Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CẢU PHÁP LUẬT VỀ THỜI HẠN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.74 KB, 37 trang )

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CẢU PHÁP LUẬT VỀ
THỜI HẠN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Trước khi có Bộ luật tụng hình sjư 1988, một hoạt động tố tụng hình sự
được quy định trong những văn bản dưới luật, hoặc trong những văn bản nội bộ
của các cơ quan pháp luật, gồm những quy định rời rạc, chưa cụ thể, chưa đề
cấp hết cả các hoạt động tố tụng.
Bộ luật tố tụng hình sự 1988 là Bộ luật về hình thức đầu tiên của Nhà
nước ta quy định một cách có hệ thống toàn bộ trình tự, thủ tục điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành phòng ngừa
và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới trong những năm qua.
Tuy nhiên do nhiều lý do, trong đó có lý do Bộ luật được nghiên cứu và
xây dựng ngay trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nên trong quá trình
thi hành Bộ luật tố tụng hình sự đã thể hiện những hạn chế và bất cấp. Mặc dù
Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung ba lần vào tháng 6/1990, tháng 12/1992 và tháng
6/2000 nhưng các lần sửa đổi, bổ sung này mới chỉ tập trung vào một số nội
dung cấp bách để đáp ứng kịp thời yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm, chưă có điều kiện để sửa đổi một cách cơ bản và toàn
diện nên chưa khắc phục hết các hạn chế và bấp cập đó.
Hiện nay, cùng với công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính,
Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp và coi đây là
nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ, văn minh. Nhiều tư tưởng quan điểm định hướng về cải cách tư pháp
trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08 - NQTW ngày
02/01/20002 của Bộ chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới" đã được pháp luật hoá thành những quy định tương ứng của
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức Toàn án nhân dân năm 2002, Luật
tổ chức việc kiểm sát nhân dân năm 20002 cần tiếp tục được páhp luật hoá thàh
những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đồng thời những hạn chế bất cập
của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cần được khắc phục nhằm đảm bảo


nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, bảo đảm tốt hơn quyền tự do dân
chủ công dân, bảo đảm sự thống nhất vào đồng bộ giữa các văn bản pháp luật,
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm hiện nay. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ra đời đáp ứng những yêu cầu,
đòi hỏi đó.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trình tự, thủ tục tố
tụng ấy gắn liền với các thời hạn đựơc xác định một cách rõ ràng, đâỳ đủ và
chặt chẽ hơn so với các quy định về thời hạn trước đây.
Bộ luật có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 cho đến thời điểm nay (tháng
5/2005) mới đựơc gần một năm thực hiện. Tuy nhiên việc đánh giá thực tiên áp
dụng các quy định pháp luật về thời hạn trong tố tụng hình sự (cả trước và sau
khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) có thể rút ra được những kết quả đạt
được, những mặt chưa làm được, qua đó có biện pháp khắc phục, cũng như
vạch ra phương phướng sửa đổi bổ sung nhằm mục đích hoàn thiện Bộ luật tố
tụng hình sư.
2.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỜI HẠN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
2.1.1. Đánh giá chung về việc áp dụng các quy định của pháp luật về
thời hạn.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, tổ chức Công an đựơc thành lập
(19/8/1955), đến năm 1960, Viện kiểm sát nhân dân và Toàn án nhân dân ra
đời, cả ba cơ quan này là công cụ chuyển chính của chế độ, lập được nhiều
thành tích lớn lao trong công tác giữ vững chính quyền, ổn định trật tự an toàn
xã hội, tích cực đấu tranh phòng và chống mọi loại tội phạm, ngay cả trong thời
kỳ chến tranh ác liệt của hai cuộc kháng chiến. Những thàn tích này thể hiện
đẩy đủ kết quả đạt được trong việc áp dụng pháp luật nói chung, trong đó pháp
luật về thời hạn trong tố tụng hình sự cũng là một nội dung đáng kể.
Suốt một thời gian dài pháp luật tố tụng hình sự được triển khai thực hiện
như Luật 103 SL, Luật 005 ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và

