CTCP kinh doanh có lợi nhuận và phát hành thêm cổ phần mới để gọi thêm vốn cổ
phần, khi đó, cổ đông của công ty sẽ được ưu tiên mua số cổ phần công ty mới
chào bán này.
+ Hai là, chỉ có những cổ đông hiện hữu tại thời điểm công ty cổ phần (CTCP) gọi
thêm vốn cổ phần mới được hưởng quyền này.
+ Ba là, quyền ưu tiên mua cổ phần mới được đặt ra để bảo vệ quyền lợi cho các
cổ đông hiện hữu, họ là những người đã gắn bó vơi công ty, và khi công ty kinh
doanh có hiệu quả họ cũng phải là những người đầu tiên được hưởng lợi từ kết quả

hoạt động kinh doanh này. Sự ưu tiên này thể hiện ở hai khía cạnh sau đây:
13


- Ưu tiên về giá: Theo quy định tại Điều 87 LDN 2005, giá chào bán cổ phần
không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán… ngoại trừ một số
trường hợp, trong đó có trường hợp cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông hiện
hữu theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty.
Như vậy, giá chào bán cổ phần cho các cổ đông hiện hữu có thể thấp hơn giá
thị trường (dành cho mọi đối tượng khác trong xã hội). Nghĩa là để sở hữu một
lượng cổ phần như nhau thì các cổ đông hiện hữu sẽ bỏ ra một số tiền nhỏ hơn so
với những người khác phải mua theo giá thị trường, vì giá mua cổ phần chào bán
của các cổ đông hiện hữu thấp hơn giá mua cổ phần (giá thị trường) của các chủ
thể khác. Sự ưu tiên về giá mua cổ phần mới chào bán của cổ đông hiện hữu chính
là ở điều này.
-Ưu tiên về thứ tự mua cổ phần: theo đó số cổ phần mới chào bán sẽ phải bán
cho những cổ đông hiện hữu trước, nghia là họ được ưu tiên mua trước, sau đó
phần còn lại công ty mới có thể chào bán rộng rãi cho các nhà đầu tư khác.
Quy định của pháp luật là vậy, nhưng trong thực tế cổ đông thiểu số lại
không được hưởng những ưu đãi như vậy:
Điển hình là vụ việc liên quan đến Công ty cổ phần nước giải khát Sài Gòn
(TRIBECO). Cuối năm 2008, thị trường chỉ mới xôn xao về khả năng công ty này
bị thâu tóm thì đến nay, câu chuyện đã trở nên rõ ràng. Bằng chứng làUniPresident
(Đài Loan) đã nâng tỷ lệ nắm giữ tại Công ty lên 43,5% thông qua việc mua thêm
9,8 triệu cổ phiếu từ đợt chào bán riêng lẻ tháng 7/2009. Hay một số ví dụ khác
như trong các công ty CTCP Giao nhận vận tải & thương mại (Vinalink), CTCP
dịch vụ Sài Gòn - Savico (SVC),… Liên quan đến giá cổ phần/cổ phiếu, một số
công ty cho phép cổ đông nhỏ mua cổ phần/cổ phiếu của công ty nhưng quy định
giá mua của cổ đông nhỏ cao hơn nhiều lần giá mua của cổ đông lớn như CTCP
vận tải xăng dầu (VIPCO)7. Những cổ đông nhỏ bị mất quyền lợi của mình ngay

chính tại công ty mà mình là chủ sở hữu. Hay ví dụ gần đây của công ty cổ phần
mía đường La Ngà: chủ tịch hội đồng quản trị của công ty đã sử dụng hơn 17 tỷ
đồng của cổ đông chơi chứng khoán mà không thông qua Hội đông quản trị công
ty. Hay chủ tịch công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy hải sản Hà Nội dùng tiền của
công ty đầu tư vào cổ phiếu.
14


Thông qua một số ví dụ trên ta thấy rằng các cổ đông lớn đã lấy đi một phần
tài sản chung của tất cả các cổ đông thiểu số trong công ty. Và những cổ đông thiểu
số phải ghánh chịu sự thiệt thòi.Và bị mất quyền lợi của mình ngay chính tại công
ty mình là chủ sở hữu.Điều này đòi hỏi pháp luật cần phải có quy định thay cho
tiếng nói của các cổ đông thiểu số trong các doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi cho
CĐTS trong CTCP, chúng ta thấy được vai trò to lớn của cổ đông thiểu số đối với
sự phát triển của công ty và nền kinh tế thị trường.Vì vậy, để các quyền của CĐTS
được thực thi trên thực tế cần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về
vấn đề này.

