Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Môn lịch sử nhà nước và pháp luật việt nam so sánh hệ thống ngũ hình trong bộ quốc triều hình luật và bộ hoàng việt luật lệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.4 KB, 7 trang )

MỤC LỤC
A.

A. MỞ ĐẦU.

Các văn bản pháp luật cổ đại Việt Nam thực sự là những kho báu chứa đựng những giá trị
văn minh của đất nước và con người Việt Nam. Trong đó Quốc triều hình luật và Hoàng Việt
Luật Lệ là những bộ luật quan trọng nhất thuộc pháp luật cổ nước ta. Những kho báu đó đã
và đang được khai thác từ những mức độ khác nhau, việc nghiên cứu tìm hiểu chúng luôn là
điều cần thiết nhằm góp phần chắt lọc tinh hoa và giá trị của nền văn minh pháp lý cổ để có
thể vận dụng vào quá trình hoàn thiện và áp dụng pháp luật ở nước ta trong xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay. Việc nghiên cứu chế định hình phạt với hệ thống “ngũ hình” của 2 bộ luật
này có ý nghĩa to lớn, là kinh nghiệm quý báu cho công tác lập pháp ngày nay. Bài viết dười
đây xin làm rõ đề tài: “ So sánh hệ thống ngũ hình trong bộ Quốc triều hình luật và bộ
Hoàng Việt luật lệ”.
B. NỘI DUNG.
1. Khái quát về Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ.
1


Quốc triều hình luật – bộ luật “được coi là quan trọng nhất”, “chính thống nhất của
triều Lê” và trong lịch sử pháp luật Việt Nam nó được đánh giá là “một thành tựu có giá trị
đặc biệt, không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật của các triều đại trước đó
mà còn đối với cả bộ luật được biên soạn đầu thế kí XIX: Hoàng Việt Luật lệ”.
Theo Viện Sử học Việt Nam, Quốc Triều hình luật (QTHL) được khởi thảo từ thời Lê
Thái Tổ, sau đó tiếp tục được bổ sung dưới các triều Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Tới
thời Lê Thánh Tông thì bộ luật được hoàn chỉnh. Các ý kiến này chủ yếu dựa vào Đại Việt
sử ký toàn thư với ghi chép là năm Thái Hòa thứ 7 (1449), vua Lê Nhân Tông đã bổ sung
thêm vào bộ hình luật chương điền sản gồm 14 điều. Ngoài ra, qua các sử sách khác và qua
các lần in khắc ván (với những điểm khác nhau về nội dung của các văn bản), các bổ sung và
tên gọi các đơn vị hành chính ghi trong bộ luật… có thể nhận thấy bộ luật này được soạn


thảo, bổ sung, hiệu đính qua nhiều đời vua triều Lê. Trong số 722 điều của Quốc triều Hình
luật thì 200 điều phỏng theo luật nhà Đường, 17 điều phỏng theo luật nhà Minh. Ngoài ra có
178 điều chung đề tài nhưng Quốc triều Hình luật đưa ra một giải pháp khác các triều đại
Trung Hoa. Đáng chú ý nhất là có 328 điều không tương ứng với điều luật nào của Tàu cả.
Quốc triều hình luật trong cuốn sách A.341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển (5 quyển
có 2 chương/quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào các
chương và điều thì Quốc triều hình luật còn có các đồ biểu quy định về các hạng để tang và
tang phục, kích thước và các hình cụ (roi, trượng, gông, dây sắt v.v).
Gia Long sau khi lên ngôi để có cơ sở về luật pháp, cho soạn bộ luật mới có tên gọi
là Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là "luật Gia Long) bao gồm 22 quyển và 398 điều sau đó
vua Gia Long cho ban hành chính thức vào năm 1815. Có ý kiến cho rằng bộ luật này gần
như lấy nguyên mẫu là luật nhà Thanh nhưng ý kiến khác lại cho rằng bộ luật này củng cố
các phong tục, tập quán cổ truyền tốt đẹp của dân tộc cùng với nhiều định chế rất tiến bộ.
Hoàng Việt luật lệ được sử dụng trong suốt thời nhà Nguyễn rồi dùng tiếp ở Trung Kỳ trong
thời Thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam
Hoàng Việt luật lệ (HVLL) được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật
Hồng Đức (tức Quốc triều Hình luật, là bộ luật của nhà Lê), nhưng chủ yếu là mượn bộ luật
của nhà Thanh, dù đã được chỉnh sửa và cập nhật cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam lúc bấy giờ. Trong 398 điều thì 397 là chép lại Đại Thanh luật lệ. Chỉ có một điều là rút
từ Quốc triều Hình luật.
2. So sánh hệ thống ngũ hình trong Quốc triều hình luật và Hoàng Việt Luật Lệ.