quyết bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật thư tín của nhân dân, Sắc luật số
002 Stl ngày18/6/1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, những
trường hợp khẩn cấp…, Nghị dịnh số 301 Ttg ngày 10/7/1957 của Thủ tướng
Chính phủ quy chi tiết thi hành Luật số 103 - Sl và Sắc luật 002 - Slt, sắc luật
số 02 ngày 15/3/1976 của Chính phủ cách mạnh lâm thời Cộng hoà niềm Nam
Việt Nam về bắt giam, giữ người, khám nmhà và đồ vật được áp dụng ở vùng
mới giải phóng, cùng các văn bản pháp luật tố tụng hình sự liên quan được áp
dụng mở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và cả hai miền đất nước sau khi thống nhất
cho đến khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời.
Có thể thấy rằng các quy định về thời trong các văn bản trước khi có Bộ
luật tố tụng hình sự cơ bản được áp dụng đầy đủ, đúng đắn. Kết quả to lớn của
việc áp dụng các văn bản tố tụng hình sự trên là đạt được yêu cầu nhanh chóng,
chính xác trong xử lý tôi phạm, dân chủ xã hội chủ nghĩa được nâng cao, củng
cố niềm tin trong nhân dân vào chế độ mới. Bao năm sống kiếp nô lệ dưới sự
áp bức của phong thực dân, nhân dân ta mang nặng mặc cảm sợ hãi bị các cơ
quan pháp luật của chính quyền, luôn trong tâm trạng lo âu; vô cớ bị bắt giam
và giam giữ không biết ngay về … Từ đây "quyền tự do thân thể và quyền bất
khả xâm phạm đối với nàh ở, đồ vật và thư tín của nhân dân được tôn trọng và
bảo đảm… Việc bắt giam người phạm đến pháp luật Nhà nước, việc khám
người, nhà ở, đồ vật, thư tín phải theo thủ tục quy định" (điều 1,2 Luật gnày
24/01/1957).
Việc bắt người trong những trường hợp khẩn cấp và những trường hợp
quả tang phải tạm giữ, tạm tha cũng được quy định rõ trong Sắc luật 002 - Slt
ngày 18/6/1957.
Việc áp dụng các quy định pháp luật về thời hạn trong tố tụng hình sự
góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm, chống lạm quyền, chống tuỳ tiện,
ngăn ngừa vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động của các cơ
quan bảo vệ pháp luật. Cùng với việc áp dụng pháp luật hình sự, việc đảm bảo
đẩy đủ trình tự trong đó có việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật
về thời hạn trong tố tụng hình sự đã góp phần thực hiện nhiệm vụ gảo vệ chế độ