15


PHỤ LỤC
Sưu tầm một số bài báo về quyền của các cổ đông nhỏ lẻ trong công ti cổ
phần bị xâm hại
* Doanh nghiệp giở trò hành hạ cổ đông (theo trangweb
lúc 13:38 ngày 21/03/2013)
Do lo ngại đối mặt và tranh cãi với cổ đông về những kết quả không mấy tốt đẹp,
lãnh đạo DN hay nhóm cổ đông lớn có đủ chiêu trò để ngăn cản các cổ đông thực

hiện quyền của mình.
Tràn ngập chiêu trò
Đại hội đồng cổ đông là dịp để các cổ đông thực hiện quyền “làm chủ”, gặp gỡ
lãnh đạo, thu thập thông tin… Đặc biệt là sau một năm kinh doanh khó khăn với
nhiều kết quả kém cỏi và nhiều vấn đề nóng bỏng cần thảo luận.
Hàng loạt các vấn đề như doanh nghiệp thua lỗ, mất vốn, nợ oằn lưng, nợ xấu cao
hay các vấn đề về quản trị công ty, bầu HĐQT hay vấn đề thông tin, lựa chọn kiểm
toán… kỳ vọng sẽ được mổ xẻ thấu đáo.
Dường như dự báo được điều đó, một số DN đang tìm cách lẩn trốn các cổ đông
nhỏ lẻ, dư luận… lẩn vào im lặng nhờ các chiêu trò độc đáo.
Gần đây, một DN lớn đã kéo nhau đi rất xa cả trăm km để tổ chức đại hội cổ đông
thông qua một vấn đề rất quan trọng, mang tính bước ngoặt của đơn vị mình cho
dù đa phần hoạt động, các bên liên quan và các cổ đông liên quan đều ở Hà Nội.
Xét về mặt lý, việc tổ chức đâu là tùy chọn của DN. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, việc lựa chọn địa điểm họp xem ra không tính tới sự thuận tiện của
đông đảo các cổ đông nhỏ lẻ và các bên liên quan. Tương lai của DN dường như
đặt trọn vào một số ít các cổ đông lớn, vốn nắm phần lớn cổ phần, hưởng phần lớn
lợi ích cũng như rủi ro của doanh nghiệp.
Ở một góc khác, nhiều DN lại lựa chọn cách thức thông báo đại hội cổ đông một
cách khá chung chung. Theo đó, thời gian và địa điểm của đại hội đều không xác
16


định, theo kiểu “công ty sẽ gửi thông báo sau tới các cổ đông”, “dự kiến từ ngày
xx/03/2013 đến ngày xx/04/2013”.
Hiện tượng này xảy ra khá phổ biến, đối với từ công ty nhỏ tới lớn.Việc báo cho cổ
đông vào thời điểm nào, có thuận lợi hay không, có tạo điều kiện giúp cổ đông lên
kế hoạch tham dự hay không… chỉ có DN mới hiểu. Chiêu trò này có thể giúp các
cổ đông nhỏ lẻ “đỡ phải đi”, phù hợp với tính cách “không thích đại hội”, “không
mấy quan tâm” của đa phần các cổ đông nhỏ lẻ.