“Ngũ hình” là hệ thống hình phạt chính của cả 2 bộ luật. đây là nhóm chế tài có nguồn gốc
từ pháp luật cổ Trung Hoa, đã được các nhà làm luật đại Việt cận dụng từ thời Lý Trần đầu
tiên, kể từ đó các hình phạt này được ứng dụng trong hệ thống ứng dụng trong hệ thống pháp
luật và được quy định cụ thể trong các bộ luật than văn kể cả triều Lê và Triều Nguyễn.
2.1.sự giống nhau.
Trước hết, có thể thấy Hệ thống ngũ hình của hai bộ luật QTHL và HVLL đều gồm 5
hình phạt là: xuy (đánh bằng roi), trượng hình (đánh bằng gậy), đồ hình (tù khổ sai có thời
hạn), lưu hình (đi đày), tử hình (tội chết), do được hình trong thời kì phong kiến Việt Nam

nên chúng có đặc điểm của hình phạt trong hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam nói
chung:
2


-Các hình phạt thể hiện tính dã man tàn bạo: không chỉ đầy đọa về thể xác mà còn về tinh
thần. Điển hình như hình phạt “Lưu”. Mục đích của hình phạt lưu mang tính chất trừng phạt
cả về thân xác (làm công việc nặng nhọc ở những nơi môi trường khắc nghiệt), cả về tinh
thần(xa quê hương, họ hàng đẩy họ ra khỏi quê cha đất tổ…), hay hình phạt tử hình với hình
thức lăng trì (xẻo chậm, róc thịt cho chết dần) khiến phạm nhân chết từ từ đau đớn khiến
người chứng kiến kinh hãi, không những vậy còn đánh vào đời sống tâm linh (một cái chết
không toàn thây là một điều hết sức kiêng kị nó sẽ gây nỗi đau đớn, xót xa cho người thân).
-Hình phạt được áp dụng với mọi loại vi phạm pháp luật không chỉ là chế tài hình sự mà
còn áp dụng với cả vi phạm pháp luật dân sự, hành chính hay hôn nhân gia đình... Vì vậy
hình phạt này có tính phổ biến.
-Thêm vào đó là mức hình phạt thường được ấn định một cách cố định chi tiết trong hầu
hết các điều khoản thậm chí còn cố định bậc của hình phạt. mỗi hình phạt thì được quy định
trong một điều khoản cụ thể, một tội phạm chỉ có 1 khung hình phạt không có nhiều khung
hình phạt như pháp luật xã hội chủ nghĩa và có quy định mức tối thiểu và mức tối đa
Thứ hai, Cả hai bộ luật đều bị ảnh hưởng bởi hệ thống ngũ hình Trung Quốc.
Hệ thống ngũ hình của hai bộ luật này đều được quy định rõ ràng tại Điều 1, điều căn bản ,
mở đầu của khung hình phạt cụ thể: Về nội dung hình phạt cũng có một số điểm giống nhau:
+Xuy: cả hai bộ luật đều có 5 bậc (khung) từ 10 dến 50 roi, mỗi bậc tăng lên 10 roi bẳng roi
mây. Mục đích đều làm cho họ cảm thấy xấu hổ, đau đớn mà bỏ ý định phạm tội lại. Phạm vi
áp dụng: cho cả tội phạm nam và nữ.
+Trượng: Cả 2 bộ luật dều có 5 bậc (từ 60 trượng dến 100 trượng). Đều có sự khoan hồng
đối với phạm nhân nữ hơn so với phạm nhân nam.
+Đồ: Đều áp dụng cho cả phạm nhân nam và nữ nhưng vẫn có sự phân biệt công viêc.
+Lưu: Có kèm theo trượng. Và đều phân ra thành 3 bậc (nhưng nội dung của chúng lại
khác nhau)