xã hội chủ nghĩa, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi hợp pháp của công dân, xử lý
nghiêm mịnh chính xách tội phạm, thực hiện chính sách hình sự từng thời kỳ
của Nhà nước Việt Nam dân chủ công hoà trước đây và hiện nay là Nhà nước
Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời với kết quả to lớn trên đây, các quyền dân chủ của công dân
được tông trọng, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, pháp chế xã hội chủ
nghĩa được tăng cường. Đây chính là những kết quả đạt được trong quá trình áp
dụng ác quy định pháp luật về thời hạn trong tố tụng hình sự ở thời kỳ trước khi
có Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật về thời hạn tố tụng hình sự cũng bộc lộ nhiều tồn tại phổ biến
như vi phạm các thời hạn về tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, chuẩn bị xét
xử, không còn là cá biệt.
Một bài báo nghiên cứu đăng trên báo Sài Gòn Giải phóng {18, tr, 3} cho
thấy vào thời điểm chưa ban hành Bộ luật tố tụng hình sự, tại trại tạm giam chí
Hoà (thành phố Hồ Chí Minh). Trong đợt kiểm tra các trại giam và cải tạo của
tỉnh M (cũng vào thời điểm này) đã có 531 người bị giam giữ quá hạn … cá biệt
có một người bị giam 5 ngăm 9 tháng không có căn cứ (giam oan hoàn toàn).
Ở huyện Hoa Lư - tỉnh Hà Nam Ninh (cũ) vào đầu năm 1988 qua kiểm
tra cứ 100 người bị bắt giữ thì có đến 78 người đã được trả tự do, như vậy chỉ
có 22 % người bị bắt giữ là bị giam giữ đúng đối tượng và có lẽ là còn trong
thời hạn tạm giam, tạm giữ luật định.
Tại thành phố Hồ Chí Mình, theo số liệu của Ban thanh tra Công an
thành phố Hồ Chí Minh, trong 11 cuộc thanh tra năm 1987 đã phát hiện được 33
trường hợp quá hạn tạm giữ, 05 trường hợp quá hạn tạm giam, 45 trường hợp
bắt không lệnh, 01 trường hợp gaim không lệnh, 02 trường hợp bắt không đủ
chứng cứ, 02 trường hợp mới lên rồi bắt giam. Các đoàn thanh tra cũng đã kểim
danh, kiểm diện 1293 người bị bắt phát hiện 84 trường hợp vi phạm, trong đó
43 trương hợp qúa hạn tạm giữ và 38 trường hợp qúa hạn tạm giam {21, tr,3}.
Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành, không thể phủ nhận

một tình hình không mấy sáng sủa là pháp luật tố tụng hình sự nói chung bị vi
phạm nhiều, địa phương nào cũng xảy ra, thời gian nào cũng có. Tất nhiên, tình
trạng giam giữ quá hạn, điều tra quá hạn, kéo dài thời gian chuẩn bị xét xử, vì
thế không giảm.
* Tình hình vi phạm tố tụng hình sự, giam giữ quá hạn để phục vụ công
tác điều tra, truy tố, xét xử, cũng như án tồn đọng, nhiều bản án chậm thi hành
… giảm hẳn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực, đi vào cuộc sống.
Các cơ quan tiền hành tố tụng buộc phải đổi tổ chức, phương pháp làm
việc, nề nếp và khoa học hơn, người tiến hành tố tụng phải nâng cao tinh thần
trách nhiệm, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ
chức năng của mình vì các hoạt động tố tụng hình sự ngoài chịu sự kiểm sát của
cơ quan Viện kiểm sát, còn phải chịu sự giám sát của công dân, của các tổ chức
khác… Bất kỳ một hiểu hiện xem thường pháp luật nói chung, pháp luật tố
tụng, cũng có thể bị phát hiện và chịu sự xử lý.
Địa vị pháp lý của những người tham gia tố tụng ngày càng được xác
định rõ, quyềm và lợi ích pháp của họ đựơc tôn trọng, vì Bộ luật tố tụng hình sự
được xây dựng xuất phát từ quan điểm "lấy dân alfm gốc", từ quan điểm mới về
tố tụng hình sự: có tích cực bảo vệ cái chung, xử lý triệt để tội phạm mới bảo vệ
tốt quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ngược lại, có quan tâm bảo vệ cái
riêng. mới đảm bảo cho tố tụng hình sự thực hiện được nhiệm vụ, mục đích của
mình.
Theo báo cáo của các Toà án địa phương, trong năm 1987 cả nước có 159
người vô tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong số đó có người bị kết án tới
20 năm, chung thân hoặc tử hình, sau khi vụ án bị xem xét lại ở cấp phúc thẩm
hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm thì những người này đã được minh oan. Thời gian
đó trong số những người bị bắt tạm giữ, tạm giam chỉ có khoảng 30% bị đưă ra
xét xử, số còn lại là bắt sai hoặc chuyển sang giải quyết theo ách thủ tục hành
chính, dân sự kinh tế … Số người bị bắt khẩn cấp chiếm tỷ lệ hơn 90% tổng số
nguời bị bắt, nhưng trong năm đầu tiền thi hành Bộ luật tố tụng hình sjư tỷ lệ đó
giảm xuống 21% {23,tr,38}. Rõ ràng sự ra đời của Bộ luật tố tụng hình sự đã

