Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

134 đề thi thử THPTQG năm 2018 môn văn học luyện đề chuẩn bị kỳ thi THPT QG 2018 đề số 24 file word có lời giải chi tiết doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.62 KB, 10 trang )

ĐỀ SỐ 24


BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GIÁO DỤC
Môn: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Tôi càng đọc nhiều sách thì càng làm cho tôi gắn bó với thế giới, cuộc đời càng trở nên
rực rỡ, có ý nghĩa đối với tôi. Tôi thấy rằng có những người sống khổ cực hơn, khó khăn hơn
tôi, điều đó an ủi tôi phần nào, tuy vẫn không làm tôi thỏa hiệp với cái hiện thực ô nhục.
Tôi cũng thấy rằng có những người biết sống một cách vui thú và sung sướng mà không
một người nào xung quanh tôi biết sống như thế. Và hầu như trong mỗi quyển sách đều có
cái gì đáng lo ngại, như một tiếng chuông nhè nhẹ lôi cuốn tôi đi: đi tìm những cái chưa từng
biết làm tôi xúc động tâm tình. Mọi người đều thay đổi thế này thế khác, mọi người đều
không bằng lòng với cuộc sống, đều tìm kiếm một cái gì tốt đẹp hơn, và họ trở nên gần gũi,
dễ hiểu hơn. Sách làm cho khắp trái đất, khắp thế giới tràn ngập nỗi buồn nhớ cái tốt đẹp
hơn, và mỗi cuốn sách dường như đều là tâm hồn được ghi tại trên giấy bằng những dấu
hiệu và những từ, những dấu hiệu và những từ ấy lập tức trở nên sống động, hễ mắt tôi, trí
tuệ tôi tiếp xúc với chúng.
Nhiều lần tôi khóc khi đọc sách: sách kể chuyện hay biết bao về con người, họ trở nên
đáng yêu và gần gũi biết bao. Là một thằng bé bị công việc ngu độn làm cho kiệt lực, luôn
luôn phải hứng lấy những lời chửi mắng đần độn, tôi trịnh trọng hứa với mình là lớn lên, tôi
sẽ giúp đỡ mọi người, hết lòng phục vụ họ.
Như những con chim kì diệu trong truyện cổ tích, sách ca hát về việc cuộc sống đa dạng
và phong phú như thế nào, con người táo bạo như thế nào trong khát vọng đạt tới cái thiện
và cái đẹp. Và càng đọc, trong lòng tôi càng tràn đầy tinh thần lành mạnh và hăng hái. Tôi
trở nên điềm tĩnh hơn, tin ở mình hơn, làm việc họp lí hơn và ngày càng ít để ý đến vô số
những chuyện bực bội trong cuộc sống.
Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú để tiến


gần tới con người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất và về sự thèm khát cuộc sống
ấy. Khi trong đầu chồng chất những điều đã đọc được, cảm thấy mình là cái bình tràn đầy
một chất lỏng hồi sinh, tôi đến với những người lính hầu, những người thợ đào đất, kể cho họ
nghe những chuyện khác nhau vừa kể vừa sắm vai các nhân vật. Hãy yêu sách, nó là nguồn
kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống.
(Theo đã học tập như thế nào? - M. Goor-ki)


Câu 1. Xác định hai phương thức biểu đạt của văn bản trên.
Câu 2. Theo anh (chị), đoạn văn: Nhiều lần tôi khóc khi đọc sách... hết lòng phục vụ họ bàn
luận về ý nghĩa gì của việc đọc sách?
Câu 3. Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau:
Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú để tiến gần
tới con người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất và về sự thèm khát cuộc sống ấy.
Câu 4. Viết đoạn văn (khoảng 6-8 dòng) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa của việc
đọc sách.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm) Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị)
vê ý kiến được nêu ở phần Đọc hiểu: Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức
mới là con đường sống.
Câu 2. (5,0 điểm) Nhận định về bài thơ Việt Bắc, GS. Nguyễn Đăng Mạnh viết:
Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính
truyền thống đậm đà và nhuần nhuyễn.
Anh (chị) hãy làm rõ nhận định đó qua đoạn thơ sau:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
(Trích Việt Bắc – Tố Hữu, Ngữ văn 12, Tập một, NXB giáo dục
Việt Nam, 2018, trang 111)
HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ THI
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1. – Hai phương thức biểu đạt của văn bản trên là: Nghị luận, biểu cảm.
Câu 2. – Đoạn văn: Nhiều lần tôi khóc khi đọc sách... hết lòng phục vụ họ bàn luận về ý
nghĩa nhân đạo hóa con người của việc đọc sách. Đọc sách khiến tâm hồn con người được
thanh lọc, biết hướng bản thân mình mình đến cái chân – thiện – mĩ.


