Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Làm rõ tính tất yếu, khách quan của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.22 KB, 12 trang )

Mục lục

A. MỞ ĐẦU
Cách mạng Việt Nam gắn liền với 2 cuộc kháng chiến thần kỳ chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong khoảng thời gian đầy khó khăn
và gian khổ ấy, Đảng đã đưa đất nước ta vượt qua bao khó khăn, đưa dân tộc ta luôn
tiến về phía trước. Giờ đây với mỗi người dân Việt Nam, việc học tập nghiên cứu lịch
sử Đảng để biết được những chặng đường gian khổ mà cha anh đã đi qua, và những
chiến thắng oanh liệt mà dân tộc đã đạt được là điều không thể thiếu. Và càng cần
thiết hơn với thế hệ trẻ ngày hôm nay, vì học tập lịch sử Đảng không chỉ là tiếp thu
kiến thức, tìm hiểu lịch sử, mà môn học này còn cho ta thấy trách nhiệm của mỗi cá
nhân trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường mà Đảng và Bác
Hồ đã lựa chon.
Để nhận thức rõ hơn về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, bài tiểu luận của em
đưa ra và giải quyết vấn đề “Làm rõ tính tất yếu, khách quan cho sự ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam”. Chúng em làm bài tiểu luận này với mong muốn củng cổ thêm
kiến thức cho chính bản thân các thành viên, và nếu có thể bài tiểu luận này sẽ giúp đỡ
các bạn sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứ môn học đầy lý thú này. Nhưng
do chưa được tiếp xúc với nhiều tài liệu tham khảo, và với trình độ có hạn nên bài tiểu
luận này không tránh khỏi có các thiếu sót và hạn chế. Do vậy chúng em rất mong có
được sự giúp đỡ, bổ xung, đóng góp ý kiến từ phía các thầy và các bạn để làm cho bài
tiểu luận trở nên chất lượng hơn, thuyết phục hơn.


B. NỘI DUNG
I. Hệ thống các khái niệm:
1) Tất yếu là gì?

Tất yếu có nghĩa là tất phải như thế, không thể khác được (nói về những cái
có tính quy luật); trái với ngẫu nhiên. Có áp bức thì tất yếu có đấu tranh. Nhất thiết
phải có, không thể thiếu để có được một kết quả, một tác dụng nào đó.


2) Khách quan là gì?

Có rất nhiều nghĩa về cụm từ “khách quan”, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến
nhiều, từ thiếu đến đầy đủ. Vì thế chúng ta có thể hiểu theo cách thông thường rằng:
Khách quan là những gì tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức, ý muốn của
con người, trong quan hệ đối lập với chủ quan.
3) Đảng cộng sản Việt Nam là gì?

Đảng phái chính trị hay chính đảng (thường gọi tắt là đảng) là tổ chức chính
trị tự nguyện với mục tiêu đấu tranh để tham gia vào việc thể hiện các quan điểm
chính trị, đấu tranh để giành quyền đại diện cho người dân trong quốc hội, hoặc để đạt
được một quyền lực chính trị nhất định trong chính quyền, thường là bằng cách tham
gia các chiến dịch bầu cử. Các đảng thường có một hệ tư tưởng hay một đường lối
nhất định, nhưng cũng có thể đại diện cho một liên minh giữa các lợi ích riêng rẽ. Các
đảng thường có mục tiêu thực hiện nhiệm vụ, lý tưởng của tầng lớp, giai cấp, quốc gia
để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp, giai cấp hay quốc gia đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay theo Hiến
pháp (bản 2013), đồng thời là chính đảng duy nhất được phép hoạt động trên đất nước
Việt Nam, và được đảm bảo bằng điều 4 Hiến pháp năm 1980.


Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố hiện nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam là đại biểu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt
động của Đảng.
II. Tính tất yếu và khách quan cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại.
a. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó.
Cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước đế quốc bên trong thì tăng

cườnng bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân
tộc thuộc địa. Các chính sách thôn tính thuộc địa của các nước đế quốc đã đẩy đến
mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa với các nước đế quốc ngày càng gay gắt, phong
trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng không giành được thắng lợi do
chưa có đường lối lãnh đạo đúng đắn.
Đỉnh điểm là ngày 1/8/1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ, gây ra
những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước đế quốc, làm suy yếu lực lượng của
chủ nghĩa tư bản và làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước đế quốc. Đồng thời tình
hình cũng tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc
thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ.
Ở Châu Á và Đông Nam Á, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra
sôi nổi. Ví dụ: Ở Indonexia, vào cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, nhiều tổ chức yêu
nước của trí thức tư sản tiến bộ ra đời, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Ở philipin
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha
diễn ra quyết liệt.
b. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác Lênin
Yêu cầu bức thiết cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân là phải có
hệ thống lí luận khoa học làm vũ khí tư tưởng để chống lại chủ nghĩa tư bản. Trong
bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác đã ra đời và sau này được Lênin phát triển thành chủ
nghĩa Mác-Lênin.


Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng
sản, sự ra đời của đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân chống áp bức, bốc lột. Vì lẽ đó mà ảnh hưởng của chủ nghĩa MácLênin đã tác động trực tiếp đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đưa đến sự
ra đời của rất nhiều Đảng cộng sản ở các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã có ảnh hưởng rất lớn đến phong trào đấu tranh của
nhân dân Việt Nam dẫn đến sự ra đời của các tổ chức Cộng sản ở nước ta trong đó
phải kể đến vai trò quan trọng của Nguyễn Ái Quốc.

c. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã đưa chủ nghĩa Mác Lênin từ lí luận
trở thành hiện thực, đồng thời cổ vũ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân ở các dân tộc thuộc địa, đưa đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh nhân dân các nước Châu Á và toàn
thể nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mình.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập:
-

Đánh dấu giai đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa MácLênin và thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.

Như vậy hoàn cảnh quốc tế và đặc điểm của thời đại trên đã tác động, ảnh
hưởng tới quan điểm, lập trường của Nguyễn Ái Quốc trong việc lựa chọn con đường
giải phóng dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của quá trình hoạt động hợp quy
luật.
a. Sự ảnh hưởng của chính sách cai trị hà khắc của thực dân Pháp đến xã hội Việt
Nam.
- Về chính trị: Thực dân Pháp tước bỏ quyền đối nội và đối ngoại của chính quyền
phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam ra thành 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và
thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với chính sách nham hiểm này,


thực dân Pháp cấu kết với giải cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính
trị đối với nhân dân Việt Nam.
- Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa được chia
làm hai giai đoạn: Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai (1929). Ra sức cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư
vốn khai thác tài nguyên (mỏ than, mỏ thiết, mỏ kẽm…); xây dựng một số cơ sở công

nghiệp (điện, nước); xây dựng hệ thống đường bộ, đường thuỷ, bến cảng phục vụ cho
chính sách khai thác thuộc địa của nước Pháp. Chính sách khai thác thuộc địa của
Pháp đã tạo sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành
kinh tế mới…), nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc vào tư
bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.
- Về văn hoá: Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hoá giáo dục thực dân; dung
túng, duy trì các hủ tục lạc hậu…
 Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Đặt biệt là sự ra đời của hai giai
cấp mới: giai cấp công nhân và tư sản Việt Nam, các giai cấp tầng lớp trong xã hội
Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác
nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bốc lột. Tính chất của xã hội Việt Nam là thuộc địa,
nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam
với thực dân Pháp xâm lược (mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu) và mâu thuẫn giữa
nhân dân, chủ yếu là giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến.
b. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Phong trào chống Pháp theo ý thức Hệ phong kiến:
Phong trào Cần Vương do Tôn Thất thuyết đứng đầu (1885- 1896), nhiều cuộc
khởi nghĩa đã diễn ra sôi nổi rộng khắp và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại
xâm của các tầng lớp nhân dân, khi triều đình phong kiến đã đầu hàng. Cuộc khời
nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại năm 1896, đặt dấu chấm hết cho vai trò lãnh đạo
của giai cấp phong kiến đối với phòng trào yêu nước Việt Nam.


Phong trào tự phát của nông dân Yên Thế (1897-1913) do Hoàng Hoa Thám
lãnh đạo, đây là cuộc đấu tranh anh dũng của nông dân Việt Nam kéo dài gần 30 năm,
ghi mốc son trong lịch sử đấu tranh chống Thực dân pháp.Nhưng phong trào vẫn
mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất
tạo thành 1 cuộc cách mạng giải phóng dân tốc nên cuối cùng cũng bị thực dân Pháp

