Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

PHÁT âm TIẾNG ANH của SINH VIÊN MIỀN tây NAM bộ (NGHIÊN cứu NGỮ âm THỰC NGHIỆM) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.53 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------

LÊ KINH QUỐC

PHÁT ÂM TIẾNG ANH
CỦA SINH VIÊN MIỀN TÂY NAM BỘ
(NGHIÊN CỨU NGỮ ÂM THỰC NGHIỆM)

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu
Mã số: 62.22.02.41

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ HỌC SO SÁNH – ĐỐI CHIẾU

Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2018


Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VĂN HUỆ

Phản biện độc lập 1: …………………………………………….
Phản biện độc lập 2: ………………………………………….....

Phản biện 1: ………………………………………………….....
Phản biện 2: ………………………………………………….....
Phản biện 3: ………………………………………………….....



Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở
đào tạo họp tại
……………………………..………………………….…………
vào hồi …….. giờ………ngày .….. tháng …... năm …….

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn


1

PHẦN MỞ ĐẦU
0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, tiếng Anh được xem là ngôn
ngữ quốc tế, là hành trang không thể thiếu được cho thế hệ trẻ
bước vào thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhằm
đưa đất nước đến phồn vinh. Cơ hội đang mở ra, thách thức đang
đến với giáo dục Đại học trong việc nâng cao chất lượng đầu ra
cho những sinh viên chuyên Anh,vì họ chính là đội ngũ thầy cô
giáo nòng cốt trong việc đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn hóa trình
độ, năng lực tiếng Anh cho nguồn nhân lực nước nhà.
Thực tế cho thấy, qua các cuộc khảo sát năng lực tiếng Anh
của giáo viên tiểu học, THCS và THPT, kết quả đạt chuẩn còn
quá khiêm tốn, nhất là đối với kỹ năng nghe-nói. Một trong
những giải pháp cho vấn đề này là nâng cao chất lượng sản phẩm
chuyên Anh từ các trường Đại học trong vùng, quan tâm đến
“năng lực phát âm tiếng Anh” của các sản phẩm đầu ra này,
nghiên cứu lỗi phát âm tiếng Anh của họ, vì chính tạo sản lời nói
của họ trong môi trường giáo dục và giao tiếp, tác động trực tiếp

đến quá trình thụ đắc về cảm thụ và tạo sản lời nói của nhiều thế
hệ học trò mai sau. Đây là lý do nghiên cứu đề tài.
0.2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới: Trên bình diện ngữ âm học thực nghiệm so
sánh đối chiếu, nghiên cứu giao thoa giữa tiếng Anh (L2) và tiếng
mẹ đẻ (L1) của người học từ những quốc gia khác nhau, đã có
một số công trình tiêu biểu đề cập đến năng lực tạo sản và lỗi
phát âm tiếng Anh của người học (Li) đối với các đơn vị đoạn
tính và siêu đoạn tính như: (1) phẩm chất và trường độ của
nguyên âm đơn Li của 40 người Hàn học tiếng Anh (luận án tiến
sĩ của Michael Carey, 2002); (2) lỗi phát âm nguyên âm, phụ âm
Li của 11 sinh viên Xu-đăng có L1 là tiếng A-rập (luận án tiến sĩ


2

của Tajeldin Ali, 2011); (3) tạo sản nguyên âm và phụ âm Li của
50 Trung Quốc nói tiếng Quan Thoại (Enli, 2014); (4) trọng âm
và ngữ điệu Li của hai nhóm người có L1 là tiếng Quan thoại và
tiếng Hàn (luận án tiến sĩ của McGory, 1997); (5) trọng âm và
nhịp điệu Li của người Việt ở Úc (luận án tiến sĩ của Nguyen Thị
Anh Thư, 2004); (6) tầm âm vực Li của người Ý (luận án tiến sĩ
của Urbani Martina, 2013); (7) trọng âm và tầm âm vực Li của
người Nhật (Aoyama và Guion, 2007); (8) trọng âm chủ trên cơ
chế trọng âm và tầm âm vực Li của người Tây Ban Nha
(Verdugo, 2006); (9) trọng âm và trường độ nguyên âm Li của
người Ma-rốc học TA, có L1 là tiếng A-rập (Yeou, 2004).
Ở Việt Nam: Ngôn ngữ học đối chiếu nghiên cứu tiếp xúc
ngôn ngữ và giao thoa ngôn ngữ là lĩnh vực khá mới mẻ và là
một vùng đất có nhiều tiềm năng khai phá. Những nhà ngôn ngữ

học đi đầu trong lĩnh vực này như Bùi Khánh Thế (1978, 1993,
2005), Phan Ngọc và Phạm Đức Dương (1983), Lê Quang Thiêm
(1986, 1987, 2004), Trần Trí Dõi (1996, 1999). Các nghiên cứu
trong địa hạt này thiên về hướng phân tích lỗi của người học tiếng
và có thể quy về hai hướng nghiên cứu chính:
- Nghiên cứu lỗi của người học trong sự tiếp xúc, giao thoa
giữa hai ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng dân tộc. Tiêu biểu là
các công trình của các tác giả: Bùi Khánh Thế (1978, 1993,
2005, 2013), Nguyễn Văn Lợi (1988), Đoàn Văn Phúc (1997),
Phùng Thị Thanh (2007), Trương Văn Sinh (1991), Hà Quang
Năng (1997), Đinh Lư Giang (2011), Nguyễn Thị Huệ (2010);
- Nghiên cứu lỗi của người học trong sự tiếp xúc, giao thoa
giữa hai ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng nước ngoài. Các công
trình tiêu biểu: Nguyễn Thiện Nam (2001), Phạm Đăng Bình
(2003), Đỗ Minh Hùng (2007), Nguyễn Thủy Minh (2006),
Nguyễn Linh Chi (2009), Nguyễn Văn Phúc (1999), Phimsen
Buarapha (2006), Đào Thị Thanh Huyền (2008), Đào Thị
Hương Giang (2014), Soudchai Simmalavon (2016), Lê Văn
Trung (2012), Phạm Thu Hương (2013).


3

Trong lĩnh vực nghiên cứu phát âm của người Việt học ngoại
ngữ, lỗi ngữ âm - âm vị tiếng Anh là vấn đề được nhiều nhà
nghiên cứu đặc biệt quan tâm chính do tầm quan trọng của ngôn
ngữ quốc tế này trong quá trình giao lưu hội nhập. Đến nay, đã
có một số công trình nghiên cứu phát âm tiếng Anh của người
Việt, nhưng chỉ tập trung nghiên cứu lỗi phát âm đối với một hay
vài đơn vị ngôn ngữ đích trong cùng một cấp độ là đoạn tính hay

siêu đoạn tính mà thôi. Tiêu biểu là hai công trình nghiên cứu về
lỗi phát âm các đơn vị đoạn tính tiếng Anh: (1) Lê Thanh Hòa
(2016) nghiên cứu lỗi phát âm phụ âm và nguyên âm tiếng Anh
của 2 nam và 12 nữ chuyên Anh thuộc trường Đại học Đồng Nai.
Tác giả ghi âm phát ngôn của CTV và sử dụng “phương pháp
quan sát cảm thụ chủ quan của người nghiên cứu về các đặc trưng
và nét khu biệt ngữ âm-âm vị học giữa hai ngôn ngữ Việt-Anh
để đánh giá lỗi” đồng thời kết hợp so sánh với các “kết quả nghiên
cứu ngữ âm-âm vị học tiếng Việt và tiếng Anh của tác giả đi
trước”. Ở đây, lỗi phụ âm và nguyên âm được tác giả thẩm nhận
và đánh giá dựa vào “thang đánh giá” với khung 5 bậc sai, tạm
chấp nhận, trung bình, khá và đúng, chứ không dựa vào các tham
số âm học được phân tích và truy xuất từ các phần mềm như
Praat hay Speech Analyzer; (2) Dương Thị Nụ (2009) sử dụng
phương pháp so sánh đối chiếu hệ thống phụ âm tiếng Anh và
tiếng Việt để nghiên cứu lỗi phát âm 4 phụ âm tiếng Anh /ʃ, ʒ, tʃ,
dʒ/. Đến nay, đã có hai công trình nghiên cứu lỗi phát âm ở cấp
độ siêu đoạn tính tiếng Anh: (1) Nguyễn Huy Kỷ (2004) nghiên
cứu ngữ điệu tiếng Anh của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm
Hà Nội. Ngoài các phương pháp nghiên cứu chính như điều tra
điền dã, khảo sát sư phạm, miêu tả, phân tích và tổng hợp, tác giả
còn sử dụng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm nhưng chỉ với
“tư cách là phương tiện bổ trợ”; (2) Trần Thị Thanh Diệu (2013)
sử dụng phương pháp thực nghiệm ngữ âm học để khảo sát cách
phát âm trọng âm và ngữ điệu tiếng Anh của sinh viên Việt.