Câu 3. – Biện pháp tu từ được sử dụng: so sánh: "mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ",
ẩn dụ "con thú, con người", tương phản đối lập "con thú ↔ con người".
– Tác dụng:
+ Biện pháp so sánh là một cách nói hình tượng hóa về giá trị mà mỗi quyển sách mang đến
cho con người. Mỗi quyển sách mang đến cho con người những kiến thức vô giá, đó chính là
những nấc thang đưa con người đến dần với sự thành công và phát triển.
+ Biện pháp ẩn dụ và tương phản đối lập được sử dụng đã khẳng định giá trị của việc đọc
sách. Đọc sách khiến con người có thêm nhiều hiểu biết, tri thức để dần hoàn thiện mình, loại
bỏ những ham muốn bản năng (con thú) để đến gần hơn với nhũng điều kiện tốt đẹp, lương
thiện của "con người".
Câu 4. Thí sinh biết cách viết đoạn văn theo đúng quy định về số câu. Có thể trình bày theo
nhiều cách khác nhau, nhưng cần hướng đến những nội dung cụ thể như sau:
– Đọc sách giúp ta mở rộng thêm kiến thức, nâng cao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực về cuộc
sống và thế giới xung quanh, về đời sống văn hóa, tâm tư, tình cảm, khát vọng của con người.
– Đọc sách sẽ bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm lẽ sống cao đẹp, hoàn thiện nhân cách của con
người.

– Đọc sách giúp rèn luyện năng lực sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là năng lực đọc – một trong
những năng lực giúp con người thành công trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như
hiện nay.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) HS tham khảo nội dung dưới đây để viết đoạn văn:
1. Mở đoạn
– Nếu ví tri thức nhân loại như đại dương mênh mông thì sự hiểu biết của chúng ta chỉ là hạt
muối bỏ bể. Trên chuyến hành trình đi tìm biển kiến thức vô tận, con người đã dần lớn lên để
từ một cá thể nhỏ bé mà tạo nên tiếng nói riêng, phong cách riêng. Sách chính là phương tiện
đưa ta đến với nguồn kiến thức vô tận, mở ra một cánh cửa kì diệu.
– Chính vì vậy, khi nhận định về tầm quan trọng của sách, M, Goor–ki đã nói: Hãy yêu sách,
nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống. Con người yêu sách, nuôi
dưỡng "con đường sống" để khẳng định rằng mình tuy là một hạt muối nhỏ bé nhưng góp
phần quan trọng trong việc hình thành nên đại dương bao la.

'

2. Giải thích
– Sách là di huấn tinh thần của thế hệ người đi trước đối với thế hệ sau, lời khuyên của người
già sắp từ giã cõi đời với người trẻ bước vào tương lai. Sách là sản phẩm tinh thần phi vật


thể, kho báu trí tuệ của nhân loại. Sách đã trường tồn với thời gian như một nhân vật quan
trọng mãi không bao giờ khuất.
=> Vì vậy, chúng ta hãy yêu sách. Hãy bảo quản, trân trọng, nâng niu như một người bạn tri
kỉ, phải phát huy giá trị mà sách mang đến cho con người. Bởi vì sách không đơn thuần chỉ là
"kho vô tận" mà còn là nơi kí thác những tâm sự riêng tư, thầm kín.
3. Bàn luận và chứng minh
– Sách cho ta kiến thức. Đó chính là những kĩ năng, kĩ xảo, những hiểu biết của con người
trong cuộc sống, nơi lưu giữ tri thức toàn nhân loại được đúc kết qua hàng nghìn, hàng vạn