đàn áp.
Phong trào chống Pháp theo khuynh hướng tư sản.
Tiêu biểu là xu hướng bạo động do Phan Bội Châu (1867- 1940) tổ chức, lãnh
đạo và xu hướng cải cách do Phan Châu Trinh (1872- 1926) đề xướng.
Phan Bội Châu thành lập Duy Tân hội (Chủ trương xây dựng chế độ quân chủ
lập hiến như ở Nhật, tổ chức đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật học tập).
Năm 1912 lập tổ chức Việt Nam Quan Phục Hội với tôn chỉ là đánh đuổi giặc Pháp,
khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam. Nhưng chương
trình kế hoạch hoạt động của hội lại thiếu tôn chỉ rõ ràng. Khi Phan Bội Châu bị bắt
thì ảnh hưởng của tổ chức này đối với phong trào yêu nươc Việt Nam chấm dứt.
Phan Châu Trinh và những người cùng chí hướng muốn giành độc lập dân tộc
bằng con đường cải cách đất nước: “Chấn dân trí, khai dân trí, hậu dân sinh”, bãi bỏ
chế độ quân chủ, thực hiên dân quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Phan
Châu Trinh đã đề nghị nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách để cứu nước. Phong
trào đã bị thực dân Pháp đàn áp dã man, giết hại các sĩ phu yêu nước và nhân dân
tham gia biểu tình.
Tóm lại các phong trào yêu nước trên đều biểu dương tinh thần yêu nước, bất
khuất của dân tộc Việt Nam những hầu hết đều thất bài vì:
- Các phong trào yêu nước từ lập trường phong kiến thất bại là do không có
đường lối đúng đắn, giai cấp phong kiến và địa chủ đã không còn khả năng dẫn dắt
dân tộc thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.
- Các phong trào yêu nước theo khuynh hương tư sản do đường lối chính trị
không rõ ràng, nhất là không biết dựa vào quần chúng nhân dân mà chủ yếu dựa vào


uy tín cá nhân nên không tạo sức mạnh tổng hợp, không tạo ra được sự thống nhất cao
trong những ngườii lãnh đạo phong trào, chính vì vậy nên khi người lãnh đạo bị bắt
thì phong trào cũng tan rã theo.
Trước yêu cầu của lịch sử xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống
Pháp diễn ra sôi nổi dưới nhiều trào lưu tư tưởng. Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát

triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có ý nghĩa
rất quan trọng:
- Tiếp nối truyền thống yêu nước của dân tộc.
- Tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến hay tư
sản đã nói lên một sự thật: con đường cứu nước của các phong trào Cách mạng Việt
Nam đều rơi và tình trạng bế tắc. Xã hội Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng cả về đường lối cứu nước và giai cấp lạnh đạo cách mạng. Thiếu một chính
Đảng chân chính tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng, thiếu một
đường lối chính trị đúng đắn, chưa tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tham
gia cách mạng, chưa có phương pháp cách mạng khoa học…
Xuất phát từ những thực tế đó, đòi hỏi phải có một đường lối cách mạng đúng
đắn và một tổ chức cách mạng có khả năng tập hợp mọi tập lớp nhân dân đưa phong
trào yêu nước đi đến thắng lợi. Đây là một yêu cầu tất yếu và khách quan của lịch sử.
c. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân.
Phong trào công nhân trong những năm 1919-1925 chỉ dừng lại ở mục đích
kinh tế, cơm ăn áo mặc, cải thiện sinh hoạt, chưa có ý thức chính trị. Phong trào mang
tính chất tự phát và diễn ra lẻ tẻ, chưa có sự đoàn kết.
Phong trào công nhân ở Việt Nam trong giai đoạn 1919-1930 chỉ thực sự phát
triển khi có sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
Công hội đổ và các tổ chức cộng sản ra đời năm 1929. Các cuộc đấu tranh của công
nhân Việt Nam mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có liên kết giữa


các nhà máy, các ngành và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi cuốn
phong trào dân tộc cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân đòi hỏi phải có một tổ chức
lớn hơn để lãnh đạo đã dẫn tới sự hình thành của ba tổ chức cộng sản năm 1929: Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên
Đoàn. Cả ba tổ chức tuy có chung một mục đích đấu tranh là gương cao ngọn cờ

chống đế quốc và phong kiến, nhưng hoạt động phân tán, chia rẽ ảnh hưởng xấu đến
phong trào cách mạng Việt Nam. Yêu cầu cấp bách và bức thiết lúc bấy giờ là phải
hợp nhất cả ba tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.

3. Sự ra đời của Đảng là kết quả tất yếu từ sự chuẩn bị kĩ lưỡng của Nguyễn Ái
Quốc.
Trước tiên, phải khẳng định rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả
của sự lựa chọn con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
Về Mặt tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu Chủ nghĩa
Mác- Lê Nin, về mô hình nhà nước Xô Viết mới ra đời.
- Về chính trị:
+ Chỉ có giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc. (“Trong thế giới bây giờ
chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng
được hướng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”)
+ Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
(“Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách
mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.)
+ Xây dựng khối liên minh công- nông làm động lực cách mạng.
+Phải có Đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo.
+Cách mạng là sự nghiệp quần chúng nhân dân.
-

Về Tổ chức:


+ Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
( tháng 6 – 1925) tại Quảng Châu ( Trung Quốc), mở các lớp huấn luyện chính trị
cho cán bộ cách mạng Việt Nam, xây dựng nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh rế,
chính trị trong nước. Đặt biệt năm 1928, hội thực hiên chủ trương “vô sản hóa” làm
cho phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán

bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Nguyễn Aí Quốc còn lựa chọn những
thanh niên Việt Nam yếu tú gửi đi học tại Trường Đại học Phương Đông ( Liên Xô)
và Trường Lục quân Hoàng Phố ( Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng
Việt Nam.
+ Thứ hai, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời xuất phát từ những điều kiện lịch
sử và các tiền đề lí luận của chủ nghĩa Mác – LêNin, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của tư tưởng Hồ Chí Minh – sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng VN.
Giữa lúc phong trào yêu nước của các giai tầng trong xã hội diễn ra sôi nổi nhưng đều
bị thực dân Pháp dìm trong những biển máu. Con đường cách mạng vô sản đến với
cách mạng VN như mở ra một tương lai tươi sáng.
+ Thứ ba, xã hội VN lúc bấy giờ có rất nhiều điểm khác biệt so với xã hội
phương Tây. Bởi chúng ta là một nước thuộc địa nữa phong kiến, khiến dân ta khổ cực
trăm bề. Trong xã hội, mâu thuẫn gay gắt nhất không phải là mâu thuẫn giai cấp mà là
mâu thuẫn dân tộc. Mâu thuẫn ấy quyết liệt dâng cao không ngừng cuối cùng dẫn đến
cách mạng xã hội, đập tan ách thống trị của thực dân phong kiến, giành chính quyền
về tay nhân dân lao động, xây dựng xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong cuộc đấu tranh đầy nguy nan ấy, cần phải có một lực lượng đứng ra lãnh đạo
toàn dân. Từ tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đúc kết từ thực tiễn cho thấy, giai cấp
lãnh đạo ấy phải là giai cấp công nhân, một giai cấp có tinh thần triệt để cách mạng,
có trình độ và điều kiện phù hợp để tiếp nhận lí tưởng cộng sản, chủ nghĩa Mác –
Lênin. Thế nhưng, giai cấp công nhân còn cần phải tổ chức ra chính đảng của mình để
đề ra đường lối hướng đi của cách mạng, dẫn dắt toàn thể nhân dân lao động đến với
thắng lợi cuối cùng. “…trước hết cần phải có đảng cách mệnh để trong thì tổ chức và
vận động quần chúng, ngoài thì liên lạc với vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững


cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Cũng
tuân theo quy luật ra đời của Đảng Cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của
sự kết hợp giữa một nền tảng lí luận vững chắc với thực tiễn đấu tranh đầy cam go của

nhân dân lao động. Ở đây chính là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
HCM với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam.

4. Đảng Cộng Sản ra đời xuất phát từ yêu cầu tất yếu của lịch sử cách mạng Việt
Nam là hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam thời bấy giờ.
Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) đã
xảy ra sự bất đồng giữa các đại biểu về việc thành lập Đảng cộng sản, thực chất là sự
khác nhau giữa các đại biểu muốn thành lập ngay một Đảng cộng sản và giải thể tổ
chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với những đại biểu cũng muốn thành lập
Đảng cộng sản nhưng không muốn tổ chức Đảng ở giữa đại hội thanh niên và không
muốn giải tán Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trong bối cảnh đó các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Đông Dương cộng sản Đảng: ngày 17-6-1929, tại Hà Nội, do đại biểu các tổ
chức cộng sản ở miền bắc thành lập.
An Nam cộng sản Đảng: vào mùa thu năm 1929, do các đại biểu trong hội Việt
Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc và Nam Kỳ thành lập.
Đông Dương cộng sản liên Đoàn: Sự ra đời của hai tổ chức cộng sản trên làm
cho nội bộ Đảng Tân Việt phân hoá, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đứng ra
thành lập Đông dương cộng sản liên đoàn.
Cả ba tổ chức đều gương cao ngọn cờ chống đế quốc và phong kiến, nhưng
hoạt động phân tán, chia rẽ ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng Việt Nam. Vì
vậy cần phải khắc phục những khó khăn trên là nhiệm vụ cấp bách của tất cả những
người cộng sản Việt Nam.


Ngày 6/1/1930 Hội nghị hợp nhất các tổ chức Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
tại Hương Cảnh Trung Quốc đã thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính
Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt Nam.

C. KẾT LUẬN

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình
vận động của các mạng Việt Nam: sự phát triển từ Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên đến ba tổ chức cộng sản, đến Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa
Mác- Lênin và quản điểm các mạng Nguyễn Ái Quốc. Đảng Cộng sản ra đời là kết
quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khảng định vai trò
lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác- Lênin đối với cách
mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là “Một bước ngoặc vô cùng
quan trọng tron lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của
sự kết hợp giữa một nền tảng lí luận vững chắc với thực tiễn đấu tranh đầy cam go của
nhân dân lao động. Ở đây chính là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam.



×