hạn chế tình trạng vi phạm nói trên.
Phân tích số liệu thống kê hàng năm từ năm 1989 - 1993 cho thấy:
- Tỷ lệ người bị đưa ra xét xử vơí người bị bắt, giam có chiều hướng tăng
(40,30% đến 54,13%).
- Tỷ lệ số người đưa toàn án tuyên không có tội so với tổng số người bị
dưa ra xét xử có chiều hướng giảm dần (từ 0,73 % xuốn 0,32%) {24,tr tr.39}.
Những số liệu nói trên khẳng định một điều là sau khi Bộ luật tố tụng
hình sự 1988 ra đời, việc bắt, giữ, giam người trong tố tụng hình sự cũng như
việc truy tố bị cáo ra toà được tiến hành thận trọng hơn. Tuy nhiên tình trạng vi
phạm tới các quyền không còn. Theo số liệu của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, ở nước ta hàng năm có tới 10% tổng số vụ án được khởi tố đã bị đình chỉ ở
giai đoạn điều tra và 10% bị Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ ở giai đoạn
khởi tố (ssau khi có kết luận điều tra và hồ sơ vụ án đựơc chuyển ssang Viện
kiểm sát). Năm 1994 Toàn án cấp phúc thẩm tối cao là 6 bị cáo, số lượng tưng
ứgn của năm 1995 là 47 bị cáo trong đó cấp tỉnh là 27 bị cáo và cấp phúc thẩm
tối cao là 20 bị cáo {25, tr, 39} . Theo số liệu trong báo cáo tổng kết phạm mới
bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ngước lại có quan tâm bảo
vệ cái riêng, mới đảm bảo cho tố tụng hình sự hiện được nhiệm vụ, mục đích
của mình.
Theo báo cáo của các Toà án địa phwng, trong năm 1987 cả nước có 159
người vô tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó có người bị kết án tối 20
năm, chung thân hoặc tử hình, ssau khi vụ án được xem xét lại ở cấp phúc thẩm
hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm thì những người này đã được minh oan. Thời gian
đó trong số những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ có khảng 30% bị đưa ra
xét xử, số còn lại là bắt sai hoặc chuyển sang giải quyết theo các thủ tục hành
chình, dân cư, kinh tế … Số người bị bắt khẩn cấp chiếm tỷ lệ hơn 90% tổng số
ngừơi bị bắt, nhưng trong năm đầu tiên thi hành Bộ luật tố tụng hình sự đã hạn
chế tình trạng vi phạm nói trên.
Phân tích số liệu thống kê hàng năm từ năm 1989 - 1993 cho thấy:
- Tỷ lệ số người được toà án tuyên không có tội so với tổng số người bị

