Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân dân tỉnh sơn la ở giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.03 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam,
UBND (UBND) tỉnh là một bộ phận quan trọng trong bộ máy quản lý nhà
nước ở địa phương, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tất cả các
ngành, lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Qua mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước mà
Quốc hội tiến hành sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp, quyền hạn, nhiệm vụ của
UBND cấp tỉnh được Hiến pháp ghi nhận là một bộ phận quan trọng trong Bộ
máy quản lý nhà nước ở địa phương, do đó vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt
động của UBND tỉnh là tất yếu.
Thực tiễn ở Việt Nam chúng ta việc tổ chức và hoạt động của UBND
tỉnh có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu trên cả phương diện khoa học cũng như
thực tiễn để qua đó phát hiện ra những thiếu sót, hạn chế từ đó đề xuất những
biện pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh là góp phần cải cách
nền hành chính nhà nước và công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo tinh
thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) của
Đảng nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng
đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả
công việc của Nhà nước… nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân
dân (HĐND) và UBND các cấp. Đề cao trách nhiệm và kỷ luật của HĐND và
UBND trong việc chấp hành pháp luật và các nghị quyết của Quốc hội, Chính
phủ và cơ quan hành chính cấp trên.
Riêng đối với tỉnh Sơn La (địa phương mà đề tài nghiên cứu) thì thực
trạng, đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh đặt ra mang tính cấp bách
bởi: công tác quản lý nhà nước của UBND tỉnh ngoài những thành tựu đã đạt
được, còn tồn tại nhiều yếu kém cần khắc phục như: trật tự an toàn xã hội còn

1



nhiều bất cập (tội phạm về ma túy còn nhiều), phát triển kinh tế ở các vùng
còn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, cải cách hành chính chưa đạt hiệu
quả cao…
Với những tồn tại đó trong tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh Sơn
La là một trong những nguyên nhân làm cho Sơn La gặp khó khăn trong việc
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Do đó, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh, qua đó
phát hiện ra hạn chế, tồn tại, bất cập để từ đó đề xuất những phương hướng,
giải pháp đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh là hết sức
cần thiết nhằm góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề
tài "Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn la ở giai đoạn
hiện nay" làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa
học và bài viết liên quan đến vấn đề tổ chức và hoạt động của UBND các cấp,
trong đó đáng chú ý là một số công trình sau: " đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà
nước trong giai đoạn hiện nay", PGS.TS Bùi Xuân Đức, Nxb Tư pháp, 2007;
"Cải cách hành chính địa phương lý luận và thực tiễn", Tô Tử Hạ, Nguyễn
Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức, Nxb Chính trị quốc gia, 1998; " Mô hình bộ máy
hành chính nhà nước ở địa phương trên thế giới", GS.TS Nguyễn Đăng Dung,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2000; "Tổ chức chính quyền nhà nước ở
địa phương (lịch sử và hiện tại)", GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Đồng Nai
1997; "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân", Lê Minh Thông, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/1999. Nhưng hầu
hết các các công trình nghiên cứu, đề tài, bài viết đều ở phạm vi rộng, chưa đi
sâu vào một tỉnh, một địa phương cụ thể.

2



Phạm vi nghiên cứu mà đề tài đặt ra chỉ giới hạn ở những vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan tới:
* Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, cải cách
hành chính.
* Đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh và khi nghiên cứu đề
tài này, các yếu tố như vị trí địa lý, dân cư, phong tục tập quán… là những
yếu tố ảnh hưởng rất lớn. Vì vậy, theo tôi, những nội dung này là quan trọng
và cũng đang là những vấn đề câp thiết, cần được nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và
hoạt động của UBND tỉnh Sơn La cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến tổ
chức và hoạt động của nó trong quản lý nhà nước tại địa phương, từ đó kiến
nghị đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của UBND tỉnh Sơn La.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh Sơn La
- Nêu phương hướng và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh Sơn La trong tình hình hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và lý luận Nhà nước và pháp luật.
Qua nghiên cứu những tài liệu thu thập được luận văn này sử dụng phương

3



pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh và một số phương pháp khác.
5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Theo tôi, đây là đề tài chuyên khảo mà tôi nghiên cứu dựa trên những
hiểu biết về thi thức khoa học pháp lý, trình bày, phân tích và đánh giá có hệ
thống về tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh Sơn La.
Lần đầu tiên, trên cơ sở lý luận về tổ chức chính quyền địa phương,
phân tích một cách có hệ thống thực trạng, tổ chức và hoạt động của UBND
tỉnh Sơn La, những khó khăn và nguyên nhân của những hạn chế này.
Đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của UBND tỉnh Sơn La.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo và vận
dụng từng bước vào thực hiện tổ chức và hoạt động trong điều kiện cụ thể của
UBND tỉnh Sơn La hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hoạt động của Ủy
ban nhân dân tỉnh Sơn La
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân tỉnh
Sơn La.
Chương 3: Phương hướng nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La ở giai đoạn hiện nay.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

1.1. Vị trí, tính chất của Ủy ban nhân dân trong hệ thống chính
quyền nhà nước tỉnh Sơn La
1.1.1. Khái niệm Ủy ban nhân dân tỉnh
Để tổ chức quyền lực nhà nước tại địa phương, Nhà nước ta cũng như
mọi quốc gia khác đều phân chia lãnh thổ ra các đơn vị hành chính và tổ chức
cơ quan quản lý ở đó để bảo đảm mối liên hệ giữa Trung ương và địa phương,
thực hiện chính sách của Nhà nước tại địa phương và quản lý địa phương.
Trên thế giới có nhiều cách tổ chức cơ quan quản lý địa phương và
cũng có nhiều tên gọi khác nhau về các cơ quan đó. Ngay trong một nước
cũng có nhiều mô hình tổ chức cơ quan quản lý khác nhau ở đơn vị hành
chính khác nhau cùng tồn tại. Về cơ bản có những mô hình sau đây:
- Cơ quan chính quyền địa phương là một bộ máy hành chính đứng
đầu là một quan chức chủ đạo (Tỉnh trưởng, Quận trưởng) được bổ nhiệm từ
trên. Cơ quan mang tính cá nhân này (vì toàn bộ quyền hạn tập trung vào
trong tay người đứng đầu, các bộ phận khác nhau trong bộ máy ấy chỉ là thừa
hành và giúp việc) có toàn quyền thực hiện mọi công việc quản lý hành chính
nhà nước ở địa phương, thực hiện việc "cai trị". Mô hình này tồn tại phổ biến
ở thời kỳ phong kiến trước đây ở một số đơn vị hành chính gọi là "trung gian"
ở một số nước châu Âu, châu Mỹ và châu Á,...
- Chính quyền địa phương là cơ quan hành chính do cấp trên bổ nhiệm
(hoặc được bầu ra) kết hợp với một Hội đồng tự quản do dân cư bầu ra. Ở đây
vai trò chủ đạo thuộc về cơ quan hành chính, còn Hội đồng tự quản chỉ đóng
vai trò tư vấn, nằm dưới sự giám hộ của cơ quan hành chính và chỉ được bàn