4

Trọng âm từ (2 và 3 âm tiết) và trọng âm ngữ đoạn của sinh viên

(SV) được phân tích qua 2 tham số âm học là cường độ và cao
độ. Về ngữ điệu, tác giả cũng sử dụng 2 tham số này để đo trung
bình hiệu số cường độ giữa đỉnh âm tiết chủ và đỉnh âm tiết cuối;
và hiệu số cao độ giữa âm tiết cuối và âm tiết chủ của hai câu
phức dạng nhận định xuống giọng cuối câu và của câu phức dạng
câu hỏi đuôi lên giọng cuối câu. Tác giả miêu tả các kiểu lỗi trọng
âm và ngữ điệu của SV và đưa ra một số giải pháp khắc phục.
Điểm mới của đề tài: (1) nghiên cứu năng lực phát âm tiếng
Anh của sinh viên Việt trên hai bình diện “đúng chuẩn” và “lệch
chuẩn” đối với các đơn vị ngôn ngữ đích thuộc cả hai cấp độ chiết
đoạn và siêu đoạn (nguyên âm, phụ âm, trọng âm; nhịp điệu, tầm
âm vực và ngữ điệu) trên cơ sở đối chiếu với tiếng Anh của người
Anh bản ngữ đương đại và trên kết quả đối chiếu giữa RP chuẩn
này với tiếng Việt ở miền Tây Nam Bộ; và (2) cách tiếp cận
nghiên cứu các đơn vị ngôn ngữ Li của chúng tôi cũng khác biệt
so với các công trình nghiên cứu ngữ âm thực nghiệm đi trước.
1.1. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá năng lực phát âm tiếng Anh của sinh viên (SV) đối
với các đơn vị đoạn tính và siêu đoạn tính trên hai phương
diện “đúng chuẩn” và “lệch chuẩn”.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực phát âm
tiếng Anh cho sinh viên.
1.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát, phân tích và đánh giá năng lực thể hiện nguyên âm,
phụ âm, trọng âm, nhịp điệu, tầm âm vực và ngữ điệu tiếng
Anh của SV. Xác định nguyên nhân gây ra những kiểu lỗi của
các đơn vị chiết đoạn và siêu đoạn này, lý giải nguồn gốc lỗi
và đề xuất các biện pháp khắc phục.
- Rút ra một số quy luật (hay khuynh hướng) chung về tạo sản

Li. Đề xuất một số giải pháp cho chương trình đào tạo nhằm
nâng cao năng lực phát âm tiếng Anh của SV.


5

1.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các đơn vị đoạn tính và siêu đoạn tính trong phát âm tiếng
Anh (Li) của SV, trên cơ sở so sánh đối chiếu với các đơn vị
tương đương trong phát âm tiếng Anh (L2) của người Anh bản
ngữ (BNA) và trên cơ sở kết quả đối chiếu giữa các đơn vị đoạn
tính và siêu đoạn tính này trong phát âm L2 với các đơn vị tương
đương trong phát âm tiếng Việt (L1) của SV.
1.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các đơn vị đoạn tính (nguyên âm, phụ
âm) và siêu đoạn tính (trọng âm, nhịp điệu, tầm âm vực và ngữ
điệu) trong phát âm Li của sinh viên đến từ 13 tỉnh thành ở Miền
Tây Nam Bộ. Các đơn vị Li này được so sánh đối chiếu với các
đơn vị tương đương trong phát âm L2 của nhóm CTV người Anh
bản ngữ đến từ miền Nam nước Anh. Chúng tôi còn phân tích
một số thuộc tính đặc trưng của các đơn vị Li này thông qua đối
chiếu với một số thuộc tính tương đương trong L1.
1.3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Với sự trợ giúp của thiết bị ghi âm chuyên dụng và các phần
mềm phân tích âm tích hợp với máy vi tính, kết quả phân tích
ngữ âm thu được đã cho chúng tôi có cái nhìn “khách quan” và
“định lượng” về năng lực phát âm tiếng Anh của sinh viên.
Luận án góp phần làm rõ hơn diện mạo hệ thống ngữ âmâm vị học của phương ngữ Nam bộ và của hệ ngữ RP đương đại

ở miền Nam nước Anh với kho tư liệu (corpus) tương đối đầy đủ
về các đơn vị đoạn tính và siêu đoạn tính từ hai ngôn ngữ với
dung lượng lưu trữ trên 100 giờ của các tập tin ghi âm.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở luận chứng cho
hướng tiếp cận mới đối với những nhà thiết kế giáo trình ngữ âm
với sự trợ giúp của một số thiết bị hay phần mềm phân tích âm.
Với kết quả nghiên cứu về các tham số âm học từ L1 và L2,
các quy luật chi phối lỗi của SV miền Tây Nam Bộ, luận án có


6

thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho các nhà giáo
dục đại học và phổ thông trong vùng.
Dưới góc nhìn sư phạm, dữ liệu ghi âm của nhóm người Anh
bản ngữ đương đại trong kho tư liệu ngữ âm có thể được sử dụng
để bổ sung cho nguồn tài liệu giảng dạy môn Ngữ âm.
Luận án đề ra một số giải pháp giảng dạy môn Ngữ âm thông
qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. Thông qua một số phần
mềm phân tích ngữ âm, trên cơ sở đối chiếu với các tham số âm
học tương đương của người bản ngữ nói tiếng Anh, người học có
thể tự hiệu chỉnh phát âm của mình.
1.4. KHO TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1. Kho tư liệu và đối tượng tham gia nghiên cứu
Kho tư liệu gồm tập hợp các tập tin văn bản và các tập tin
ghi âm từ 77 sinh viên chuyên Anh năm thứ ba thuộc 4 trường
Đại học (Đại học An Giang, Đại học Cần Thơ, Đại học Đồng
Tháp và Đại học Trà Vinh) và 7 người Anh bản ngữ, được thể
hiện qua hai ngôn ngữ, tiếng Anh và tiếng Việt. Trong đó, tư liệu

ghi âm chứa trên 112 giờ phát ngôn, được thiết kế với 3 cấu trúc:
câu chứa, bài đọc và đối thoại. Luận án sử dụng dữ liệu phát ngôn
của 50 sinh viên và 4 người Anh bản ngữ trong kho tư liệu làm
ngữ liệu nghiên cứu. Người nghiên cứu (người viết) là người trực
tiếp thiết kế, tổ chức, giám sát, hỗ trợ quy trình ghi âm, phân tích
và đánh giá kết quả khảo sát trong suốt quá trình nghiên cứu.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp: (1) nghiên cứu ngữ âm
học và âm vị học; (2) so sánh-đối chiếu; (3) logic học và toán học
và (4) ngữ âm thực nghiệm. Phương pháp ngữ âm thực nghiệm
là phương pháp chính, được sử dụng để khảo sát năng lực thể
hiện các đơn vị chiết đoạn và siêu đoạn trong Li của mỗi SV
thông qua đối chiếu các tham số âm học như đỉnh cộng hưởng
(formant), thời điểm khởi thanh (VOT - Voice Onset Time),
trọng tâm cân bằng phổ (CoG - Center of Gravity), tỷ lệ biến
thiên qua trục không (ZCR - Zero Crossings Rate), tần số cơ bản
(F0), cường độ, trường độ, biến thiên âm vực, mức âm vực, quãng
âm vực và dạng sóng âm của từng đơn vị ngôn ngữ đích trong Li