đưa ra xét xử có chiều hướng giảm dần (từ 0,73 xuống 0,32%) {24,tr.39}.
Những số liệu nói trên khẳng định một điều là sau khi Bộ luật tố tụng
hình sự 1988 ra đời, việc bắt giam người trong tố tụng hình sự cũng như việc
truy tố bị cáo ra toà được tiến hành thận trọng hơn. Tuy nhiên tình rạng vi phạm
với các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
không phải không còn. Theo số liệu của Viện kiểm sát ra quyết định chỉ ở giai
đoạn khởi tố (sau khi có kết luận điều tra và hồ sơ vụ án được chuyển sang Viện
kiểm sát). Năm 1994 Toà án cấp phúc thẩm đã tuyển 40 bị cáo không phạm tội
trong các cấp tỉnh alf 34 bị cáo và các cấp phúc thẩm tối cao là 6 bị cáo, số
lượng tưng ứng của năm 1995 là 47 bị cáo trong đó cấp tỉnh là 27 bị cáo và cấp
phúc thẩm tối cao là 20 bị cáo {25, tr. 39} Theo số liệu trong báo cáo tổng kết,
của ngành Toàn án, năm 1999 các toà án nhân dân cấp tỉnh tuyên không phạm
tội đối với 48 người, các tào phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tuyên không
phạm tội đối với 6 người. Năm 2000 các Toà án nhân đân cấp tỉnh tuyên không
phạm tội đối với 53 người, các Toà phúc thẩm toàn án nhân đan tối cao cấp tỉnh
tuyên bố không phạm tội đối với 45 người. Năm 2001 các Toà án nhân đân cấp
tỉnh tuyên bố không phạm tội với 4 người và các toàn án phúc thẩm toán án
nhân dân tối cao tuyên bố không phạm tội đối với 6 người.
Những kết quả mà tố tụng hình sự đạt được từ sau ngày Bộ luật tố tụng
hình sự có hiệu lực pản ánh trong số liệu thụ lý và giải quyết án của ác cơ qan
tiến hành tố tụng, mà trọng tâm là hoạt động của các cơ quan xét xử (biểu số2).
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực từ 01/7/2004 và các toà án
đang tiếp tục triển khai sâu rộng việc đổi mới thủ tục xét hỏi và tranh luận tại
phiên toà trên cơ sở các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và theo tinh thần
cải cách tư pháp. Việc phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, quan điểm
kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để ra bản
án đúng pháp luật.
Trong công tác xét xử các vụ án hình sư, nhìn chung các Toà án đã áp
dụng đúng quy dịnh của pháp luật, chính sách hình sự của Nhà nước nên đã xét

xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật chón oan sai, không bỏ lót tội phạm.
Hâù hết các toàn án đều hoàn thành và vượt chỉ tiêu xét xử. Chất lượng xét xử
tiếp tục được bảo đảm tương đối tốt, số người bị xét xử oan cũng giảm hơn so
với trước đây (năm 2002 có 23 người bị kết tội oan, năm 2003 có 7 người bị kết
tội oan, năm 2004 có 5 người bị kết tội oan). Hâù hết các vụ án dều được đửa ra
xét xử đúng thời hạn quy định của pháp luật {4, tr.3}
* Tuiy nhiên, việc vi phạm các quy định về thời hạn trong tố tụng hình sự
vẫn còn là vấn đề phức tạp kể cả khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và gần
đây là Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và gần đây là Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 cả hiệu lực.
Theo kết luạn của Chánh án toàn án nhân dân tối cao Hôị nghị tổng kết
công tác ngành toàn án năm 2003, ngành toà án òn nhiều công việc vòn tồn
KẾT QUẢ XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ NĂM 1999 ĐẾN
NĂM 2004
Năm
Thụ lý
Giải quyết
Tỷ lệ giải quyết (%)
Số vụ Số bị
cáo
Số vụ Số bị
cáo
Số vụ
(%)
Số bị
cáo (%)
1999 54.159 83.069 50.461 77.641 93,17 93,46
2000 49.195 72.904 47.370 67.500 95,4 95
2001 48.815 71.069 46.347 66.987 94,9 94,6
2002 46.812 67.343 44.196 62.759 94 93

2003 66.083 100.777 62.633 93.562 95 93
2004 55.713 91.111 52.999 84.875 95 93
Tổng 320.777 486.272 304.006 453.324 94,7 93,2
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác cảu ngành Toà án nhân dân (từ năm
1999 đến năm 2004).
KẾT QUẢ XÉT XỬ PHÚC THẨM, GIÁM ĐỐC THẨM.
Năm
Thụ lý Giải quyết Tỷ lệ giải quyết
Số vụ Số bị
cáo
Số vụ Sốbị
cáo
Số vụ Số bị
cáo
2002
PT 14.177 21.460 12.362 17.990 87% 84%
GĐT 489 474 97%
2004
PT 15.290 25.289 13.921 22.662 91% 89%
GĐT 256 311 238 275 90% 88%
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2002, 2004 của ngành Toà án nhân dân
đọng bặc búc xúc chưa được xử lý dứt điểm, cần đặc biệt lưu ý đối với
các trường hợp phải ra lệnh tạm giam, các vụ án đã quá thời hạn luạt định, các
bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa ra quyết định thi hành án,
các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm bức xúc, kéo dài và số vụ án còn lại ở
các cấp không được để quá thời hạn xét xử do lỗi chủ quan của thẩm phán. Một
số Toà án còn chậm ra quyết dịnh tạm giam đối với một số bị cáo mà thời hạn
tạm giam đối với họ đã hết. Toàn ngành Toàn án còn hơn 200 trường hợp để
quá hạn giam. Việc phát hành bản án của một số Toà án cấp phúc thẩm còn
chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu, làm cho việc ra quyết định thi hành án hình