+Tử: Đều có hình phạt giảo và trảm, đuợc áp dụng độc lập.
2.2.Sự khác nhau.
Tuy hệ thống ngũ hình của cả hai bộ luật đều chịu ảnh hưởng từ hệ thống ngũ hình
Trung quốc nhưng mức độ ảnh hưởng khác nhau Do đó 2 hệ thống ngũ hình của 2 bộ luật có
nhứng điểm khác nhau cơ bản
-về hình phạt xuy:
Trong QTHL: Có thể được áp dụng độc lập nhưng cũng có thể áp dụng phạt xuy kèm theo
phạt tiền, biếm (Điều 295, điều 374, điều 375, điều 376…) và lưu đồ (xem Điều 1 phần III,
IV)
Trong HVLL: Không có gì khác nhiều so với QTHL, nhưng có thêm một số phần cụ thể
hơn. Trong biểu đồ hình cụ (để trừng phạt) có quy định “Dùng dây mây nhỏ dài 0,2 thước
0,7 tấc, hay 0,6 phân trở xuống 0,5 phân trở lên về bề tròn. Roi không quá nặng”. Phụ nữ
phạm tội bị xử bằng roi, trượng không được chuộc tội, nếu họ bị xử roi mà họ chịu, nhưng
nếu bị xử từ 60 đến 100 trượng thì người ta có thể đổi ra roi. Tội xuy có thể là chính hình để
trừng trị các tội nhẹ. VD: Điều 7 quyển 5 quy định “Phàm làm trễ hạn văn thư của quan một
ngày, lại điển bị phạt 10 roi, 3 ngày thì thêm một bực tội, mút là 100 roi”. Quan thủ lãnh các
nơi được giảm một bực (quan thủ lãnh là đầu mục của lại điển). Phàm nói thủ lĩnh thì quan
chính không bị phạm tội.
-về hình phạt trượng:
Ở QTHL , khung hình trượng có thể áp dụng độc lập (VD: Điều 574, điều 640, điều 649,
điều 692…) nhưng cũng có thể là áp dụng kèm theo các tội lưu, tội đồ, tội biếm (VD: Điều
3


351, điều 356, điều 360, điều 378…). Ở khung hình này thì nữ phạm nhân đuợc khoan hồng
nhiều hơn, dù phạm bất cứ tội nào thì nữ phạm nhân đều được thay trượng bằng xuy.
Trong HVLL Luật quy định 2 roi = 1 trượng. Ai phạm tội nặng hơn 50 roi thì người ta
bỏ roi mà đánh bằng trượng. Theo lệ 1 (đoạn cuối) trong điều 1 quy định, nếu nữ phạm nhân
bị tội trượng cũng đuợc thay thế bằng tội roi, tuy nhiên sau khi đã chấp nhận nguyên tắc tổng
quát này thì lệ 8 trong điều 1 và lệ 1 trong điều 19 đã dự liệu một giải pháp khác. Cụ thể là:

Đối với đàn bà phạm tội thông gian, tội bất hiếu hoặc tội trộm cắp sẽ chịu tội như luật định,
đối với các phạm nhân khác bất luận là hình phạt nào, nếu đàn bà có tài sản thì cho chuộc tội
theo giá tiền đã định cho các vợ quan chức. Điều 19, quyển 2 còn dữ liệu đánh trượng đối
với nữ phạm nhân, nếu là tội thông gian thì bắt lột áo, tội khác thì cho được mặc áo mỏng.
Tuy nhiên, nữ phạm nhân được miễn thích chữ. Nếu đàn bà phạm tội đồ hoặc lưu thì đánh
hẳn 100 trượng còn dư tội thì cho chuộc.
Như vậy có thể thấy luật Gia Long có phần khắt khe hơn với phụ nữ, đây là điềm hạn
chế so với QTHL.
-về hình phạt đồ:
QTHL: Ở triều đại này thì hình phat đồ được chia thành ba bậc, tùy theo công việc nặng
nhọc mà phạm nhân phải làm, mỗi bậc lại phân biệt công việc của đàn ông với đàn bà. Hình
phạt được quy định áp dụng kèm theo xuy, trượng hoặc thích chữ, đeo xiềng.
Bậc thứ nhất: là dịch đinh (với nam) và dịch phụ (với nữ ) đều phải làm việc nặng
nhọc.
Bậc thứ hai: (nặng hơn) gồm tượng phường binh: quét dọn chuồng voi, đánh 80
trượng và thích vào cổ 2 chữ.
(đối với đàn ông) và xuy thất tỳ: nấu cơm nuôi quân, đánh 50 roi và thích vào cổ 2 chữ (đối
với đàn bà):
Bậc thứ ba: (nặng nhất) chủng điền binh (dành cho đàn ông) làm lính lao động ở đồn
điền nhà nước, đồng thời bị kèm đánh 80 trượng thích vào cổ 4 chữ, bắt đeo xiềng và thung
thất tỳ (dành cho phụ nữ) phải xay thóc giã gạo trong các kho thóc thuế của nhà nước, đánh
50 roi và thích vào cổ 4 chữ.
Trong HVLL, người bị phạm tội bị gửi về thúc quản tại trấn nơi họ đồng thời bị áp
dụng hình phạt này phải làm những công việc nặng nhọc với thời hạn từ 01 năm dến 03 năm.
Hình đồ được chia làm 5 bậc, mỗi bậc tăng thêm 10 trượng và nửa năm. Đồng thời tuỳ theo
thời hạn bị áp dụng là ngắn hay dài hạn mà mỗi bậc lại áp dụng thêm một phụ hình (hình
phạt bổ sung) với mức phạt từ 60 trượng đến 100 trượng. Cụ thể:
Bậc 1: 01 năm và 60 trượng
Bậc 2: 1,5 năm và 70 trượng
Bậc 3: 02 năm và 80 trượng

Bậc 4: 2,5 năm và 90 trượng
Bậc 5: 03 năm và 100 trượng
Đến năm Thành Thái thứ 18 (1906) thì 5 bậc hình đồ nêu trên đuợc đổi thành hình
phạt khổ sai với mức phạt từ 01 đến 05 năm, đồng thời bỏ hình phạt này bổ sung áp dụng
kèm theo.Trong thời gian chấp hành hình phạt này phạm nhân được hưởng chế đọ bán tự do.
Việc áp dụng hình phạt này được coi là một sự tiến bộ hơn hẳn so với hình phạt khổ sai 5
bậc. Các phạm nhân không bị giam giữ tại các trạm giam sau khi làm việc, do đó tránh cho
họ cảnh lao tù và giúp họ có điều kiện hoàn lương vì họ vẫn được tiếp xúc với xã hội. Ưu
điểm của hình phạt trong bộ luật này là có hạn định về thời gian, người phạm tội còn có thời
cơ được trở về. Còn có “phép nhuận đồ” tức là giảm chế tài đối với tội nhân mà mắc những
4


tội không quá nghiêm trọng, không phải thập ác ( ba bậc lưu = 4 năm đồ, hai bậc tử giảo
chảm = 5 năm đồ).
-về hình phạt lưu:
Trong QTHL: Gồm 3 bậc:
Lưu cận châu (châu gần) đày đi làm việc nặng ở Nghệ An.
Lưu ngoại châu (châu ngoài) lưu đến Bố Chánh (Quảng Bình).
Lưu viễn châu (châu xa): đày lên Cao Bằng.
Về thời hạn thụ hình của hình phạt lưu, trên danh nghĩa là lưu đày vĩnh viễn nhung thực
tế, sau một thời gian sống tại nơi lưu đày phạm nhân có thể được ân xá nếu có hạnh kiểm tốt
và khai khẩn 3 – 5 mẫu đất. Mục đích hình phạt mang tính trừng phạt về cả thể xác (làm việc
nặng nhọc tại nơi có môi trường sống khắc nghiệt) lẫn cả về tinh thần (xa quê hương). Hình
phạt vừa mang tính giáo dục phạm nhân thông qua lao động vừa góp phần phát triển kinh tế
đất nước
Trong HVLL: Gồm 3 bậc: + 2000 dặm với 100 trượng
+ 2500 dặm với 100 trượng
+ 3000 dặm với 100 trượng
Hình phạt áp dụng cho phạm nhân tội dù nặng nhưng vẫn chưa đáng phải chết. Họ bị