7

với các tham số tương đương trong L2 và L1. Dữ liệu tạo sản Li,
L1 và L2 được miêu tả, phân tích và truy xuất qua phần mềm
Praat; được thống kê, xử lý qua phần mềm Excel và SPSS.
1.5. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được triển khai thành ba chương: Chương 1. Cơ sở lý
luận; Chương 2. Năng lực phát âm các đơn vị đoạn tính tiếng
Anh của sinh viên miền Tây Nam Bộ; và Chương 3. Năng lực thể

hiện các đơn vị siêu đoạn tính trong phát âm tiếng Anh của sinh
viên miền Tây Nam Bộ. Chúng tôi cũng đề xuất một số giải pháp
nâng cao năng lực phát âm tiếng Anh cho sinh viên chuyên ngành
Anh văn trong phần kết luận của luận án.
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Các lý thuyết về lĩnh vực thụ đắc ngôn ngữ
Chúng tôi trình bày ba lý thuyết nổi trội liên quan đến lĩnh
vực nghiên cứu quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai và đề cập đến
lỗi của người học: lý thuyết phân tích đối chiếu (Lado, 1957), lý
thuyết phân tích lỗi (Corder, 1971) và lý thuyết ngôn ngữ trung
gian (Selinker, 1972).
Định hướng quy trình đánh giá năng lực phát âm Li của SV
Năng lực phát âm một ngôn ngữ đích nào đó của người học
bao gồm năng lực cảm thụ và năng lực tạo sản lời nói. Trong
khuôn khổ luận án, chúng tôi chỉ nghiên cứu năng lực phát âm
tiếng Anh của sinh viên thông qua tạo sản lời nói của họ.
Trên cơ sở lý thuyết phân tích đối chiếu, chúng tôi tiến hành
đối chiếu các đơn vị ngôn ngữ đích giữa tiếng Anh (L2) và tiếng
Việt (L1); “tiên nghiệm” được chỗ nào chuyển di tiêu cực có khả
năng xảy ra, chỗ nào chuyển di tích cực có thể phát huy tác dụng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi định hướng nghiên cứu vào những khía
cạnh đáng quan tâm của các đơn vị ngôn ngữ đích.
Trên cơ sở lý thuyết phân tích lỗi, chúng tôi sử dụng mô hình
phân tích lỗi của Gass và Selinker (2001) với các bước sau: (1)
chọn ngữ liệu; (2) xác định lỗi; (3) phân loại lỗi; (4) định lượng
lỗi; (5) phân tích nguyên nhân gây ra lỗi; và (6) cách chữa lỗi.


8


Trên cơ sở lý thuyết ngôn ngữ trung gian, chúng tôi sử dụng
cả ba hệ thống ngôn ngữ Li, L2 và L1 trong quá trình so sánh đối chiếu nhằm nghiên cứu năng lực phát âm Li của SV. Phát âm
của SV đối với một đơn vị ngôn ngữ đích nào đó được xem là
đúng chuẩn khi các tham số âm học đích của nó có giá trị “tương
đồng” với các tham số âm học tương đương mà nhóm BNA thể
hiện. Phát âm được xem là “lệch chuẩn” khi các tham số âm học
của đơn vị ngôn ngữ nào đó được SV thể hiện “khác biệt” so với
nhóm BNA. Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích phương
sai (ANOVA) từ phần mềm SPSS (phiên bản 16.0, mức ý nghĩa
5%) để xác định “đúng chuẩn” hay “lệch chuẩn” trong phát âm
của mỗi SV cho từng đơn vị ngôn ngữ đích (Hình 1.4).

Hình 1.4. Quy trình đánh giá năng lực phát âm tiếng Anh của SV


9

Về nguyên âm, phụ âm, trọng âm, nhịp điệu, tầm âm vực và
ngữ điệu của tiếng Anh và tiếng Việt
Trong các phần này chúng tôi (1) phân tích và đối chiếu mỗi
đơn vị ngôn ngữ chiết đoạn và siêu đoạn giữa hai ngôn ngữ dựa
trên cơ sở lý thuyết của các công trình nghiên cứu trước; (2) nêu
ra những vấn đề khó khăn mà SV có thể gặp phải trong việc thể
hiện các đơn vị ngôn ngữ đích; và (3) định hướng cho quy trình
khảo sát, phân tích và đánh giá các đơn vị ngôn ngữ đích.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trên cơ sở lý thuyết phân tích đối chiếu, lý thuyết phân tích
lỗi, lý thuyết ngôn ngữ trung gian và kế thừa kết quả của các công
trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học đi trước, chúng tôi đã
vạch ra “quy trình đánh giá năng lực phát âm Li của SV”. Kết

quả của quá trình đối chiếu các đơn vị nguyên âm, phụ âm, ngôn
điệu, trọng âm, nhịp điệu, và ngữ điệu giữa L1 và L2 đã cung cấp
những nguyên nhân tiềm tàng của lỗi và những cơ sở lý luận để
chúng tôi có thể phân tích, đánh giá, lý giải những đơn vị ngôn
ngữ đích mà SV thể hiện “đúng chuẩn” và “lệch chuẩn” trong
chương 2 và chương 3.
CHƯƠNG 2. NĂNG LỰC PHÁT ÂM CÁC ĐƠN VỊ ĐOẠN
TÍNH TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN MIỀN TÂY NAM BỘ
2.1. Năng lực phát âm nguyên âm tiếng Anh của sinh viên
Chúng tôi nghiên cứu năng lực phát âm nguyên âm đơn TA
của mỗi SV thông qua đối chiếu (1) phẩm chất nguyên âm TA
của mỗi SV với phẩm chất nguyên âm tương đương của nhóm
BNA và (2) trường độ nguyên âm TA của mỗi SV với quy luật
rút ngắn nguyên âm của BNA. Tiến hành 4 thực nghiệm ngữ âm.
Kết quả và thảo luận
Về phẩm chất nguyên âm
Không gian phổ “formant” nguyên âm của tiếng Anh rộng
hơn tiếng Việt với 6 nguyên âm tiếng Anh /i:/, /u:/, /ʊ/, /ɔ:/, /ɒ/
và /ɑ:/ nằm ở ngoại vi tứ giác nguyên âm tiếng Việt (Hình 2.4).
Số SV thể hiện phẩm chất nguyên âm tương đồng và cận
chuẩn chiếm tỷ lệ (1) khá cao ở các nguyên âm dòng trước /i:, e/;


10

(2) trung bình ở các nguyên âm dòng giữa /ɜ:, ʌ/; và (3) thấp ở
các nguyên âm dòng sau /ɑ:, u:, ɒ, ɔ:/ (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Tỷ lệ phần trăm SV thể hiện phẩm chất nguyên âm Li
tương đồng và cận chuẩn so với BNA
Nguyên âm

Đúng & cận

/i:/

/e/

/ɜ:/

/ʌ/

/æ/

84

58

54

40

24

/ɪ/

/ʊ/
22

/ɑ:/

/u:/


/ɒ/

/ɔ:/

6

4

2

0

Hình 2.1. Phẩm chất nguyên âm tiếng Anh của nam SV đối chiếu
với phẩm chất nguyên âm tiếng Anh của nam BNA
Tuy nhiên, tỷ lệ SV thể hiện phẩm chất nguyên âm Li đúng
chuẩn lại rất thấp (Bảng 2.2).
Bảng 2.2. Tỷ lệ SV thể hiện phẩm chất nguyên âm Li đúng chuẩn.
Nguyên âm