sự bị chậm so với quy định của pháp luật.
Thi hành án hình sự là một trong những công tác quan trọng của quá trình
tiến độ tố tụng. Quyết định về hình phạt tù cũng như các quyết định khác của
Toà án chỉ có tác dụng giáo dục riêng vào phòng ngừa chung khi được thi hành
nghiêm túc. Tuy nhiên công tac thi hành án hình sự chưa đựơc quan tâm chỉ đạo
và thực hiện nghiêm túc, tương xướng với vị trí của nó trong quá trình tiến hành
tố tụng.
Năm 1999, tồn tại chủ yếu trong công tác thi hành án hình sự là việc
nhiều Toà án không kiẹp thời giao bản án, chuyển bản án nên không kịp ra
quyết định Hồ Chí Minh có 464 bản án chưa kịp đánh máy nên không kịp ra
quyết ịnh thi hành án đúng thời hạn, tuy nhiên không thể vì lý do trên để vi
phạm quy định của pháp luật. Ngoài ra các Toà án còn vi phạm điểm b khoản 1
Điều 226 Bộ luật tố tụng hình sự 1988. Nhiều Toà án ra quyết định thi hành án
phát tu khi đang còn thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
(Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh có 96 quyết định, Toà án nhân dân tỉnh Đồng
Nao có 224 quyết định, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh có 46 quyết định), vi
phạm khoảng 3 Đêìu 226 Bộ luật tố tụng hình sự 1988: ra quyết dịnh thi hành
án quá chậm (toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai: 1004 quyết định quá 45 ngày, có
quyết định thi hành án phát tù chậm, có quyết định chậm 3 tháng: Toàn án nhân
dân tỉnh Quảng Ninh có 37 quyết định thi hành án phát tù chậm {1}
Năm 2000 còn 1.150 trường hợp chậm ra quyết định thi hành án phát tù
trong đó chậm ra quyết định tới 3 tháng là 893 người, trên 3 tháng là 257 người
và121 người Toàn án chưa ra quyết dịnh thi hành án {2}.
Năm 2001, theo báo cáo thống kê thi hành án hình sự của 41 Toà án nhân
dân cấp tỉnh trên cả nước, số người bị phạt tù nhưng chưa thi hành án là 2.982
người và Toà án nhân dân các cấp chưa ra quyết định thi hành án 875 người
(Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn có 96 trường hợp, Toà án nhân dân tỉnh Bình
Thuận có 91 trường hợp, Toàn án nhân dân tỉnh Bắc Giang có 87 trường hợp
chậm ra quyết định thi hành án hình sự){3}.
Đến năm 2003 "nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của công tác thi