năm trong mỗi lĩnh vực của cuộc sống.
– Sách là kết tinh trí tuệ con người, không chỉ tác động vào tri thức mà còn ăn sâu vào tinh
thần, bồi dưỡng tâm hồn để ta biết cách sống đẹp, sống tốt và có ích. Đồng thời kết nối không
gian, thời gian, kết nối trái tim, tấm lòng con người, là chiếc cầu nối đưa ta từ thực tại ngược
dòng thời gian trở về quá khứ để chứng kiến những mốc son vàng lịch sử.
– Sách mở ra những câu chuyện, tác phẩm văn học thấm đẫm nhân văn để khiến ta khi đọc
phải có những suy ngẫm chính chắn hơn về cuộc đời. Trong khi từng khắc của dòng thời gian
bất tận trôi qua thì xã hội lại từng lúc một phát triển hơn. Từng bước đi lên vững chắc của xã
hội chính là nhờ vào kho tàng kiến thức nhân loại đã đúc kết từ bao đời nay, mà sách chính là
chiếc cầu tri thức đã nối giữa không gian này với không gian khác, giữa thời đại trước với
thời đại sau.
– Không có cách giải trí nào rẻ hơn đọc sách, cũng không có sự thú vị nào bền lâu hơn đọc
sách. Sách không chỉ giúp mở mang kiến thức mà còn đem đến nguồn hạnh phúc, sự thanh
thản cho tâm hồn. Chính nhờ có sách mà đôi khi, con người ta khám phá ra sức mạnh của bản
thân, tìm ra chân lí thiết thực cho con đường đời của chính mình, mở rộng thêm tầm hiểu biết
về thế giới xung quanh...
– Nhưng có điều, không phải sách nào cũng có ích. Loại sách vô ích đầu độc ý nghĩ con
người, xuyên tạc cuộc sống, làm chúng ta u mê, ngu muội thì hãy nên loại bỏ. Tuy đọc sách
nhiều nhưng phải biết gạn lọc mới chính là thái độ đọc sách đúng đắn.
– Hãy yêu quý, lựa chọn những loại sách giúp ta mở rộng kiến thức, bồi dưỡng tâm hồn, giúp
ta yêu cuộc sống, nó phải ca tụng sự nhân nghĩa, lòng bác ái – công bằng, vị tha thì mới chính
là hành trang của con người trong cuộc chinh phục những đỉnh cao hy vọng.
4. Bài học nhận thức và hành động
– Không một ai bước đi trên con đường thành đạt mà không song hành cùng kiến thức.
Không có kiến thức, con người sẽ trở nên vô dụng, lạc hậu, thấp kém trong một xã hội hiện
đại hóa như bây giờ.


– Sách là cây đèn thần soi sáng cho con người trên những nẻo đường xa xôi nhất và tăm tối
nhất của cuộc đời. Vì vậy ta phải yêu sách. Phải chăm chỉ đọc sách mà thực sự hiểu nó, đam

mê nó.
– Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống. Sách là kho
báu trí tuệ. Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau giữ gìn, phát huy những giá trị của sách, ứng dụng
sách vào đời sống để sách mãi là ngọn đèn soi sáng tâm hồn chúng ta trên bước đường đi tới
tương lai.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Mở bài
– Pu-skin từng viết: Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh
sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của
người cầm bút. Và nhà thơ Tố Hữu đã để tiếng lòng của mình cất lên, để linh hồn của tác
phẩm Việt Bắc bay lên và ngân rung trong lòng độc giả, Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc,
đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Một trong những yếu tố làm nên sức sống lâu bền
trong thơ Tố Hữu chính là tính dân tộc.
– GS. Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công
chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuần nhuyễn. Ông đã kế tục
truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà
tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật thể hiện. Với việc tìm hiểu tính dân tộc trong thơ
Tố Hữu chúng ta sẽ thấy được nỗi lòng của con người Việt Nam, thấy được bản sắc, hơi thở,
tinh thần của dân tộc Việt Nam.
– Để hiểu rõ hơn về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta nên tìm hiểu bài thơ tiêu biểu của
ông: Việt Bắc. Điều đó được thể hiện qua đoạn thơ sau:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
2. Thân bài


2.1. Khái quát chung
– Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Ông là một tượng đài về thể thơ lục
bát. Nhắc tới ông, người đọc liền nghĩ ngay tới Việt Bắc – một bản tình ca dạt dào cảm xúc để
lại trong lòng người đọc một cảm xúc khó diễn tả được. Mỗi câu thơ như vẽ ra một khung
cảnh rất đỗi bình dị của quê hương, đất nước, con người mà nơi ấy ân nghĩa, sự thủy chung
như làm điểm nhấn nổi bật trên tất cả. Bài thơ Việt Bắc cũng thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
– Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10 – 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về
lại Thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó
nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia
tay lưu luyến đó.
– Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm
quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc.
2.2. Giải thích
– Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn học. Tính
dân tộc trong thơ Tố Hữu trước hết được xem xét toàn diện từ sự mô tả cuộc sống và đấu
tranh độc đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam với truyền thống đạo đức, đặc
điểm tâm lí và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật thể thơ và nhạc điệu
mang đậm màu sắc dân tộc.
– Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh màu
sắc dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nội dung căn bản
của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời.
– Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại
truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biếu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể
hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình.
2.3. Làm rõ nhận định qua đoạn thơ

a. Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về Việt Bắc
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
– Tác giả sử dụng điệp ngữ hai lần "ta về". Cùng một thời điểm chia tay nhưng ở trên là hỏi
người, ở dưới là giãi bày lòng mình. Cặp từ "ta", "mình" được xưng hô như cách đối đáp giao
duyên của trai gái trong ca dao, dân ca khiến cho cuộc chia tay của người cán bộ và Việt Bắc
thành cuộc "giã bạn" của lứa đôi. "Ta" là người cán bộ kháng chiến, "mình" là nhân dân Việt


Bắc đang lưu luyến chia tay. Câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta" thể hiện sự lưu luyến của người
đi, kẻ ở.
– "Nhớ hoa" lá nhớ thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng làm đắm say lòng người. "Nhớ người" là
nhớ người dân Việt Bắc từng cưu mang, gắn bó, đồng cam cộng khổ với cán bộ cách mạng.
b. Bức tranh mùa đông
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
– Hoa chuối rừng đỏ như son nổi bật trên nền xanh bạt ngàn của lá. Sự tương phản của hai
màu "xanh", "đỏ" làm cho núi rừng bớt hoang vu, lạnh lẽo mà trở nên ấm áp hơn. Hoa chuối
là bông hoa có thật chứ không mông mênh chóng tàn như những loài hoa khác.
– Vượt qua mùa đông lạnh giá, con người lên nương, lên rừng. Nghệ thuật đảo ngữ "nắng
ánh" (động từ) là các luồng sáng của nắng chói lên bởi sự phản quang của lưỡi dao rừng thắt
trên lưng người dân khi họ đi khai thác lâm, thổ sản, Đó là cái đẹp rất đời thường, rất giản dị
của người lao động.
c. Bức tranh mùa xuân
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
– Hoa mơ tinh khôi, thanh khiết phủ trắng cả cánh rừng, gợi cảm giác choáng ngợp trước
cảnh thơ mộng. Âm điệu mạnh mẽ của hai chữ "trắng rừng" bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng, hạnh
phúc cùa con người. Một bài thơ khác, Tố Hữu cũng viết rất hay về mùa xuân của núi rùng
Việt Bắc:

Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.
(Xuân 41)
– Hình ảnh người lao động chuốt từng sợi giang rất nhịp nhàng, khoan thai. Động từ "chuốt"
là làm cho thật nhẵn sợi giang để đan nón. Hai từ "chuốt" và "từng" gợi tả đức tính cẩn thận,
tỉ mỉ, chịu thương chịu khó của người đan nón. Họ làm ra sản phẩm để phục vụ cho lao động
và còn để tặng cán bộ kháng chiến.
d. Bức tranh mùa hạ
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình


– Câu thơ sáu chữ xôn xao cả màu sắc lẫn âm thanh. Khi tiếng ve râm ran, cả một rừng phách
như hối hả, nhanh chóng thay màu, cùng đồng loạt "đổ vàng". Hai động từ "kêu" và "đổ" thế
hiện không khí rạo rực rất đặc trưng của mùa hạ. Đổ vàng là ngả vàng hàng loạt hoặc là cây
trút lá vàng. Hai câu thơ gợi nhắc ý thơ của Xuân Diệu:
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
(Thơ duyên)
– Hình ảnh người lao động: cô gái đi hái măng, khơi dậy trong ta những rưng động ngọt
ngào, sâu lắng. Đọc câu thơ, ta nghe như có tiếng nhạc ngân nga bởi nghệ thuật gieo vần lưng
(gái, hái) và điệp phụ âm đầu "m" (măng, một, mình). Cô gái say sưa lao động trong một
không gian vui tươi, trong trẻo. Sự hiện diện của cô gái càng tăng thêm nét duyên dáng, trẻ
trung cho bức tranh mùa hạ.
e. Bức tranh mùa thu
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
– Ánh trăng vàng êm dịu trải dài lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình, yên ả. Từ "hòa bình"