lưu đày vĩnh viễn nơi xa, cả đời không được trở về cố hương. Hơn nữa, Không giống như bộ
QTHL, Hình phạt này Lưu đến đâu thì nơi đó phải nhận tội phạm, tức là tất cả các tỉnh thành
phải nhận (trừ Huế).
-về hình phạt tử:
Trong QTHL: Hình phạt tử gồm 3 bậc:
+ Thắt cổ (giảo), chém đầu (trảm)
+ Chém biêu đầu (khiêu)
+ Lăng trì (dân gian thường gọi là tùng xẻo), tội nhân bị xẻo từng miếng thịt rồi bị mổ
bụng, moi ruột cho đến chết, sau đó bị cắt rời chân tay và bị gãy hết xương.
Trong HVLL: Là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của HVLL.
Hình phạt chỉ gồm 2 bậc: giảo (thắt cổ) và trảm (chém đầu).
Hoàng Việt luật lệ còn quy định thêm phép “Nhuận Tử” trong một số điều luật quy
định về tội phạm (điều 223, điều 253, điều 254, điều 256, điều 257) bao gồm: Lăng trì (xẻo
chậm), Trảm khiêu (chém bêu đầu), Lục thi (chặt xác chết)
Tuy nhiên, trong thực tế các hình thức nhuận tử chỉ mang tính chất thị uy nhiều hơn là ứng
dụng thực tiễn.
Từ phân tích trên có thể thấy QTHL là bộ luật mang tính nhân đạo, tính dân tộc đậm nét
hơn so với HVLL. Một đặc điểm dễ nhận ra sự khác biệt giữa hai bộ luật trên đó là việc giải
thích pháp luật. Đối với bộ QTHL thì việc giải thích pháp luật là không có. Còn bộ HVLL có
tiến bộ hơn là vấn đề đó được giải thích rất cụ thể về nguồn gốc TN – XH và lịch sử của
hình phạt, hơn thế còn rõ rằng về ý nghĩa và giá trị của hình phạt.
3. Nguyên nhân của sự giống và khác nhau trong hệ thống ngũ hình của QTHL và HVLL.
Ta nhận thấy hai bộ luật này có những nét giống nhau cơ bản vì cùng chịu ảnh hưởng của
hệ thống ngũ hình ảnh hưởng từ Trung Quốc. Sự giống nhau này chính là sự kế thừa lẫn
nhau của hai bộ luật này, nó vẫn mang những nét đặc sắc của pháp luật phong kiến. Nguyên
nhân của sự giống nhau đó ngoài chịu sự ảnh hưởng của pháp luật Trung quốc là hơn hết là
nó phục vụ quyền lợi cho nhà nước phong kiến là công cụ quan trọng, chịu ảnh hưởng của
hệ tư tưởng phong kiến.
5