hành án hình sự nên các Toà án đều cố gắng phối hợp với Cơ quan công an và
Viện kiểm sát dần đưa công tác này vào nề nếp. Nhìn chung các Toà án đa chú
trọng đến việc ra quyết định thi hành án. Theo số liệu chưa đẩy đủ, số bị cáo tại
ngoại mà Toà án đã ra quyết định thi hành nhưng chưa thi hành án là 5.314
người, chưa ra quyết định thi hành án phát là 1.905 người" {5, tr.10}
Năm 2004, Các Toà án thường xuyên phối hợp với Viện kiểm sát và
Công an rà soát, đôn đóc việc thực hiện các quyết dịnh của Toà án về thi hành
án hình sự, vì vậy đã ra quyết định thi hành án sự đối với 69.188 người bị kết án
trong tổng số 70.033 người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực páhp luật, đạt tỷ
lệ 98,8%. Số còn lại chưa ra quyết định thi hành án là 845 người, trong đó phần
lớn còn trong thời hạn luật định {12, tr.9}.
Thực trạng vi phạm các quy định pháp luật về thời hạn trong tố tụng hình
sự trước và ssau khi có Bộ luật tố tụng hình sự có thể đựơc nhóm thành các loại
như sau:
- Tạm gĩư quá hạn
- Tạm giam quá hạn
- Thời hạn điều tra va thời hạn quyết định truy tố kéo dài, kéo theo hậu
quả tạm giam quá hạn.
- Thời hạn chuẩn bị xét xử kéo dài, huỷ án để điều tra lại nhiều lần ảnh
hưởng thời hạn tại giam.
- Chậm thi hành án.
-…………
tình hình vi phạm là phổ biến, thường xuyên cả về mặt thời gian lẫn
không gian; hoặc số lượng ít, nhiều mức độ nghiêm trọng khác nhau ở địa
phương này hay địa phương khác. Thời gian trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự thì vi phạm nhiều hơn, liên tục hơn, ít có điều kiện giám sát, ngăn chăn hơn
so với khi Bộ luật tố tụng hình sjư 1988 ra đơì. Từ khi Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 được triển khai, thời gian thi hành mới được 09 tháng, chưa có điều
kiện để tổng kết việc áp dụng các quy định về thời hạn. Song có thể thấy, cùng
với sự phát triển của kinh tế - xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự

trong đó có các quy định pháp luật về thời hạn của các cơ quan tiến hành tố
tung, người tiến hành tố tụng và cả những người tham tha tố tụng đã đựơc năng
lên môt bước, là nhân tố bảo đảm cho việc thực hiện nghiên chỉnh các quy định
pháp luật tố tụng sự trong thời gian tới.
2.1.2. Nguyên nhân vi phạm các quy định về thời hạn.
Đi tìm nguyên nhân vi phạm các quy định về thời hạn cũng là một thực tế
hết sức khó khăn, vì những lẽ tế nhị, các cơ quan tiến hành tố tụng không công
khai đưa ra những đánh giá có khả năng nhận hết trách nhiệm về phần mình
trong việc vi phạm, hoặc có đánh giá cung trong một phạm vi thông tin hep.
Thực tế do bảo đảm mục đích quan hệ phối hợp tố tụng, các cơ quan tiến hành
tố tụng tránh "đụng chạm", tránh phê phán lẫn nhau.
Tuy nhiên có thể thấy tình hình vi phạm các quy định của pháp luật về
thời hạn trong tố tụng hình sự do các nguyên nhân sau đây.
2.1.2.1. Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành hiện chưa hoàn thiện
Chỉ một thời gian ngắn sau khi có hiệu lực, Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 đã bộc lộ thiếu sót trong các quy định và chế định, buộc phải sửa đổi bổ
sung 3 lần (các năm 1990, 1992 và 2000). Trên cơ sở tổng kết gần 15 năm thi
hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, đồng thời nghiên cứu, tham khảo có
chọn lọc kinh nghiệm về tố tụng hình sự các nước, bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 đã sửa đổi, bổ sung những điều khoản cụ thể. Riêng về nội dung thời hạn
trong tố tụng hình sự, nhiều quy định được sửa đổi, một số quy định được bổ
sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm trong giai đoạn hiện nay . Tuy nhiên, vẫn còn những quy định kjhông phù
hợp với thực tiễn, hoặc không gắn với một thời hạn xác định, làm cho người áp
dụng pháp luật trở lên lúng túng, tạo điều kiện cho việc vận dụng chủ quan, vi
phạm các quy định về thời hạn.
Pháp luật tố tụng hình sự hiện nàh chưa hoàn thiện là đúng với quy luật
khác, vì trước những biến đổi to lớn và nhanh chóng của đất nước, trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, pháp luật chung, pháp luật tố tụng hình
sự nói riêng cần phải có những thay đổi cho phù hợp là cả một quá trình.