5


định những vấn đề thuần túy địa phương không được tham gia vào những vấn

đề chung của quốc gia trừ các vấn đề có tính chất chính trị. Hình thức quản lý
này phổ biến ở các đơn vị hành chính "trung gian" các nước tư bản (nhất là ở
Pháp trước cải cách hành chính năm 1982).
- Mô hình quản lý địa phương bởi một Ủy ban hành chính do dân cư
hay các Hội đồng tự quản cấp dưới trực tiếp bầu ra. Ủy ban cũng có người
đứng đầu song hoạt động chủ yếu mang tính tập thể. Ủy ban quyết định tập
thể các vấn đề quản lý địa phương, các thành viên phân công phụ trách từng
mảng công việc. Hình thức này phổ biến ở đơn vị hành chính cấp huyện, quận
ở Anh, Mỹ, Bắc Âu và cả ở cấp huyện của ta trước năm 1960
- Mô hình chính quyền địa phương là một Hội đồng - cơ quan đại diện
quyền tự quản hoặc quyền lực nhà nước - do nhân dân bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân và chính quyền cấp trên. Hội đồng là cơ quan có toàn
quyền quyết định và thực hiện các vấn đề địa phương theo qui định của pháp
luật. Hội đồng có cơ quan chấp hành - hành chính của mình dưới dạng Ủy ban
chấp hành hay Ủy ban hành chính hoặc cơ quan cá nhân như Thị trưởng, Chủ
tịch. Mô hình này phổ biến ở các đơn vị hành chính "tự quản" ở các nước tư bản
và ở tất cả các cấp đơn vị hành chính các nước XHCN trong đó có nước ta.
Các hình thức tổ chức cơ quan quản lý địa phương trên đây mặc dù có
tên gọi khác nhau, cơ cấu và địa vị pháp lý của mỗi bộ phận không giống
nhau nhưng tựu chung lại đều mang một tính chất là cơ quan chính quyền
Nhà nước ở địa phương, được lập ra để thực hiện các chức năng quản lý nhà
nước, thực hiện quyền lực Nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Ngay mô hình
chính quyền kiểu "tự quản địa phương" ở nhiều nước, tuy thường được đặt
ngoài hệ thống Nhà nước nhưng chúng vẫn là hình thức thực hiện quyền lực
Nhà nước.
Về nguyên tắc, cơ quan chính quyền địa phương dù là một bộ phận
hay nhiều bộ phận (một cơ quan hay nhiều cơ quan) song là một cơ cấu thống

6



nhất, trong đó quyền hạn thực sự trong việc quản lý địa phương thuộc về một
cơ quan - gọi là "cơ quan quyết định". Cơ quan này là Hội đồng hay Ủy ban
hoặc Quận trưởng, Tỉnh trưởng phụ thuộc vào tính chất của từng đơn vị hành
chính và nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước của các chế độ Nhà nước. Các
cơ quan khác còn lại - cơ quan chấp hành - thừa hành hoặc tư vấn - giám sát
được lập ra để thực hiện phần công việc được phân giao hoặc để giám sát. ở
đây không có việc vận dụng chế độ phân quyền giữa các cơ quan chính quyền
địa phương (tức là chia chính quyền địa phương ra hai cơ quan độc lập nhau,
chế ước lẫn nhau giống như cách tổ chức các cơ quan nhà nước cấp cao ở
Trung ương) như một số người quan niệm.
Theo pháp luật hiện hành thì cơ quan chính quyền địa phương nước ta
ở tất cả các cấp đơn vị hành chính là Hội đồng nhân dân và UBND với các bộ
phận cấu thành khác như Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội
đồng nhân dân, các sở, phòng, ban của UBND...
Như vậy, căn cứ vào Điều 123 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và Điều 2
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 ta thấy UBND tỉnh Sơn La nói riêng và
UBND cấp tỉnh ở nước ta nói chung là cơ quan chấp hành của HĐND tỉnh,
cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, do HĐND tỉnh bầu ra, chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
1.1.2. Tính chất và các mối quan hệ của Ủy ban nhân dân tỉnh với
các cơ quan khác ở tỉnh
Trong các cấp chính quyền địa phương, chính quyền cấp tỉnh chiếm vị
trí rất quan trọng, là các chính quyền sau cấp Trung ương và là cấp chính
quyền đầu tiên trong hệ thống chính quyền địa phương. UBND tỉnh là một bộ
phận của chính quyền cấp tỉnh. UBND tỉnh là cơ quan chấp hành của HĐND
tỉnh và cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương, thực hiện hoạt động
mang tính chất chấp hành - điều hành để quản lý các lĩnh vực khác nhau trong