Nguyên nhân có sự khác nhau: Ngoài ảnh hưởng của pháp luật Trung Quốc không giống
nhau ở mỗi thời kì lịch sử, cụ thể thì QTHL chịu ảnh hưởng phần lớn của thời Đường còn
HVLL chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật nhà Thanh thì yếu tố cũng quan trọng ảnh hưởng
đến quá trình xây dựng 2 bộ luật có sự khác nhau là điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của 2
thời kì nhà Lê sơ và nhà Nguyễn.
Triều Lê được thành lập là kết quả của công cuộc kháng chiến cứu quốc lâu dài, gian
khổ suốt 10 năm và có tính nhân dân sâu rộng nhất từ năm 938 đến lúc này. Trong con mắt
của đương thời cũng như hậu thế triều đại Lê sơ thành lập chính danh hơn, vẻ vang hơn, hào
quang của cuộc kháng chiến chống Minh lâu dài và anh dũng vẻ vang dân tộc luôn luôn bao
trùm lấp lánh triều đình này. Do đó nhà Lê luôn được quần chúng nhân dân hết lòng ủng hộ,
đồng thời triều Lê không ngừng tăng cường triển khai nhiều chủ trương biện pháp về kinh tế
văn hóa nâng cao đời sống nhân dân, đất nước dần đi vào ổn định đến đời Lê Thánh Tông có
thể gọi là “hoàng kim”. Có thể thấy điều đó đã tác động tích cực đến việc xây dựng bộ luật:
nhà nước quan tâm tới xây dựng hoàn thiện luật pháp, tăng cường tính dân tộc trong luật
tránh sự sao chép luật Trung Quốc và bỏ đi những điều không phù hợp phong tục tập quán
nước ta.
Năm 1802 đánh dấu sự ra đời nhà Nguyễn, trong thời kì đầu, vua Gia Long đã góp
công đầu trong thống nhất đất nước nhưng cũng phải đảm đương nhiều công việc trọng đại
mà cũng phải thừa hưởng di sản nội chiến kéo dài. Bởi theo quan niệm nhân dân nhà
Nguyễn thành lập là không chính danh do sựa vào Pháp để thiết lập, lại lật đổ triều đại Tây
Sơn, triều đại có 2 chiến công lớn với đất nước là đánh đuổi quân Xiêm ở Đáng Trong và
quét sạch bọn quân Thanh xâm lượng ở miền bắc. vì thế vị thế của Nhà Nguyễn chưa cao
trong long nhân dân. Suốt thời gian chiến tranh mọi công việc trong nước gần như đình đốn,
riêng pháp luật gần như bị quên lãng hoàn toàn. Sau khi lên ngôi vua Gia Long phải giải
quyết nhiều vấn đề hệ trọng mà pháp luật là 1 trong những vấn đề ông quan tâm hàng đầu.
triều đình cho xây dựng bộ luật nhưng hầu hết là sao chéo của luật nhà Thanh, tính dân tộc
mờ nhạt, chưa hướng đến phản ánh tình hình kinh tế, xã hội đất nước.
C. KẾT LUẬN
Rõ ràng, hệ thống ngũ hình thời kì phong kiến nước ta là một công cụ, chế tài vô cùng

quan trọng phục vụ cho giai cấp thống trị. Có thể thấy rằng hệ thống ngũ hình là một biện
pháp chế tài hà khắc, mặc dù có sự khác nhau về hệ thống ngũ hình của hai bộ luật này
nhung về cơ bản đó là sự kế thừa giữa hai bộ luật này.Qua đó, ta nhận thấy được cái mối
quan hệ cơ bản của hai bộ luật này thông qua hệ thống ngũ hình tiêu biểu. bản chất nhà
nước, bản chất của giai cấp thống trị phong kiến tất cả đều vì quyền lợi và pháp luật chính là
công cụ để cho họ thể hiện ra và Ngũ hình vẫn là một hệ thống điển hình của thời kì phong
kiến nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.
2.
3.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt
Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp
luật Việt Nam, Nxb. ĐHQG, 2008.
Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lí, Hà Nội, 1991.
6


4.
5.
6.
7.
8.
9.

Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế kỉ XV - XVIII, Nxb. KHXH, Hà Nội,
1994.

Hoàng Việt luật lệ, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1994.
Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên). Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
TS Lê Thị Sơn, Quốc Triều hình luật, lịch sử hình thành và nội dung giá trị,
NXB Khó học xã hội, Hà Nội 2004.
TS Trương Quang Vinh, tội phạm và hình phạt trong Hoàng Việt luật lệ, NXB
tư pháp, Hà Nội 2008.
Một số trang web:
Wikipedia.org
Lichsuvietnam.vn.

7



×