/ɜ:/

/e/

/ʌ/

/æ/

/ɪ, ʊ/


/i:, u:/

/ɒ/

/ɑ:, ɔ:/

Đúng chuẩn (%)

32

20

14

12

8

4

2

0

Lý giải: So với không gian hoạt động lưỡi của BNA trong khoang
miệng, có ba khu vực nằm ở ngoại vi tầm hoạt động lưỡi mà SV
hành chức cho quá trình tạo sản hệ thống nguyên âm L1 (Hình


11


2.4). Tương ứng với 3 khu vực này là 3 không gian phổ “formant”
A, B và C. Tuy nhiên, khả năng tiến lưỡi ra trước, đến lợi hay
răng (vượt qua khu vực B) vẫn là tập quán mà SV có thể thực
hiện một cách dễ dàng vì đây là thuộc tính cố hữu của lưỡi, hành
chức tạo sản các phụ âm lợi /d, n, s, z, l/ và răng /tʰ, t/ trong tiếng
Việt. Do vậy, SV không có tập quán vận hành lưỡi trong hai
không gian A (khu vực phía trong của khoang miệng) và C (khu
vực trần của khoang miệng) để tạo sản những nguyên âm có phổ
F1/F2 định vị trong hai khu vực trường phổ “formant” này.
Số SV thể hiện những cặp nguyên âm có phẩm chất tương
tự nhau có tỷ lệ khá cao đối với cặp /i: - ɪ/ (68%), kế đến là /ɒ ɑ:/ (34%); /ʊ - u:/ (32%); /ɔ: - ɒ/ (28%).
Lý giải: Phẩm chất của mỗi nguyên âm trong từng cặp
nguyên âm căng/chùng /i:, ɪ/; /ʊ, u:/ và /ɔ:, ɒ/ tương tự nhau có
thể giải thích là do hiện tượng chuyển di từ một nguyên âm có
phát âm tương tự như /i/, /u/ và /ɔ/ trong L1 (theo thứ tự).
Về trường độ nguyên âm
Tỷ lệ SV rút ngắn trường độ nguyên âm đứng trước phụ âm
vô thanh khá cao (75%). Tuy nhiên, năng lực rút ngắn trường độ
nguyên âm trong mối tương quan giữa nguyên âm căng và chùng
trong ngữ cảnh trước phụ âm hữu thanh và vô thanh là khá thấp.
Tỷ lệ SV rút ngắn “a” (/æ/) trong từ đứng sau trong mỗi cặp
từ có tỷ lệ khá cao (manage/management: 80%; man/manage:
60%; management/managementship: 50%). Tuy nhiên, số SV thể
hiện “a” cùng đúng ở cả ba cặp từ chiếm tỷ lệ thấp (20%).
Lỗi về phẩm chất nguyên âm và biện pháp khắc phục
Dựa vào nguyên nhân gây ra lỗi (vị trí và độ cao của lưỡi
đinh lượng bằng giá trị F1/F2) chúng tôi phân ra 8 kiểu lỗi chính;
đồng thời đề ra những biện pháp khắc phục cụ thể đối với từng
kiểu lỗi. Biện pháp khắc phục chung là dịch chuyển lưỡi theo

chiều hướng ngược lại khuynh hướng phạm lỗi.
Lỗi về trường độ nguyên âm và biện pháp khắc phục
Lỗi về trường độ nguyên âm Li được phân thành hai kiểu
lỗi: (1) rút ngắn trường độ nguyên âm trước phụ âm căng vô


12

thanh chưa phù hợp; (2) rút ngắn trường độ nguyên âm theo nhịp
chưa phù hợp; đồng thời đề xuất một số biện pháp khắc phục.
2.2. Năng lực phát âm phụ âm tiếng Anh của sinh viên
Năng lực phát âm 16 phụ âm đơn tiếng Anh của mỗi SV
được đánh giá thông qua (1) tham số VOT đối với 6 phụ âm tắc,
âm vị /p; b; t; d; k; ɡ/ và (2) tham số CoG, ZCR, StD cùng với
dạng sóng âm đối với 8 phụ âm xát, âm vị /f; v; θ; ð; s; z; ʃ; ʒ/ và
2 phụ âm tắc-xát TA /tʃ; dʒ/ mà mỗi SV thể hiện trên cơ sở đối
chiếu với các tham số của các phụ âm tương đương mà nhóm
BNA thể hiện. Chúng tôi tiến hành 4 thực nghiệm.
Kết quả và thảo luận
Phụ âm tắc: Năng lực thể hiện VOT của SV đối với các phụ
âm tắc tiếng Anh là khá thấp (Bảng 2.4).
Bảng 2.3. Năng lực thể hiện VOT của SV đối với phụ âm tắc Li
Tỷ lệ SV

VOTLi

Đúng chuẩn
& cận chuẩn

VOTLi ≥

VOTL2
VOTLi tương
đồng VOTL2

Đúng chuẩn

/ɡ/

/p/

/d/

/t/

/k/

/b/

58%

46%

34%

22%

14%

10%


40%

36%

26%

14%

10%

6%

Kết quả cho thấy, thứ nhất, tỷ lệ SV thể hiện phụ âm với
VOT khác biệt so với BNA là rất cao. Thứ hai, số SV thể hiện
VOT có giá trị âm của hai âm tắc hữu thanh /b/Li và /d/Li, chiếm
tỷ lệ cao lên đến 90% và 64% (theo thứ tự).
Lý giải: Thứ nhất, thể liên tục VOT âm tắc hữu thanh L1 có giá
trị VOT âm và nằm ngoài thể liên tục VOT âm tắc hữu thanh L2
có giá trị dương; và thể liên tục âm tắc vô thanh L1 có giá trị
VOT dương nhỏ hơn và cũng nằm ngoài thể liên tục VOT âm tắc
vô thanh L2. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt lớn
về VOT của phụ âm tắc giữa Li và L2 (Hình 2.16). Thứ hai, về
mặt âm vị học, trong TV và TA đều có âm tắc môi-môi hữu thanh
/b/ và âm tắc lợi hữu thanh /d/; nhưng về mặt ngữ âm học, /b/L2
và /d/L2 là hai âm tắc bật hơi (VOT > 35 ms), còn /b/Li; /d/Li mà
SV thể hiện là hai âm tắc hút vào (VOT > 40 ms).


13


Hình 2.2. Thể liên tục VOT của âm tắc giữa hai ngôn ngữ
Phụ âm xát và tắc-xát: Năng lực thể hiện phụ âm tắc-xát và
xát của SV khá tốt. Tỷ lệ SV phát âm đúng chuẩn và cận chuẩn
cao với 5 phụ âm /v, f, tʃ, z, s/ có tỷ lệ trên 80%; /ʃ, dʒ/ trên 60%.
Ba phụ âm còn lại dưới 60%; thấp nhất là /ð/ 32% (Bảng 2.5).
Bảng 2.4. Tỷ lệ SV thể hiện phụ âm đúng chuẩn và lệch chuẩn
Phụ âm đích
Đúng chuẩn &
cận chuẩn (%)
Đúng chuẩn (%)
Lệch sang âm
khác (%)