7


địa bàn tỉnh. UBND tỉnh là một tổ chức có cơ cấu thống nhất, nằm trong hệ
thống hành chính thống nhất có tỉnh thứ bậc từ Trung ương đến địa phương và
được thành lập theo Hiến định.
Các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương có một vị trí quan trọng
trong bộ máy Nhà nước ta, là một bộ phận hợp thành không thể tách rời của
bộ máy Nhà nước. Vì vậy, xác định vị trí của UBND cấp tỉnh là một bước
quan trọng trong việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của cơ quan này.
Nói đến vị trí của UBND tỉnh tức là nói đến mối quan hệ của UBND
tỉnh trong hệ thống các cơ quan nhà nước, trong hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, UBND tỉnh có một vị trí quan trọng, Vị trí
pháp lý của UBND tỉnh được Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003 xác định là cơ quan chấp hành của HĐND cùng cấp, là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương (Điều 123 Hiến pháp và Điều 2 Luật
tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Như vậy, trong quan hệ với HĐND
tỉnh, UBND tỉnh là cơ quan do HĐND cùng cấp bầu ra, về nguyên tắc nó có
thể bị HĐND tỉnh bãi nhiệm, miễn nhiệm. Với tư cách là cơ quan chấp hành
của HĐND tỉnh, UBND tỉnh chịu trách nhiệm tổ chứ, chỉ đạo thực hiện các
nghị quyết của HĐND trong phạm vi toàn tỉnh, chịu trách nhiệm trước HĐND,
thực hiện chế độ báo cáo trước HĐND, chịu trách nhiệm trước HĐND, thực
hiện chế độ báo cáo trước HĐND, mọi hoạt động của UBND đều nằm dưới
sự kiểm tra, giám sát của HĐND, mọi hoạt động của UBND đều nằm dưới sự
kiểm tra, giám sát của HĐND. Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, xét trong mối quan hệ với toàn bộ hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước, UBND cấp tỉnh là cấp thứ 2 sau cấp Trung ương, chịu trách
nhiệm trước Chính phủ và cơ quan nhà nước cấp trên trong việc tổ chức, chỉ
đạo thực hiện Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản khác của Chính phủ,
các bộ, ngành của Trung ương tại địa phương mình. Trên phương diện quản lý

nhà nước, UBND tỉnh chịu sự đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra của Chính phủ, các
bộ, ngành ở Trung ương và đồng thời chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước

8


Chính phủ và cơ quan nhà nước cấp trên về tình hình quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực. Thực chất hoạt động quản lý địa phương của UBND tỉnh là
những hoạt động chấp hành và điều hành.
Từ đó có thể thấy rằng, cũng như UBND các cấp, UBND tỉnh là một cơ
quan được tổ chức theo nguyên tắc "song trùng trực thuộc". Tính song trùng
thể hiện ở chỗ UBND tỉnh do HĐND cùng cấp bầu ra, chịu trách nhiệm trước
HĐND. Mặt khác, UBND tỉnh chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước
cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp.
Trong Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, nhiệm vụ và quyền
hạn của UBND được quy định từ Điều 82 đến Điều 96. Với tư cách là cơ
quan hành chính ở địa phương, hay nói cách khác là đại diện của Chính phủ ở
địa phương, UBND thi hành việc quản lý nhà nước ở địa phương theo Hiến
pháp luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên
trong các lĩnh vực:
Phát triển kinh tế, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi và
đất đai, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, quản
lý và phát triển đô thị, thương mại, dịch vụ và du lịch.
Giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, y tế và xã
hội, khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường.
Đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, thực hiện
chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, thi hành pháp luật
Tóm lại, UBND cấp tỉnh là cơ quan thẩm quyền chung, thực hiện
quản lý toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh. UBND tỉnh
có thể hình dung như một "Chính phủ thu nhỏ", gắn với đơn vị hành chínhlãnh thổ cấp tỉnh. Hoạt động quản lý của UBND tỉnh phải tuân thủ theo những

quy định của những văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên,
Nghị quyết của HĐND tỉnh và bảo đảm việc thi hành pháp luật và các văn
bản, Nghị quyết đó ở địa phương. Hoạt động của UBND tỉnh trong phạm vi

9


nhiệm vụ quyền hạn của mình mang tính chất tác nghiệp cụ thể và nằm trong
mối quan hệ chặt chẽ, tiếp nối hoạt động quản lý của Chính phủ của cơ quan
nhà nước cấp trên và HĐND tỉnh, đảm bảo cho hệ thống hành chính thông
suốt, có hiệu lực và hiệu quả
1.2. Chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam và Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 thì UBND tỉnh Sơn La là cơ
quan do HĐND tỉnh bầu ra và cơ quan chấp hành của HĐND tỉnh, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành trước HĐND
tỉnh và các cơ quan trung ương. UBND tỉnh Sơn La chịu trách nhiệm chấp
hành Hiến pháp, Pháp luật, các văn bản của Nhà nước cấp trên và Nghị quyết
của HĐND tỉnh nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng và thực hiện các chính sách khác
trên địa bàn.
UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa xuất phát từ lợi
ích chung của quốc gia, vừa xuất phát từ lợi ích riêng của các địa phương. Do
vậy, UBND tỉnh đóng vai trò rất quan trọng trong việc cụ thể hóa, chi tiết hóa
các quy định của Nhà nước, đồng thời căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa
phương để hoạch định phương hướng phát triển cho từng lĩnh vực, từng thời
kỳ. Nắm bắt tình hình này, kể từ khi khu tự trị Tây Bắc giải thể (12/1975) tỉnh
Sơn La không ngừng đổi mới quan điểm, nội dung, phương pháp tiếp cận các

vấn đề quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở xác định những lợi thế, so sánh
những khó khăn, hạn chế, những thách thức mà tỉnh cần vượt qua, những cơ
hội thuận lợi mà tỉnh cần nắm bắt, tranh thủ nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng,
phát triển kinh tế của tỉnh, giải quyết các vấn đề xã hội, dảm bảo sự phát triển
bền vững, hòa nhập vào xu hướng chung của vùng, cả nước và khu vực.

10


* Trong lĩnh vực kinh tế, UBND tỉnh Sơn La thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ như:
- Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, phát triển
ngành, phát triển đô thị và nông thôn trong phạm vi toàn tỉnh, xây dựng kế
hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trình với
HĐND tỉnh thông qua để cấp có thẩm quyền phê duyêt.
- Lập dự toán thu chi ngân sách nhà nước trên địa bàn, lập dự toán thu,
chi ngân sách tỉnh, lập phương án phân bổ dự toán của cấp tỉnh trình HĐND
tỉnh quyết định, lập dự toán điều chỉnh ngân sách tỉnh trong trường hợp cần
thiết, quyết toán ngân sách tỉnh trình HĐND tỉnh xem xét theo quy định của
pháp luật, tổ chức thực hiện ngân sách; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần
vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
- Chỉ đạo, kiểm tra cơ quan thuế và cơ quan được Nhà nước giao
nhiệm vụ thu ngân sách tại địa phương theo quy định của pháp luật, xây dựng
đề án thu phí, lệ phí, các khoản đóng góp của nhân dân… trình HĐND và các
cấp có thẩm quyền xem xét và phê duyệt.
Trong lĩnh vực nông, ngư nghiệp, thủy lợi và đất đai, UBND tỉnh Sơn
La chỉ đạo và kiểm tra thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp,
ngư nghiệp, thủy lợi trên địa bàn; các chương trình khuyến nông, khuyến
ngư v.v...
Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, UBND tỉnh Sơn La

xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp;
tổ chức quản lý đối với các doanh nghiệp trên địa bàn theo thẩm quyền; tổ
chức thực hiện các chương trình, dự án phát triển công nghiệp; tổ chức thực
hiện việc bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác ở địa phương v.v...
Trong lĩnh vực giao thông, vận tải, UBND tỉnh Sơn La chỉ đạo, kiểm
tra việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giao
thông; tổ chức quản lý các công trình giao thông đô thị, đường bộ, đường