Nhưng xem xét thực trạng vi phạm pháp luật, chính bản thân pháp luật tố
tung hình sự những quy định thiếu sót, không phù hợp với thực tiễn lại là
nguyên nhân dẫn đến vi phạm, nhất là vi phạm những quy định pháp luật về
thời hạn
Phân tích trong Bộ luật tố tụng hiện hành, dù mới được sửa đổi, bổ sung
cơ bản toàn diện,bắt đầu có hiệu lực thi hành từ 1 tháng 7 năm 20004, vẫn có
thể tìm thấy những khiếm khuyết nhất đinh.
* Quy định về thời hạn không phù hợp với thực tiễn.
- Quy định về tạm giữ và thời hạn tạm giữ tại điều 86 và điều 87 Bộ luật
tố tụng hình sự, có nhiều điểm không phù hợp với thực tiễn:
Trường hợp lệnh bắt khẩn cấp của người chỉ đồn biên phòng ở hải đảo và
biên giới; của người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi
sân bay, bến cảng, thì thực tế không thể áp dụng được quy định tại điều 86,
khoản 3 bộ luật tố tụng hình sự: "trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định
tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp…", vì
lệnh bắt khẩn cấp thực hiện ở hải đảo, biên giới xa xôi hoặc hành trình của máy
bay, tàu biển có khi kéo dài hàng tháng mặc nhiên phải tạm giữ người bị bắt
quá hạn 3 ngày, thậm chí là hết 9 ngày mà không có một sự phê chuẩn gia hạn
tạm giữ nào, và cùng không một hoạt động điều tra ban đầu nào được tiến hành
đối với người bị bắt, vì những người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp, lệnh
tạm giữ trong trường hợp cụ thể này không có thẩm quyền điều tra.
- Do quy định các tính thời hạn tạm giữ không được quá 3 ngày (đêm) kể
từ khi cơ quan điều tra nhận được kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu
thú, người bị bắt theo quyết định truy nã và có thể gia hạn 2 lần, mỗi lần 3 ngày,
thực tế chỉ áp dụng được đối với việc tạm giữ theo quyết định của cơ quan
điều tra, không thể áp dụng cho những trường hợp khác mà người có quyền ra
quyết định tạm giữ không phải là người thuộc cơ quan điều tra (như người chỉ
huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; chỉ huy đồn biên
phòng ở hải đảo và biên giới; người không thuộc cơ quan điều tra ra quyết định

tạm giữ gia hạn giữ thực tế là vi phạm quy định thời hạn tạm giữ, không thể
tránh khỏi).
* Quy định không thể xác định thời hạn cu thể
- Điều 243 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự quy định việc Toà án cấp
phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc huy bỏ biện pháp ngăn chặn: Đối với bị cao
đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét
cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra lệnh tạm giam
cho đến khi kết thúc phiên toà".
- Điều 287 đoạn 2 Bộ luật tố tụng hình sự: Trong trường hợp huỷ bản án
hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc để xét xử lý va xét thấy việc
tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng giám đốc thẩm ra lệnh tạm
giam cho đến khi Viện kiểm sóat hoặc Toà án thụ lý lại vụ án.
Những quy định trên không xác định thời hạn cụ thể "ra lệnh tạm giam
cho đến khi kết thúc phiên toà " "hoạc cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án
thụ lý lại vụ án" là bao nhiêu này. Điều này dẫn đến sự lạm dụng trong giải
thích và áp dụng pháp luật, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi hợp pháp của bị
cáo.
2.1.2.2. Nguyên nhân thuộc về con người trong bộ áy cơ quan tiến hành
tố tụng, cố ý hoặc vô ý làm sai các quy định về thời hạn trong tố tụng hình sự.

×