/v/

/f/

/tʃ/

/z/

/s/

/ʃ/

/dʒ/

/θ/

/ʒ/


/ð/

100

96

94

88

82

72

62

52

52

32

88

62

64

40


60

28

56

30

24

24

0

4

6

12

18

28

38

48

48


68

Lỗi và biện pháp khắc phục
Đối với 6 phụ âm tắc: Dựa vào tiêu chí bật hơi, chúng tôi
phân ra 4 kiểu lỗi chính: (1) lỗi thứ yếu (VOTLi > VOTL2); (2) lỗi
bật hơi yếu (VOTL2 > VOTLi > 35 ms), (3) lỗi không bật hơi (0
ms < VOTLi < 35 ms) và (4) lỗi hút hơi (VOTLi < 0 ms). Biện
pháp khắc phục cơ bản là điều chỉnh mức độ bật hơi của mỗi âm
tắc Li này dựa vào độ bật hơi chuẩn của âm tắc L2 tương ứng.
Đối với 8 phụ âm xát và 2 phụ âm tắc-xát: Dựa vào nguồn
gốc gây ra lỗi, chúng tôi phân ra 7 kiểu lỗi chính: (1) lỗi
CoG/ZCR; (2) lỗi VT; (3) lỗi PT; (4) lỗi TT; (5) lỗi VT/PT; (6)
lỗi PT/TT và (7) lỗi VT/PT/TT (VT: vị trí; PT: phương thức; TT:
tính thanh). Biện pháp khắc phục cơ bản là xác định rõ lỗi mà SV
phạm phải thuộc loại nào, ngữ âm học (kiểu 1) hay âm vị học
(kiểu 2 – 7). Nếu lỗi thuộc về âm vị học thì do một tiêu chí hay


14

hỗn hợp nhiều tiêu chí gây ra. Trên cơ sở đó, người dạy và người
học có thể vận dụng những chiến thuật và phương pháp khắc
phục thích hợp.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương hai tập trung phân tích, định lượng và đánh giá năng
lực thể hiện các đơn vị đoạn tính Li của SV gồm 11 nguyên âm
đơn và 16 phụ âm đầu. Từ kết quả số liệu, chúng tôi đã hệ thống
hóa tất cả các lỗi của các đơn vị chiết đoạn này thành những kiểu
lỗi điển hình dựa trên nguyên nhân gây ra lỗi của SV và đề ra

những biện pháp khắc phục tương ứng.
CHƯƠNG 3. NĂNG LỰC THỂ HIỆN CÁC ĐƠN VỊ SIÊU
ĐOẠN TÍNH TRONG PHÁT ÂM TIẾNG ANH CỦA SINH
VIÊN MIỀN TÂY NAM BỘ
3.1. Năng lực thể hiện trọng âm tiếng Anh của sinh viên
Chúng tôi đánh giá năng lực thể hiện trọng âm của sinh viên
thông qua hai tiêu chí “phân bố trọng âm” và “cơ chế trọng âm”
mà sinh viên thể hiện (tương đồng hay khác biệt) của hai câu đích
trong đối chiếu với nhóm BNA. Ngoài 3 tiêu chuẩn đánh giá độ
mạnh trọng âm của âm tiết (Bolinger, 1958; Chun, 2002; Fry,
1958): (1) cao hơn về âm vực; (2) dài hơn về trường độ âm tiết;
và (3) lớn hơn về cường độ (được xếp theo thứ tự), chúng tôi
chọn tham số (4) biến thiên âm vực (BTAV) làm tiêu chuẩn quan
trọng nhất để đo trọng âm vì sự tăng lên về âm vực là dấu hiệu
quan trọng để xác định trọng âm (Ladefoged & Johnson, 2011).
Chúng tôi tiến hành 3 thực nghiệm ngữ âm học
Kết quả và thảo luận
Về mặt âm vị học: mức độ năng lực thể hiện đúng phân bố
trọng âm của SV cao ở các âm tiết không mang trọng âm “to/be” (100%), “she” (96%) và hai âm tiết chủ “work/-hun” (80%);
trung bình ở các âm tiết mang trọng âm ở giữa câu “go/-come”
(61%); thấp ở từ nghi vấn “Why/How” ở đầu câu (30%) và thấp
nhất ở trợ động từ “did” (7%).
Lỗi nhấn giọng sai ở “did” chủ yếu là do BTAV có giá trị
dương. Điều này là do trong quá trình học L2, SV có thể quan


15

tâm đến cách chia quá khứ của trợ động từ để thể hiện nghĩa văn
phạm, hơn là xem “did” như một từ chức năng biểu đạt thông tin

cũ; thứ hai, cũng do xem trọng ý nghĩa văn phạm nên SV phân
giới ngữ đoạn ngay sau vị trí “did” và hệ quả là “did” mang trọng
âm. Đây là hiện tượng chuyển di tiêu cực từ TV. Hệ quả là “How”
và “Why” sẽ không mang trọng âm do đứng trước “did” trong
ngữ đoạn “How did//” và “Why did//”.
Về mặt ngữ âm học: các âm tiết phân bố đúng trọng âm chưa
chắc đã đúng chuẩn về ngữ âm học. Đối với các âm tiết: (1) “she”,
24 nam SV cần phải hạ MAV xuống thấp hơn; (2) “to”, 25 nữ
SV cần phải dịch chuyển âm vực xuống với độ dốc lớn hơn; (3)
“be-”, 25 nữ SV cần phải rút ngắn thêm trường độ và 25 nam SV
cần phải hạ thấp mức âm vực xuống thấp hơn; (4) “work”, 22 nữ
SV cần tăng thêm khoảng BTAV rộng hơn; (5) “hun”, 22 nữ SV
cần tăng độ rộng BTAV, tăng trường độ và cường độ và 21 nam
SV cần kéo dài trường độ để thể hiện đúng trọng âm chủ này
trong câu 2; (6) “go”, 18 SV nữ cần thêm tăng cường độ; (7)
“come”, 19 SV nữ cần tăng cường độ và 15 nam SV cần tăng
thêm độ rộng BTAV; (8) “How”, 11 nữ SV cần tăng thêm BTAV;
và (9) “Why”, 11 nữ SV cần tăng thêm BTAV và cao độ.
Lỗi và biện pháp chung khắc phục lỗi
Chúng tôi phân lỗi trọng âm thành 2 nhóm kiểu lỗi chính:
nhóm 7 kiểu lỗi trọng âm về âm vị học (sai vị trí trọng âm) và
nhóm 6 kiểu lỗi trọng âm về ngữ âm học (dù đúng vị trí trọng âm
nhưng thể hiện các tham số âm học chưa chuẩn). Biện pháp chữa
lỗi cơ bản là dựa vào tham số nào mà SV phạm lỗi để khắc phục.
Có hai trường hợp đáng lưu ý, cần sử dụng biện pháp khắc
phục phù hợp: (1) đối với go và -come ở giữa câu, nữ SV cần
nâng thêm cường độ lớn như nữ BNA; (2) đối với các âm tiết chủ
và các âm tiết mang trọng âm của từ nghi vấn, nữ SV cần tăng
thêm BTAV vì so với nam BNA, nữ BNA nới rộng BTAV hơn
nhiều để đánh dấu trọng âm tương phản. Điều này phù hợp với

kết quả nghiên cứu của Cooper, Eady & Mueller, 1985.