11


thủy; tổ chức thực hiện việc kiểm tra, giám định kỹ thuật an toàn phương tiện
cơ giới; tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra, bảo vệ công trình giao thông v.v...
Trong lĩnh vực xây dựng, quản lí và phát triển đô thị, UBND tỉnh Sơn
La tổ chức việc lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền các quy hoạch
xây dựng vùng, xây dựng đô thị trên địa bàn; quản lý đầu tư, khai thác sử dụng
các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị; xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển
vật liệu xây dựng, quản lý việc khai thác và sản xuất kinh doanh v.v...
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, UBND tỉnh Sơn La lập quy hoạch,
kế hoạch phát triển mạng lưới thương mại, du lịch, dịch vụ; cấp, thu hồi giấy
phép kinh doanh; quy định các quy tắc về an toàn và vệ sinh trong hoạt động
thương mại v.v...
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo,văn hóa, thông tin, thể dục thể
thao, y tế và xã hội, UBND tỉnh Sơn La thực hiện quản lý nhà nước đối với
các loại hình trường, lớp các hoạt động văn hóa, các đơn vị y tế trực thuộc;
chỉ đạo và kiểm tra việc tổ chức thực hiện các biện pháp bảo vệ sức khỏe
nhân dân v.v...
Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường, UBND
tỉnh Sơn La chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, kế hoạch phát
triển khoa học, công nghệ và bảo vệ mô trường, quản lý sử dụng đất đai, rừng

núi, sông hồ v.v...
Trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, UBND
tỉnh Sơn La bảo đảm an ninh chính trị, an toàn xã hội; thực hiện các biện pháp
xây dựng lực lượng vũ trang; chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại
chỗ v.v...
Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo,
UBND tỉnh Sơn La tổ chức chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện pháp luật và
chính sách dân tộc, tôn giáo; bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc; xem
xét giải quyết các vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng ở địa phương. Tổ chức thực

12


hiện các chính sách dân tộc, bảo đảm thực hiện bình đẳng dân tộc, đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, UBND tỉnh đã kết hợp với các tổ chức,
chính phủ nước ngoài để xây dựng và thực hiện các dự án hỗ trợ phát triển
kinh tế cho các vùng cao, các dân tộc thiểu số có nhiều khó khăn.
Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, UBND tỉnh Sơn La tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, tổ chức tuyên truyền,
giáo dục pháp luật, ở địa phương; tổ chức và chỉ đạo thực hiện nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cùng cấp và các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư
của các cơ quan nhà nước cấp trên; chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ tài
sản của cơ quan, tổ chức, bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tiếp dân, trực tiếp xét, giải quyết và
chỉ đạo các ngành, các cấp thuộc quyền mình, xét và giải quyết các khiếu nại,
tố cáo và kiến nghị của nhân dân; tổ chức công tác thanh tra Nhà nước; chỉ
đạo công tác thi hành án, quản lý hộ tịch; thực hiện công tác tư pháp khác.
Trong việc xây dựng chính quyền, UBND tỉnh Sơn La chỉ đạo thực
hiện công tác bầu cử; quy định tổ chức bộ máy, quyền hạn của các cơ quan
chuyên môn; cho phép lập hội, quản lý hướng dẫn kiểm tra việc thành lập và

hoạt động của hội theo quy định của pháp luật; quản lý biên chế, tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý cho cán bộ công chức; xây dựng đề án thành
lập, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính v.v...
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, UBND tỉnh
Sơn La ra các quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện những văn bản đó;
đình chỉ việc thi hành sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của
các ngành thuộc quyền mình và của UBND cấp dưới; đình chỉ việc thi hành
những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp
đồng thời đề nghị HĐNF cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.
* Vai trò quan trọng của UBND tỉnh Sơn La còn được thể hiện ở
nhiệm vụ xây dựng chính quyền địa phương không chỉ đối với cấp tỉnh mà
còn đối với cấp huyện và cấp xã.

13


1.2.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân tỉnh
Sơn La
UBND tỉnh Sơn La là cơ quan chịu trách nhiệm đối với đời sống kinh
tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, một thiết chế của chính quyền địa phương tỉnh
cấu thành trong bộ máy nhà nước, UBND tỉnh Sơn La tổ chức và hoạt động
tuân theo những nguyên tắc chung được quy định trong Hiến pháp, luật tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế
XHCN. Đồng thời, nhằm đảm bảo phù hợp tính năng động, linh hoạt của địa
phương, UBND tỉnh còn được tổ chức và hoạt động trên những nguyên tắc
riêng, từng bước thúc đẩy hoạt động UBND tỉnh được hiệu quả, nâng cao đời
sống kinh tế, chính trị của nhân dân địa phương.
Trên cơ sở quy định hiến pháp, luật tổ chức HĐND và UBND (2003),
UBND tỉnh Sơn La xây dựng và ban hành "quy chế làm việc" của UBND

tỉnh. Quy chế làm việc tạo dựng nên một số nguyên tắc:
Thứ nhất: Nguyên tắc đề cao trách nhiệm của Chủ tịch UBND tỉnh và
các thành viên UBND tỉnh
- Đứng đầu UBND tỉnh Sơn La là Chủ tịch UBND tỉnh. Chủ tịch UBND
tỉnh phân công 04 Phó chủ tịch UBND tỉnh một số lĩnh vực công tác và theo
dõi hoạt động của một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh và 06 ủy
viên phụ trách trách mảng công tác theo quy định của quy chế.
Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm đối với các quyết định, các chỉ
thị của mình khi giải quyết, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật
quy định (Điều 127 luật tổ chức HĐND và UBND 2003). Ngoài ra Chủ tịch
UBND tỉnh phải chịu trách nhiệm với tư cách là người đứng đầu UBND tỉnh
đối với hoạt động của các thành viên.
Chủ tịch UBND tỉnh còn chịu trách nhiệm về các quyết định của các
Phó Chủ tịch và các ủy viên UBND tỉnh trong khi thực hiện các nhiệm vụ
được Chủ tịch UBND tỉnh phân công trước HĐND tỉnh.