Trong trường hợp nếu các cổ đông đến đông, đến đủ, một số doanh nghiệp cũng có
sẵn một số chiêu bài để tránh gây ra tình trạng đại hội căng thẳng, đi vào mổ xẻ,
cãi nhau về các vấn đề gai góc mà doanh nghiệp đang đối mặt.
Thực tế, trong vài năm qua, nhiều cổ đông đã được thưởng thức các tiết mục văn
nghệ, những bài báo cáo dài lê thế chiếm phần lớn thời gian của đại hội.Không ít
người đã không đủ kiên nhẫn chờ đợi đến thời điểm được thực hiện quyền “làm
chủ” của mình và bỏ về trước khi đại hội tiến hành biểu quyết.
Hay cố tình họp muộn, thực hiện các thủ tục rờm rà kéo dài, những vấn đề quan
trọng lại đẩy về cuối chương trình. Đến khi bàn vấn đề quan trọng thì người về đã
vãn, hội trường thì lộn xộn bởi các sự kiện ăn uống, chúc tụng tiếp theo gây mất
tập trung.
Thậm chí, có DN lại tìm cách gửi tài liệu khá muộn, không đúng thời hạn quy định
để cổ đông khó nghiên cứu và nắm bắt hết nội dụng. Hay có gửi đúng thời hạn
nhưng lại tài liệu chính, còn những vấn đề thay đổi quan trọng thì “ỉm đi”, chờ ra
đại hội đưa ra một phương án duy nhất yêu cầu thông qua khiến cho cổ đông
không kịp trở tay.
Quyền không tới cổ đông nhỏ lẻ?
Có một thực tế là các cổ đông nhỏ lẻ không có vai trò thực sự tại hầu hết các doanh
nghiệp niêm yết, nhất là ở các công ty lớn bị chi phối bởi các “đại gia”.Điều này
cũng dễ hiểu bởi cổ đông nhỏ lẻ có cổ phần ít, rủi ro, lợi ích ít đi cùng với quyền
cũng có hạn.

17


Mặc dù vậy, tại nhiều doanh nghiệp, số lượng cổ đông nhỏ lẻ rất lớn do vậy tổng
cổ phần mà nhóm này nắm giữ cũng rất lớn. Tuy nhiên, sự quyết định lại không
nằm trong tay họ.
Cách đây khoảng một năm, giới đầu tư chắc hẳn còn nhớ một số vụ thâu tóm rùm
beng mà kết quả cho đến này còn chưa được nắm biết tường tận.Trước và sau thời

điểm bên đi thâu tóm tuyên bố nắm trên 50%, giới đầu tư liên tục bị sốc khi nhiều
cổ đông lớn thực hiện hàng loạt vụ mua chui bán lén cổ phiếu.
Đại hội cổ đông của doanh nghiệp này diễn ra khá căng thẳng nhưng trên thực tế
chỉ là một cuộc chơi giữa các ông lớn. Các cổ đông nhỏ giống như người đi xem và
không có chỗ cho họ đặt ra những câu hỏi, tìm hiểu sâu về những chuyển biến lớn
của doanh nghiệp…
Tại đại hội cổ đông của một doanh nhiệp sản xuất vật liệu xây dựng năm ngoái,
mâu thuẫn giữa các cổ đông lớn đã phủ quyết toàn bộ nội dung ĐHCĐ cho dù đã
nắm giữ quá 1/3 vốn của doanh nghiệp nhưng không thể thực hiện được quyền của
mình là cử người đại diện vào HĐQT.
Đàm phán không trên cơ sở vì mục tiêu chung để doanh nghiệp phát triển, nhất là
thời điểm kinh doanh đang rất khó khăn có thể là nguyên nhân khiến lợi nhuận của
đơn vị trong năm 2012 giảm tới 60%.
Điều này đặt ra một vấn đề là, một cổ đông nếu chưa có đủ tới 51% cổ phần thì
chẳng thể thay đổi được gì nếu như HĐQT cũ không nhất trí kết nạp anh? Nó
khiến nhiều người nghĩ tới một vấn đề, quyền của các cổ đông nhỏ lẻ, sở hữu 1.000
đến vài chục nghìn cổ phiếu thực tế có hay là không? Hay chỉ thực hiện quyền một
cách máy móc là biểu quyết những gì mà HĐQT đương nhiệm đã soạn ra?
Một thực trạng chung là đa phần các cổ đông nhỏ lẻ đang nhận thông tin một cách
thụ động từ doanh nghiệp và họ có thể là nạn nhân nếu lựa chọn phải doanh nghiệp
chưa thực sự minh bạch trong quản lý.
Nhiều nhà đầu tư đã phải bán cổ phiếu trong cay đắng khi là người cuối cùng biết
về thực tại bê bết của doanh nghiệp và bởi vì họ quá mải mê với các số P/E, EPS,
tăng trưởng mà không biết rằng sự minh bạch trong quản lý của doanh nghiệp là
rất kém.
18


Theo Mạnh Hà (VEF)


19



×