16

3.2. Năng lực thể hiện nhịp điệu tiếng Anh của sinh viên
Chúng tôi chọn “nhịp nhấn” (stress-foot) làm đơn vị đo nhịp.
Cách tính nhịp điệu mỗi câu được tính bằng cách lấy khoảng nhịp
đầu chia cho khoảng nhịp sau. Sau đó, tính giá trị trung bình của
tỷ lệ này cho mỗi câu và cuối cùng so sánh các tỷ lệ trung bình
này của SV với các tỷ lệ trung bình tương đương của BNA.
Chúng tôi tiến hành 1 thực nghiệm ngữ âm tính 4 khoảng thời
gian giữa các cặp âm tiết mang trọng âm thuộc hai câu đích (I:
How-go; II: go-work; III: Why-come; IV: come-hun).
Kết quả và thảo luận
Tỷ lệ nhịp ở câu 1 (1,71) và ở câu 2 (3,25) của SV lớn hơn tỷ lệ
nhịp câu 1 (1,11) và câu 2 (1,73) của BNA theo thứ tự (Bảng 3.2).
Bảng 3.1. So sánh nhịp điệu Li giữa sinh viên và bản ngữ Anh
Câu
1
2

SV
1,71
3,25

BNA
1,11
1,73


M
1,67
3,14

F
**
**

CV
16,45
18,78

So với BNA, trường độ nhịp giữa hai âm tiết mang trọng âm
nào đó mà SV thể hiện sẽ dài hơn, khi càng có nhiều âm tiết
không nhấn ở giữa hai âm tiết mang trọng âm đó.
Lỗi và biện pháp khắc phục
Dựa vào nguyên nhân gây ra lỗi, chúng tôi phân ra các 4
kiểu lỗi nhịp điệu: (1) phân bố trọng âm sai vị trí; (2) rút ngắn
trường độ âm tiết không mang trọng âm chưa đủ; (3) kéo dài
trường độ âm tiết mang trọng âm chưa đủ; và (4) tốc độ thể hiện
các âm tiết trong một khoảng nhịp chưa phù hợp. Đồng thời
chúng tôi đề xuất các biện pháp khắc phục tương ứng.
3.3. Năng lực thể hiện tầm âm vực tiếng Anh của sinh viên
Chúng tôi đối chiếu tầm âm vực (TAV) tiếng Việt (L1) và
tiếng Anh (L2) của sinh viên với tầm âm vực tiếng Anh (L1) của
BNA căn cứ vào mức âm vực (MAV) và quãng âm vực (QAV).
Chúng tôi tiến hành 2 thực nghiệm.
Kết quả và thảo luận
Qua kết quả đối chiếu tầm âm vực giữa tiếng Việt và tiếng
Anh, chúng tôi rút ra 5 quy luật BTAV trong tiếng mẹ đẻ của SV

(Bảng 3.4). Trong 3 MAV cực trị, chỉ có LFmintb trong L1 của SV
cao hơn so với BNA. Do vậy, Hmaxtb - LFmintb L1 hẹp hơn.


17

Bảng 3.2. Ngữ liệu về MAV và QAV của tiếng Việt và tiếng Anh
Quy
luật
1
2
3
4
5

TAV
Hmaxtb
Lmintb
LFmintb
Chênh lệch
Hmaxtb - Lmintb
Hmaxtb - LFmintb
Chênh lệch

Nữ
SV

Nam
BNA


398 Hz
114 Hz
167 Hz
81 Hz
(13) St (1,0) di
22 St
14 St
29 St
1,2 di
2,4 di
1,2 di

SV

BNA
209 Hz
87 Hz

97 Hz
78 Hz
(4) St (0,3) di
15 St
12 St
18 St
1,0 di
1,5 di
0,5 di

Lưu ý: Các giá trị in đậm là tầm âm (diapason); các giá trị trong ngoặc chỉ rằng
giá trị LFmintb của BNA nhỏ hơn LFmintb của SV.


Kết quả số liệu đối chiếu tầm âm vực giữa Li và L2 cho thấy,
trong 5 MAV Li: O (đầu câu), H (cao nhất), M (cao thứ hai), L
(thấp nhất giữa câu) và LF (thấp nhất cuối câu), chỉ có LF và L
trong L1 của SV cao hơn so với BNA. Hệ quả thứ nhất là SV
không thể hạ giọng xuống đủ thấp ở cuối đơn vị ngữ điệu để thể
hiện NĐX. Đây là kiểu lỗi thu hẹp khoảng BTAV ngữ điệu
xuống. Hệ quả thứ hai là SV có khuynh hướng nâng cao MAV ở
âm tiết không nhấn; vì thế sẽ thu hẹp BTAV giữa âm tiết này và
âm tiết mang trọng âm khác trong câu và làm giảm đi tính nổi bật
của âm tiết có mức âm vực cực đại (toàn phần hay cục bộ).
Lỗi và biện pháp khắc phục
Dựa trên nguyên nhân gây ra lỗi, chúng tôi phân ra hai kiểu
lỗi chính: (1) lỗi thu hẹp khoảng BTAV NĐX – lỗi LF (lỗi ngữ
điệu không vay mượn sự nổi bật); và (2) lỗi thu hẹp BTAV giữa
âm tiết có cực tiểu toàn cục với âm tiết có cực đại toàn cục hoặc
cực đại cục bộ) – lỗi L (lỗi ngữ điệu vay mượn sự nổi bật). Biện
pháp khắc phục cơ bản là hạ MAV LF và L xuống thấp hơn nữa.
3.4. Năng lực thể hiện ngữ điệu tiếng Anh của sinh viên
Năng lực ngữ điệu tiếng Anh của SV được đánh giá thông
qua đường nét đường ngữ điệu và khoảng biến thiên âm vực cuối
đơn vị ngữ điệu thuộc 5 loại câu khác nhau (S: nhận định, AndS: tường thuật liệt kê, Wh-Q: câu hỏi lấy thông tin, Y/N-Q: câu
hỏi có-không, và Or-Q: câu hỏi lựa chọn) mà mỗi SV thể hiện
(tương đồng hay khác biệt) trong đối chiếu với nhóm BNA.
Chúng tôi tiến hành 2 thực nghiệm ngữ âm học.


18

Kết quả và thảo luận

Về đường nét ngữ điệu: số câu SV thể hiện đúng đường nét
ngữ điệu ở cuối câu chiếm tỷ lệ cao (And-S: 100%; S: 84%; OrQ: 71%; Wh-Q: 62.5% và Y/N-Q: 61%) Tuy nhiên, số SV không
nhất quán trong việc thể hiện đường nét ngữ điệu (cùng lên hay
cùng xuống) cho cùng một đơn vị ngữ điệu chiếm tỷ lệ khá cao
trong 3 nhóm, cao nhất là nhóm Wh-Q (60%), kế đến nhóm Y/NQ (48%) và nhóm S (46%). Do vậy, số SV thể hiện đúng đường
nét ngữ điệu cho cả 4 câu trong mỗi nhóm chiếm tỷ lệ khá thấp,
thấp nhất đối với nhóm câu Y/N-Q (34%), kế đến Wh-Q (36%)
và S (54%).
Đối với hai nhóm câu “Or-Q” và “And-S”, mặc dù tỷ lệ số lần
mà SV thể hiện đường nét NĐL của hai đơn vị ngữ điệu đầu khá
cao (76%; 55%) và tỷ lệ số lần mà SV thể hiện đường nét NĐX
của đơn vị cuối rất cao (71%; 100%) nhưng tỷ lệ số câu mà SV
thể hiện đúng cả 3 đơn vị ngữ điệu khá thấp (Or-Q: 40%; And-S:
30%). Do vậy, khi câu càng có nhiều đơn vị ngữ điệu thì tần suất
SV thể hiện đúng đường nét ngữ điệu cho cả câu sẽ càng thấp.
Về ngữ điệu (đúng đường nét và phẩm chất BTAV cuối câu):
năng lực thể hiện ngữ điệu của SV cao nhất đối với loại câu S
(nữ: 84%; nam: 72%), kế tới là loại câu Wh-Q (nữ: 64%; nam:
60%) và thấp nhất là loại câu Y/N-Q (nữ: 16%; nam: 20%).
Lỗi ngữ điệu và biện pháp khắc phục
Chúng tôi phân ra hai kiểu lỗi chính: (1) lỗi đường nét ngữ
điệu (về mặt âm vị học); và lỗi thu hẹp khoảng BTAV cuối câu
(về mặt âm vị học và ngữ âm học). Đồng thời, chúng tôi đề ra
những biện pháp khắc phục (1) lỗi “không nhấn quán” trong việc
thể hiện đường nét ngữ điệu lên hay xuống và (2) lỗi thể hiện
khoảng BTAV ở cuối đơn vị ngữ điệu có độ dốc quá ít đối với
mô hình NĐX và mô hình NĐL.
Các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao năng lực phát âm tiếng
Anh cho sinh viên chuyên Anh ở miền Tây Nam Bộ
Chúng tôi nêu ra một số chiến thuật giảng dạy và phương