14


Chủ tịch UBND tỉnh cho ý kiến và chịu tách nhiệm đối với các ý kiến
trong trường hợp các phó Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của mình nhưng cơ chế chính sách chưa được UBND tỉnh quy
định hoặc những vấn đề quan trọng khác, những việc vượt quá thẩm quyền và
khả năng giải quyết quả Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn.
Chủ tịch UBND tỉnh trực tiếp chỉ đạo để sớm giải quyết những vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền của thủ trưởng các cơ quan chuyên môn, Chủ tịch
UBND cấp huyện, thị xã nhưng Chủ tịch UBND tỉnh thấy cần thiết giải quyết.
- Các phó Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết công việc hàng ngày thuộc
thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh, trước HĐND tỉnh đối với
lĩnh vực được phân công công tác và theo dõi hoạt động của các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
- Các thành viên thực hiện nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước UBND
tỉnh về những việc được phân công.
Thứ hai: Nguyên tắc phân công rành mạch trong công tác
Mục tiêu của chính quyền tỉnh Sơn La là nâng cao đời sống của nhân
dân địa phương, góp phần giữ vững mục tiêu kinh tế - xã hội chung của cả
nước. Phân công công việc để thực hiện mục tiêu chung là yêu cầu của tính
khoa học trong quản lý nhà nước nói chung, quản lý ở địa phương nói riêng.
Do vậy, UBND tỉnh Sơn La tất yếu thực hiện phân công công tác giữa Chủ
tịch UBND tỉnh với các thành viên, giữa Phó Chủ tịch UBND tỉnh, giữa các
thành viên UBND tỉnh. Hiệu quả sẽ đạt cao nhất khi phân công vừa đảm bảo
rành mạch, vừa là tiền đề thực hiện phối hợp khi giải quyết nhiệm vụ quyền
hạn của UBND tỉnh Sơn La.
Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm chung đối với nhiệm vụ quyền
hạn của mình, nhiệm vụ quyền hạn đã phân công cho các phó Chủ tịch UBND
tỉnh, các ủy viên và cùng thành viên UBND tỉnh chịu trách nhiệm tập thể
trước HĐND tỉnh và Chính phủ.

15


Tuy nhiên, dù chịu trách nhiệm chung nhưng Chỉ tịch UBND tỉnh không
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND tỉnh một cách ôm đồm, mà có sự phân
công lĩnh vực công tác và theo dõi hoạt động của một số cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh cho các Phó Chủ tịch và các ủy viên. Các Phó Chủ tịch UBND
tỉnh và các ủy viên UBND tỉnh được sử dụng quyền hạn, thay mặt Chủ tịch UBND
khi giải quyết những công việc thuộc lĩnh vực được phân công. Phân công được
thực hiện dựa vào trách nhiệm của người được phân công và người phân công.
Thứ ba: Nguyên tắc phối hợp công tác giữa các thành viên UBND
tỉnh Sơn La.

Phân công là nhu cầu của tính khoa học trong quản lý nhà nước của
UBND tỉnh, nhưng phân công không phải là tối ưu. Có những vấn đề giải
quyết thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh nhưng đòi hỏi phải có sự phối hợp,
đóng góp sức lực, trí tuệ của cá nhân thành viên UBND tỉnh, Thủ tướng các
cơ quan chuyên môn, ý kiến đóng góp của các ngành có liên quan.
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh có trách
nhiệm giải quyết công việc được phân công; trường hợp vấn đề có liên quan
đến lĩnh vực của các Phó Chủ tịch UBND tỉnh khác thì trực tiếp phối hợp với
Phó Chủ tịch UBND để giải quyết. Đối với những vấn đề có ý kiến khác nhau
thì báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh quyết định.
Đối với một số vấn đề liên quan đến nhiều ngành, nhiều huyện, thị xã
thì Chủ tịch UBND tỉnh có thể thành lập các tổ tư vấn (trong đó có sự tham
gia của thủ tướng một số cơ quan chuyên môn do Chủ tịch UBND tỉnh chỉ
định) để tham mưu cho Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết.
Đối với những vấn đề liên quan đến chức năng của ngành, lĩnh vực
mình quản lý, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn tham gia, có nghĩa vụ trả
lời ý kiến với thủ trưởng các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND tỉnh,
Chủ tịch UBND các huyện, thị xã để xử lý các vấn đề thuộc thẩm quyền của
cơ quan đó khi được hỏi ý kiến.

16


Thứ tư: Nguyên tắc linh hoạt.
Phân công, phối hợp trong tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh là
mặt của hoạt động quản lý; nhưng hoạt động quản lý của UBND tỉnh là một
mặt của hoạt động quản lý; nhưng hoạt động quản lý của UBND tỉnh Sơn La
còn phải gắn liền và bám sát thực tiễn của tỉnh Sơn La. Do vậy, tổ chức và
hoạt động của UBND tỉnh Sơn La còn phải đảm bảo tính linh hoạt.
Nguyên tắc linh hoạt trong tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh Sơn La