vừa khẳng định cuộc sống êm đềm, vừa nói đến sự thanh tĩnh của rừng khuya. Đêm trăng thu
huyền ảo nơi núi rừng Việt Bắc thấp thoáng ước mơ thầm kính về cuộc sống thanh bình êm ả.
– Trên cái nền gợi cảm ấy văng vẳng tiếng hát ân tình thủy chung của ai đó nghe thật bâng
khuâng, xao xuyến. Tiếng hát ấy chính là tấm lòng của người Việt Bắc, dù nghèo khó nhưng
suốt đời thủy chung với cách mạng.
g. Nhận xét chung
– Cũng trong đoạn thơ, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống lao
động và chiến đấu của nhân dân. Đó là hình ảnh "hoa mơ", "hoa chuối", "rừng xanh", "đèo",
"trăng rọi hòa bình"... hết sức nồng ấm và luôn ăn sâu trong tâm khảm của người Việt.
– Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng
hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc... Tiếng ve của
mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi
của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện
lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày.
2.4. Bình luận ý kiến
– Nhận định của tác giả Nguyễn Đăng Mạnh hoàn toàn xác đáng. Trước hết qua đoạn thơ,
trên phương diện nội dung ta thấy, phong cảnh thiên nhiên đất nước mang bản sắc Việt Nam.
Thiên nhiên không chi có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn riêng lẻ mà gắn


liền với quê hương đất nước với đời sống lao động và chiến đấu, với sinh hoạt với những vui
buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc được xem là một
trong những bức họa đẹp nhất của núi rừng con người Việt Bắc.
– Trên phương diện hình thức nghệ thuật, tính dân tộc trong nghệ thuật của thơ Tố Hữu
được thể hiện trong cách sử dụng ngôn ngữ, nhạc điệu, hình ảnh, thể thơ đậm đà tính dân tộc.
Lối cấu tứ, kết cấu giàu sắc thái ca dao, thể thơ dân tộc được vận dụng nhuần nhuyễn và sáng
tạo. Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Tính dân tộc trong ngôn ngữ được thể hiện một
cách đặc sắc trong đoạn thơ bức tranh tứ bình. Nhà thơ đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn
và sáng tạo cặp đại từ nhân xưng "mình", "ta" của ca dao xưa. Ở đầu đoạn thơ, cặp đại từ
"mình", "ta" được sử dụng một cách sinh động, linh hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa.

Cách xưng hô "mình", "ta" trong lời đối đáp vốn là cách xưng hô của những đôi bạn tình
trong ca dao tình yêu.
– Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu như lời đối đáp của một đôi trai gái
lúc xa nhau. Lục bát là thể thơ dân tộc, nó ăn sâu bắt rễ trong nhân dân mang cốt cách thuần
túy Việt Nam. Tố Hữu đã vận dụng điêu luyện sáng tạo thế thơ lục bát, mang âm điệu dịu
dàng duyên dáng của ca dao dân ca. Tiếng hát, tiếng ngâm, lời ru đã chắp cánh cho thơ Tố
Hữu bay đến mọi miền của đất nước. Thể thơ lục bát với những ưu thế của nó đã giúp tác giả
chuyển tải được những tình cảm thiết tha của cả người đi và kẻ ở trong buổi tiễn biệt.
– Tính dân tộc trong đoạn thơ còn thể hiện ở nhạc điệu, cách gieo vần. Âm điệu thơ cùa
Tố Hữu có đặc trưng riêng đó là sự ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đằm
thắm như lời ru của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Tố Hữu rất tài tình trong việc phối hợp các
âm thanh, từ ngữ, tiết tấu, vần điệu của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên một ngôn ngữ thơ giàu
nhạc điệu, chứa đựng cảm xúc dân tộc.
3. Kết bài
– Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố
Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc, Cảnh
và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen,
sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong
tâm hồn người cán bộ về xuôi.
– Mới mẻ nhưng cũng rất truyền thống. Với kết cấu cổ điển, thể thơ lục bát, đoạn thơ là
khúc hát ân tình, ân nghĩa, lời thơ gần gũi, đi vào lòng người muôn thế hệ, trở thành điệu hồn
chung của dân tộc. Có thế nói, đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất, tài hoa nhất
thấm đẫm tinh thần dân tộc trong bài Việt Bắc. Nó góp phần làm cho bài thơ xứng đáng là
viên ngọc sáng long lanh trong kho tàng văn học hiện đại Việt Nam.




×