pháp giảng dạy môn ngữ âm và một số giải pháp cơ bản nâng cao


19

năng lực phát âm như: (a) thiết kế “Đề cương chi tiết môn học”;
(b) lập “Hồ sơ cá nhân tóm tắt năng lực phát âm tiếng Anh” của
SV; (c) giúp SV “tự điều chỉnh” quá trình học, (d) thực hiện
nguyên tắc zoom cho việc thiết kế giáo trình, phương pháp giảng
dạy và “học tự điều chỉnh” của SV; (e) quan tâm hơn nữa đến sự
tham gia giảng dạy trực tiếp của giảng viên BNA và (f) tạo cơ
hội cho SV có điều kiện tiếp xúc nhiều với môi trường Anh ngữ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Chương ba đã trả lời cho câu hỏi thứ hai của luận án là phân
tích, định lượng và đánh giá năng lực thể hiện các đơn vị siêu
đoạn Li của sinh viên gồm trọng âm, nhịp điệu, tầm âm vực, và
ngữ điệu. Chúng tôi đề ra các biện pháp khắc phục lỗi tương ứng
và một số quy luật biến thiên âm vực của hai ngôn ngữ; nêu ra
những chiến thuật và phương pháp giảng dạy cơ bản về môn ngữ
âm mà giảng viên và sinh viên có thể linh động phối hợp trong
quá trình dạy và học; và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng
lực phát âm tiếng Anh cho SV chuyên Anh ở miền Tây Nam Bộ.
KẾT LUẬN
1. Năng lực thể hiện các đơn vị Li đích của sinh viên bị chi phối
chủ yếu bởi (a) tập quán (thói quen) mà bộ máy phát âm của họ
hành chức cho hệ thống ngữ âm trong tiếng mẹ đẻ; (b) chuyển di
ngôn ngữ từ L1; và (c) quy tắc tần số (Ohala, 1983).
1.1. Nguyên âm đơn
Về phẩm chất nguyên âm: so với không gian cộng hưởng của
phổ nguyên âm tiếng Việt, không gian cộng hưởng của phổ

nguyên âm tiếng Anh rộng hơn, với 6 nguyên âm /i:/, /u:/, /ʊ/,
/ɔ:/, /ɒ/ và /ɑ:/ có phân bố ở ngoại vi không gian cộng hưởng của
phổ nguyên âm L1. Vì thế, lỗi về phẩm chất có tần suất cao rơi
vào 6 nguyên âm này là do SV (1) không có thói quen lùi lưỡi về
sau sâu hơn bình thường (vào khu vực phía trong của khoang
miệng) để tạo sản 3 âm đích /ɔ:/L2, /ɒ/L2 và /ɑ:/L2; và (2) không có
thói quen nâng lưỡi cao hơn bình thường (vào khu vực trần của
khoang miệng) để tạo sản 3 âm đích /i:/L2, /u:/L2 và /ʊ/L2. SV cần
phải nới rộng không gian dịch chuyển lưỡi ra khỏi cộng minh


20

trường mà lưỡi có thói quen hành chức cho hệ thống nguyên âm
L1: (1) nâng lưỡi lên thêm cho /i:/, /u:/ và /ʊ/; và (2) lùi lưỡi về
sau thêm cho /ɔ:/, /ɒ/ và /ɑ:/.
Phẩm chất nguyên âm Li của SV còn bị chi phối bởi sự khác
biệt về vị trí lưỡi (F1) và độ cao lưỡi (F2) giữa nguyên âm đích
và nguyên âm L1 tương tự. Do tập quán phát âm và chuyển di
phẩm chất F1/F2 cùng tác động đến /ɔ:/Li và /u:/Li nên tần suất
SV phạm lỗi cao rơi vào cả hai “formant” F1 và F2 của chúng.
Về trường độ nguyên âm: năng lực (1) rút ngắn trường độ
nguyên âm đứng trước phụ âm vô thanh và (2) rút ngắn trường
độ nguyên âm để giữ nhịp của sinh viên khá cao. Tuy nhiên, năng
lực thể hiện trường độ nguyên âm trong mối tương quan giữa
nguyên âm ngắn và nguyên âm dài trong những ngữ cảnh khác
nhau của SV khá thấp; và năng lực rút ngắn trường độ nguyên
âm của SV để giữ nhịp cũng giảm xuống khi càng có nhiều âm
tiết không nhấn chêm vào cùng một từ đích.
1.2. Phụ âm đầu

1.2.1. Đối với 6 phụ âm tắc /p; b; t; d; k; ɡ/
Kết quả đối chiếu không gian phổ VOT giữa hai ngôn ngữ L1
và L2 cho thấy (1) thể liên tục VOT của các âm tắc hữu thanh L1
có giá trị VOT âm và nằm ngoài thể liên tục VOT của âm tắc hữu
thanh L2 có giá trị VOT dương; và (2) thể liên tục VOT của các
âm tắc vô thanh L1 có giá trị VOT dương và cũng nằm ngoài thể
liên tục VOT của các âm tắc vô thanh L2 có giá trị dương lớn
hơn nhiều. Vì vậy, do tập quán tạo sản VOT của L1 khác biệt
nhiều so với L2 nên tần suất phạm lỗi VOT của SV xảy ra cao
đối với 6 phụ âm tắc đích này:
Lỗi hút hơi (VOT < 0 ms) đối với /b/Li, /d/Li và /ɡ/Li là do SV
có thói quen thể hiện âm tắc hữu thanh L1 theo phương thức hút
hơi vào. Tỷ lệ lỗi VOT cao nhất rơi vào /b/Li là do /b/L1 là phụ âm
hút hơi mạnh nhất. Lỗi bật hơi yếu (VOTL2 > VOTLi > 35 ms) đối
với /p/Li, /t/Li và /k/Li và lỗi không bật hơi (0 ms < VOTLi < 35 ms)
đối với /p/Li và /t/Li là do SV không có thói quen bật hơi với giá
trị VOT vượt ngưỡng cực đại trong không gian phổ VOT L1.


21

Tần suất phạm lỗi VOT của SV cao hơn xảy ra đối với
những âm đích có thuộc tính âm vị (vị trí cấu âm, phương thức
cấu âm và tính thanh) càng giống với âm tương tự trong L1. Trái
lại, tần suất phạm lỗi VOT thấp hơn rơi vào những âm đích như
(1) /ɡ/ không giống với bất cứ phụ âm nào trong L1 hoặc (2) /p/
không tồn tại trong hệ thống phụ âm đầu tiếng Việt. Điều này phù
hợp với quy tắc phân loại tương đương (Flege, 1995) [126].
1.2.2. Đối với 8 phụ âm xát và tắc-xát /f, v, θ, ð, s, z, ʃ, ʒ; tʃ, dʒ/
Năng lực SV thể hiện 10 phụ âm đích này bị chi phối (1) chủ