được nhận thức và quy định trong "quy chế làm việc" của UBND tỉnh như sau:
Nhằm đảm bảo tính thường xuyên trong xử lý, giải quyết công việc
của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh phân công một số lĩnh vực công tác và
theo dõi hoạt động của một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh cho các
Phó Chủ tịch UBND tỉnh ngoài nhiệm vụ chung được quy định cho các Phó
Chủ tịch còn được thực hiện nhiệm vụ riêng sau:
Lãnh đạo và sử dụng bộ máy văn phòng UBND tỉnh để thường xuyên
duy trì các hoạt động chung của UBND tỉnh.
Giải quyết các công việc của Chủ tịch UBND tỉnh và công việc của phó
Chủ tịch UBND tỉnh khác khi Chủ tịch, phó Chủ tịch đó đi công tác vắng mặt.
Linh hoạt do tầm quan trọng của công việc: những vấn đề thuộc thẩm
quyền của Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn, UBND huyện, thị xã nhưng
do tầm quan trọng của công việc, Chủ tịch UBND tỉnh thấy cần phải trực tiếp
chỉ đạo để giải quyết dứt điểm.
Linh hoạt do vấn đề đột xuất hoặc thiên tai, dịch bệnh: Những vấn đề
đột xuất hoặc mới phát sinh, các sự cố nghiêm trọng như thiên tai, dịch bệnh,
tai nạn vượt quá khả năng giải quyết của thủ trưởng các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh hoặc UBND huyện, thị xã.
Trường hợp khẩn cấp: đối với những vấn đề UBND tỉnh cần phải giải
quyết gấp, nhưng không có điều kiện tổ chức họp UBND tỉnh, Chủ tịch UBND
tỉnh chỉ đạo văn phòng UBND tỉnh gửi toàn bộ hồ sơ về vấn đề đó và phiếu

17


lấy ý kiến đến từng thành viên UBND tỉnh để lấy ý kiến đóng góp. Kết quả có
quá nữa tổng số thành viên UBND tỉnh tán thành thì Văn phòng UBND trình
Chủ tịch UBND quyết định và báo cáo UBND tỉnh tại phiên họp gần nhất.
Linh hoạt gắn liền tính trách nhiệm: Đối với những vấn đề vượt qua
thẩm quyền và khả năng giải quyết của mình, Thủ trưởng các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND tỉnh phải chủ động làm việc với cơ quan liên quan để hoàn
chỉnh hồ sơ trình Chủ tịch UBND xem xét quyết định.
Trường hợp các kiến nghị của huyện, thị xã thuộc quyền giải quyết
của các cơ quan thuộc UBND tỉnh nhưng liên quân đến nhiều ngành thì Chủ
tịch UBND huyện, thị xã đề nghị một cơ quan có liên quan đến nội dung
chính trong bản kiến nghị làm đầu mối giải quyết. Cơ quan được UBND
huyện, thị xã đề nghị làm đầu mối giải quyết trách nhiệm phối hợp với các cơ
quan có liên quan không thống nhất giải quyết thì cơ quan đầu mối báo cáo rõ
các ý kiến khác nhau để Chủ tịch UBND tỉnh xem xét quyết định; đồng thời
báo cáo cho địa phương biết.
Nguyên tắc là những cơ sở, nền tảng của các tổ chức và hoạt động của
UBND tỉnh Sơn La. Tổ chức và hoạt động của UBND tỉnh phải đảm bảo
những nguyên tắc này thể hiện trong tổ chức và xuyên suốt quá trình hoạt
động của UBND tỉnh Sơn La.
1.3. Sơ lược về lịch sủ hình thành, phát triển của Ủy ban nhân
tỉnh Sơn La từ khi thành lập đến nay
Lịch sử hình thành và phát triển của UBND tỉnh Sơn La gắn liền với
lịch sử cách mạng nước ta. Sự ra đời và phát triển của UBND tỉnh Sơn La
được chia làm các giai đoạn sau đây.
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1954
Sau khi bầu cử Quốc hội, Sơn La tiến hành củng cố một bước hệ thống
chính quyền các cấp ở địa phương theo các Sắc lệnh số 01-SL ngày 23-1-1946

18


của Chủ tịch Chính phủ về việc sửa đổi Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ chức
HĐND và Ủy ban hành chính và Sắc lệnh số 22/A-SL ngày 18-2-1946 của
Chủ tịch Chính phủ về sửa đổi điều thứ 65 Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ
chức HĐND và Ủy ban hành chính. UBND cách mạng lâm thời được chuyển

đổi thành Ủy ban hành chính các cấp. Thể lệ bầu cử, cơ cấu tổ chức bộ máy
và hoạt động của Ủy ban hành chính các cấp được thực hiện và thành lập trên
tinh thần tuân thủ các quy định trong các Sắc lệnh trên.
Tháng 11-1946, Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp năm 1946, trong
đó quy định HĐND được thành lập ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã, do phổ
thông đầu phiếu và trực tiếp bầu ra; HĐND tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử
ra Ủy ban hành chính. Từ năm 1946, Ủy ban hành chính được tổ chức và hoạt
động theo Sắc lệnh số 63-SL ngày 22-11-1945 của Chủ tịch Chính phủ về
việc tổ chức HĐND và Ủy ban hành chính và theo Hiến pháp năm 1946. Do
những điều kiện khó khăn và đặc điểm cụ thể của địa phương nên Sơn La
chưa thực hiện được bầu cử HĐND tỉnh và Hội đồng nhân dân xã theo chủ
trương của Đảng và Chính phủ, trong giai đoạn này quyền làm chủ của nhân
dân tiếp tục thực hiện hóa thông qua Ủy ban hành chính và Mặt trận Việt
Minh các cấp.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, do phải tập trung cao độ cho
kháng chiến, Chính phủ ra Sắc lệnh tạm hoãn các cuộc tuyển cử vào HĐND
và Ủy ban hành chính các cấp. Tiếp đó, trong hai năm 1947-1948, Chính phủ
ra nhiều văn bản để điều chỉnh tổ chức chính quyền nhân dân cho phù hợp với
hoàn cảnh kháng chiến: Sắc lệnh số 91-SL ngày 01-10-1947 của Chủ tịch
Chính phủ hợp nhất Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chính từ cấp tỉnh trở
xuống thành Ủy ban kháng chiến kiêm hành chính. Thông tư số 14-TC ngày
11-12-1948, Thông tư số 20-TC ngày 31-12-1948 của Hội đồng Quốc phòng
tối cao đã quy định và hướng dẫn những điều chỉnh trong bộ máy chính quyền
địa phương. Cuối năm 1947, đầu năm 1948, các Ủy ban kháng chiến hành
chính được hình thành ở các địa bàn quan trọng của tỉnh Sơn La.

19


Trong khi chưa lập được HĐND các cấp, tỉnh Sơn La chú trọng phát

huy vai trò tự chủ của đồng bào các dân tộc trong việc thiết lập hệ thống
chính quyền, nhất là tại các cơ sở. Vai trò của trưởng bản được đề cao. Chính
quyền địa phương thông qua các trưởng bản để thực hiện các chính sách của
Đảng và Nhà nước tại các vùng đồng bào dân tộc như vận động nhân dân đẩy
mạnh sản xuất, tiết kiệm, đóng thuế nông nghiệp đầy đủ, kịp thời…. Hệ thống
quần chúng như Hội nông dân, thanh niên, phụ nữ được xây dựng và không
ngừng củng cố, phát triển nhiều hình thức hoạt động, trở thành nhân tố gắn
kết đồng bào và là bề đỡ cho phong trào cách mạng của nhân dân trong tỉnh.
1.3.2. Giai đoạn từ 1954 đến 1975
Ngày 7-5-1954, Khu tự trị Thái - Mèo được thành lập, trụ sở tại huyện
Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Theo chủ trương này, cấp khu là đơn vị hành chính
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khu tự trị Thái - Mèo không có cấp
tỉnh mà tổ chức theo mô hình hệ thống hành chính 3 cấp: Khu, Châu, xã. Toàn
khu có 16 châu: Mường La, Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu,
Phù Yên, Văn Chấn, Than Uyên, Quỳnh Nhai, Phong Thổ, Sình Hồ, Mường
Tè, Mường Lay, Tuần Giáo, Điện Biên và Sông Mã.
Từ ngày 7 đến ngày 12-5-1955, kỳ họp lần thứ nhất, khóa I HĐND
Khu tự trị Thái - Mèo đã họp tại Thuận Châu - Sơn La. Tổng số đại biểu là
785 người. Đại biểu HĐND khu gồm có 139 người, trong đó có 135 đại biểu
chính thức do nhân dân bầu ra và 4 đại biểu được mời là Lê Trung Đình, Trần
Quyết, Điêu Chính Chân, Nguyễn Văn Đức. Tại Đại hội, các đại biểu làm
việc ở tổ, thảo luận Sắc lệnh của Chính phủ về chính sách thành lập Khu tự trị
và nhiệm vụ xây dựng Khu tự trị. Với sự ra đời của Khu tự trị được tổ chức
theo cơ cấu chính quyền 3 cấp: Khu, châu, xã nên tỉnh Sơn La giải thể. Các
châu của Sơn La dưới sự điều hành trực tiếp của Ban chấp hành Đảng bộ Khu
và Ủy ban hành chính Khu tự trị. Trên địa bàn Sơn La có các châu trực thuộc
Khu tự trị Thái - Mèo là Mộc Châu, Phù Yên, Mường La, Yên Châu, Thuận
Châu, Sông Mã, Mai Sơn.

20



Từ năm 1955 đến năm 1959, HĐND khóa I Khu tự trị đã tiến hành
6 kỳ hợp để giải quyết những vấn đề quan trọng về kinh tế, xã hội trong khu.
Trong đó quan trọng nhất là HĐND Khu tự trị đã bầu Ủy ban hành chính Khu
tự trị, Ủy ban hành chính khu tự trị có nhiệm vụ xây dựng và trình HĐND xem
xét và thông qua các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của Khu…
Căn cứ vào kiến nghị của HĐND Khu tự trị Thái - Mèo, tại kỳ họp thứ
năm, Quốc Hội khóa II (họp, ngày 27-10-1962) đã phê chuẩn cho Khu tự trị
Thái - Mèo lập 3 tỉnh: Lai Châu, Sơn La và Nghĩa lộ; quyết định đổi tên Khu
tự trị Thái - Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc đồng thời các Châu đổi thành
huyện. Trong thời gian đầu, để đảm bảo công tác lãnh đạo của các tỉnh mới
không bị gián đoạn. Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập ở mỗi tỉnh một
Ủy ban lâm thời phụ trách hành chính. Đây là một chủ trương sáng suốt, tạo
điều kiện và cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các dân tộc trong tỉnh Sơn La quyết
tâm xây dựng quê hương theo đường lối cách mạng của Đảng.
Trong điều kiện chưa thành lập HĐND các cấp, cần xây dựng, củng cố
và nâng cao năng lực hoạt động của Ủy ban hành chính, đặc biệt là Mặt trận
Việt Minh các cấp; phải xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng, Mặt trận
và chính quyền, qua đó phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Ngày 24-12-1962, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định thành lập Ủy ban
hành chính lâm thời tỉnh Sơn La. Ngày 9-6-1963, Sơn La đã tiến hành bầu cử
HĐND tỉnh khóa I. Từ ngày 25 đến ngày 27-7-1963, HĐND tỉnh khóa I họp
kỳ họp thứ nhất. Kỳ họp thứ nhất tiến hành bầu cử Ủy ban hành chính của
tỉnh, bầu tòa án nhân dân tỉnh, bầu thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân tỉnh.
Trong 12 năm (1963-1975), trải qua các khóa I, II, III, IV và V của
HĐND tỉnh Sơn La, Ủy ban hành chính với vai trò là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân tỉnh, chịu trách nhiệm thi hành mọi nghị quyết, quyết định
của HĐND, đồng thời có trách nhiệm quản lý công tác hành chính của địa
phương dưới sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính khu, sự lãnh đạo thống nhất