yếu bởi tập quán thể hiện phụ âm L1 trên bình diện âm vị học đối
với ba tiêu chí: vị trí cấu âm, phương thức cấu âm và tính thanh;
(2) bởi tập quán thể hiện đặc tính phổ CoG/ZCR L1 (tính ồn/tiếng
thanh) trên bình diện ngữ âm học; và (3) bởi hiện tượng răng hóa.
1.2.2.1. Tập quán thể hiện 3 tiêu chí âm vị của 10 phụ âm đích
Đối với /f, v/ và /s, z/ đích: Ở vị trí cấu âm môi-răng của /f, v/
và vị trí cấu âm cấu âm đầu lưỡi-lợi của /s, z/, tập quán thể hiện
phương thức xát, rung (/v/L1, /z/L1) hoặc không rung (/f/L1, /s/L1)
dây thanh quản là thuộc tính cố hữu của SV. Do vậy, số SV thể
hiện 4 phụ âm đích này lệch sang phụ âm khác chiếm tỷ lệ thấp.
Đối với /θ, ð/ đích: Ở vị trí cấu âm đầu lưỡi-răng, SV chỉ có
thói quen thể hiện phương thức tắc và tính vô thanh (/tʰ/L1, /t/L1).
Vì thế, SV (1) không có thói quen thể hiện phương thức xát cho
âm đích /θ/; và (2) không có thói quen thể hiện phương thức xát
và tính hữu thanh cho âm đích /ð/. Số SV thể hiện hai âm này
lệch sang âm khác chiếm tỷ lệ cao nhất ở /ð/ và cao thứ hai ở /θ/.
Đối với /tʃ, dʒ/ đích: Ở vị trí cấu âm ngạc-lợi, SV có thói quen
thể hiện tính vô thanh cho phương thức tắc (/ʈ/L1) và xát (/ʂ/L1),
nhưng không có thói quen thể hiện tính vô thanh cho phương
thức tắc-xát đối với âm đích /tʃ/. Do chỉ khác biệt ở phương thức
tắc-xát, mà phương thức này là sự kết hợp của tắc và xát, nên số
SV thể hiện /tʃ/Li lệch sang âm khác chiếm tỷ lệ rất thấp. Ở vị trí
cấu âm ngạc-lợi này, SV cũng không có thói quen thể hiện tính
hữu thanh cho phương thức tắc-xát cho âm đích /dʒ/. Do khác
biệt hai tiêu chí nên số SV thể hiện /dʒ/Li lệch sang âm khác chiếm
tỷ lệ cao hơn nhiều so với số SV thể hiện /tʃ/Li lệch sang âm khác.


22


Đối với /ʃ, ʒ/ đích: Ở vị trí cấu âm ngạc-lợi, SV có thói quen
thể hiện phương thức xát và tính vô thanh (/ʂ/L1) cho âm xát vô
thanh đích /ʃ/. Ở vị trí cấu âm này, SV cũng có thói quen thể hiện
“phương thức rung” và tính hữu thanh (/ʐ/L1), mà không có thói
quen thể hiện phương thức xát cho âm xát /ʒ/ đích. Do vậy, số
SV thể hiện /ʒ/Li lệch sang phụ âm khác chiếm tỷ lệ cao thứ hai,
cao hơn so với /ʃ/Li lệch sang phụ âm khác.
1.2.2.2. Do tập quán thể hiện đặc trưng “tính ồn và tiếng thanh”
từ phụ âm tiếng Việt nên tỷ lệ lỗi thứ yếu (về COG và ZCR)
chiếm tỷ lệ đáng kể trong trường hợp SV thể hiện 4 phụ âm đích
/f/ /z/ /s/ và /ʃ/ thành những âm cận tương ứng.
1.2.2.3. Trên 1/5 số SV có khuynh hướng thể hiện âm xát lưỡilợi /s/ đích với đầu lưỡi vượt khỏi vị trí cấu âm lưỡi-lợi và tiến
đến vị trí lưỡi-răng. Những SV này thể hiện /s/Li với giá trị phổ
CoG/ZCR vượt khỏi ngưỡng cận trên của /s/L2, và phân bố ở
ngoại vi không gian phổ CoG và ZCR của 4 âm xuýt /ʃ/L2, /ʂ/L1,
/s/L1 và /s/L2. Khuynh hướng dịch chuyển đầu lưỡi đến răng của
hiện tượng răng hóa này hoàn toàn trái ngược so với khuynh
hướng lùi lưỡi thêm vào vị trí ngạc-lợi của hiện tượng chuyển di
tiêu cực từ /s/L1 hoặc /ʂ/L1.
Ngoài ra, khuynh hướng giảm xát khó hơn tăng xát. Nói
cách khác, việc thể hiện /ʃ/Li của SV sẽ khó hơn /s/Li.
1.3. Trọng âm
SV có thói quen nhấn giọng “vào âm tiết (hay tiếng) cuối
cùng hay duy nhất của ngữ đoạn” (Cao Xuân Hạo, 2007). Đây là
nguyên nhân chính dẫn đến tần suất phạm lỗi cao xảy ra ở “did”
và kéo theo là việc phạm lỗi ở “How” và “Why”.
Do BTAV trong L1 bị chi phối bởi thanh điệu và BTAV của
thanh điệu thuộc âm tiết mang trọng âm có thể đi lên MAV cao
nhất hoặc đi xuống MAV thấp nhất, nên SV không có thói quen
vận dụng một cách nhấn quán trong việc thể hiện BTAV đi lên

MAV cực đại cho các âm tiết mang trọng âm như trong L2.
1.4. Nhịp điệu
Cũng do cách phân giới trọng âm “vào âm tiết (hay tiếng)
cuối cùng hay duy nhất của ngữ đoạn” nên nguyên nhân chính


23

phạm lỗi nhịp của SV là họ thường nhấn giọng vào âm tiết không
mang trọng âm như “did”. Lúc này, trường độ giữa hai âm tiết
mang trọng âm sẽ dài hơn do nó là tổng trường độ của hai nhịp
nhấn là “How-did” và “did-go”; hay “How-did” và “did-come”.
Ngoài ra, SV thường không có khuynh hướng rút ngắn và
dồn nén các âm tiết không nhấn lại để giữ nhịp như trong tiếng
Anh. Vì thế, so với BNA, trường độ nhịp giữa hai âm tiết mang
trọng âm mà SV thể hiện sẽ dài hơn khi càng có nhiều âm tiết
không nhấn chêm vào giữa hai âm tiết mang trọng âm đó.
1.5. Tầm âm vực
Qua kết quả đối chiếu tầm âm vực giữa tiếng Việt và tiếng
Anh, chúng tôi rút ra 5 quy luật BTAV trong tiếng mẹ đẻ của SV
và BNA: (1) quy luật Hmaxtb; (2) quy luật Lmintb; (3) quy luật
LFmintb; (4) quy luật Hmaxtb - Lmintb; và (5) quy luật Hmaxtb - LFmintb.
Ở cuối đơn vị ngữ điệu, SV không có thói quen hạ MAV
xuống thấp hơn ngưỡng 167 Hz (nữ) và 97 Hz (nam). Đây là
nguyên nhân chính dẫn đến lỗi thu hẹp khoảng BTAV ngữ điệu
xuống. Tần suất lỗi cao nhất của SV là không thể hạ MAV cuối
câu xuống thấp như BNA ở các câu “Wh-Q”, “Or-Q”, “And-S”
đối với nữ và “Wh”, “S”, “And-S” đối với nam. Ở những vị trí
khác trong đơn ngữ điệu, SV thường nâng MAV cực tiểu của âm
tiết không nhấn lên cao hơn so với MAV cực tiểu của âm tiết

nhấn do ảnh hưởng của hiện tượng chuyển di từ đặc tính đường
nét và phân bố âm vực của thanh điệu tiếng Việt. Do vậy, độ rộng
QAV từ MAV cực tiểu lên MAV cực đại của âm tiết nổi bật sẽ
rút ngắn lại. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến lỗi thu hẹp BTAV
giữa âm tiết cực tiểu với âm tiết cực đại, làm giảm tính nổi bật
của âm tiết mang trọng âm. Tần suất lỗi cao thứ hai của SV là họ
không thể hạ MAV ở giữa câu xuống thấp như BNA ở các câu
“S” đối với nữ và các câu “S”, “Wh” đối với nam.
1.6. Ngữ điệu
SV có thói quen nâng cao tần số của đường F0 hơn bình
thường để biểu thị thuộc tính thông tin không chắc chắn, hoặc hạ
thấp tần số của đường F0 để nêu ra thông tin chắc chắn (Ohala,
1983). Đây là nguyên nhân chính dẫn đến ngữ điệu câu hỏi lên


×