21


của Hội đồng Chính phủ. Ủy ban hành chính tỉnh đã có nhiều cố gắng lãnh
đạo chiến đấu, sắn sàng chiếu đấu và giữ gìn trận tự an ninh địa phương.
Những thành tích mà Ủy ban hành chính tỉnh đạt được trong quá trình
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Sơn La
những năm 1963-1975 đã tạo điều kiện quan trọng để HĐND tỉnh phát huy
hiệu quả vai trò chức năng, nhiệm vụ trong thời kỳ cách mạng mới.
1.3.3. Giai đoạn từ 1976 đến nay
Ngày 25-4-1976, cùng với cử tri cả nước, cử tri Sơn La phấn khởi
tham gia cuộc bầu cử Quốc hội khóa VI, Quốc Hội nước Việt Nam thống
nhất. Ngày 15-5-1977, cử tri toàn tỉnh hăng hái tham gia bầu cử HĐND các
cấp, cử tri đi bầu cử HĐND tỉnh khóa VI (nhiệm kỳ 1977-1981) đạt tỷ lệ
99,35%. Từ ngày 29-6 đến 02-7-1977, HĐND tỉnh khóa VI họp kỳ họp thứ
nhất, HĐND đã tiến hành bầu UBND tỉnh mới gồm 15 đồng chí, trong đó có 1
Chủ tịch, 4 Phó chủ tịch, 1 ủy viên thư ký và 9 ủy viên.
Ngày 26-4-1981, cử tri Sơn la nô nức đi bầu cử đại Quốc hội và
HĐND tỉnh Sơn La khóa VII (nhiệm kỳ 1981-1985). Cuộc bầu cử được tiến
hành dân chủ, đúng pháp luật, lựa chọn được những đại biểu đủ tiêu chuẩn
vào Quốc hội, HĐND tỉnh. Từ ngày 9-6 đến ngày 13-6-1981, HĐND tỉnh tiến
hành kỳ họp thứ nhất, tại kỳ họp thứ nhất HĐND tỉnh bầu đồng chí Cầm
Ngoan giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh, UBND tỉnh khóa VII, nhiệm kỳ 19811985 gồm 19 đồng chí. Thực hiện Nghị quyết của HĐND khóa VII, UBND
tỉnh và các ngành, các cấp trong tỉnh tập trung lãnh đạo đẩy mạnh phát triển
kinh tế xã hội.
Thực hiện Luật tổ chức HĐND và UBND 1983 (sửa đổi), từ 29 đến
ngày 31-5-1985, HĐND tỉnh Sơn La khóa VIII tiến hành kỳ họp thứ nhất. Kỳ
họp đã bầu UBND tỉnh gồm 15 ủy viên, trong đó đồng chí Cầm Liên được
bầu làm chủ tịch UBND tỉnh.


22


Từ ngày 2 đến ngày 7-1-1990, HĐND tỉnh Sơn La khóa XI (1989-1994)
tiến hành kỳ họp thứ nhất. Tại kỳ họp, HĐND tỉnh đã đầu UBND tỉnh gồm 16
đồng chí, đồng chí Lương An giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh. Trong nhiệm kỳ
này Hoạt động của UBND có những thuận lợi rất căn bản. Đó là sự nghiệp đổi
mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo bước đầu đạt được những kết quả quan
trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2020 là những
định hướng để toàn Đảng, toàn dân hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước.
Từ ngày 4 đến ngày 8-1-1995, HĐND tỉnh Sơn La khóa X nhiệm kỳ
1994-1999 tiến hành kỳ họp thứ nhất, HĐND đã bầu UBND tỉnh gồm 9 thành
viên, do đồng chí Lê Bình Thanh giữ chức Chủ tịch.
Sau 15 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, cùng với những đổi mới trên
lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, hệ thống chính trị cũng có những đổi mới
quan trọng. Nhà nước ban hành Luật Tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi)
năm 1994. Thực hiện Luật Tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi), được sự chỉ
đạo của Tỉnh ủy, tổ chức bộ máy của HĐND tỉnh từng bước được kiện toàn
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Tháng 12-1999, tại kỳ họp thứ nhất nhiệm kỳ (1999-2004), HĐND
tỉnh đã bầu UBND tỉnh gồm 9 thành viên, do đồng chí Lê Bình Thanh làm
chủ tịch. Từ ngày 2 đến ngày 6-6-2004, kỳ họp thứ nhất HĐND tỉnh, khóa
XII (2004-2010), HĐND tỉnh khóa XII gồm 11 thành viên, bao gồm: Chủ
tịch, 4 Phó Chủ tịch và 6 thành viên UBND bao gồm các ngành: Giám đốc Sở
kế hoạch và Đầu tư, Giám đốc Sở Tài chính, Giám đốc Sở Nội vụ, Chánh Văn
phòng UBND tỉnh, Giám đốc Công an tỉnh, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân
sự tỉnh. Đồng chí Hoàng Chí Thức giữ chức Chủ tịch.


23


Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

2.1. Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân tỉnh Sơn La
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân tỉnh
* Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
Ủy ban nhân dân gồm có: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên. Chủ
tịch UBND là đại biểu HĐND, các thành viên khác không nhất thiết phải là
đại biểu. Trong nhiệm kỳ, nếu khuyết Chủ tịch UBND thì người được giới
thiệu để bầu không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo quy
định hiện hành số thành viên UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ
9 đến 11 người (riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có không quá 13
người); cấp huyện, quận, thị xã từ 7 đến 9 người; cấp xã, phường, thị trấn từ 3
đến 5 người. Trong đó số Phó Chủ tịch ở các cấp tương ứng là 3 đến 4 (hoặc 5),
2 - 3 và 1 - 2 người.
Theo luật tổ chức HĐND và UBND (2003), một số văn bản của Chính
phủ như Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004. Nghị định số
107/2004/ NĐ-CP, Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/09/2004 và Quyết
định số 350/2004/QĐ-UB của UBND tỉnh Sơn La ngày 18/07/2004, Quy chế làm
việc của UBND tỉnh Sơn La ban hành kèm theo Quyết định số 65/2004/QĐ-UB
ngày 18/07/2004 thì UBND tỉnh Sơn La do HĐND tỉnh bầu ra, có 11 thành
viên chỉ gồm Chủ tịch UBND tỉnh, 04 phó Chủ tịch UBND tỉnh và 06 ủy
viên.
* Cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh Sơn La
Các cơ quan chuyên môn được UBND tỉnh ủy nhiệm thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước trong một ngành, một số ngành, hoặc lĩnh


24


vực công tác trên địa bàn tỉnh theo nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất, xuyên
suốt theo ngành (hoặc lĩnh vực) từ Trung ương đến cơ sở. Các cơ quan chuyên
môn chịu sự chỉ đạo, quản lý toàn diện của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ
đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của các bộ, ngành tương đương.
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003 và Nghị định
số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kết
hợp thực tiễn tỉnh Sơn La, UBND tỉnh Sơn La quy định số lượng các cơ quan
chuyên môn là 19 sở, ban và tương đương.
1. Sở Nội vụ;
2. Sở Tư pháp;
3. Sở Kế hoạch và Đầu tư;
4. Sở Tài chính;
5. Sở Công thương;
6. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
7. Sở Giao thông vận tải;
8. Sở Xây dựng;
9. Sở Tài nguyên và Môi trường;
10. Sở Thông tin và Truyền thông;
11. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội;
12. Sở Văn hoá, thể thao và Du lịch;
13. Sở Khoa học và Công nghệ;
14. Sở Giáo dục và Đào tạo;
15. Sở Y tế;
16. Thanh tra tỉnh;


25


×