Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Đề số 10 các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.81 KB, 14 trang )

Contents
Mở đầu.............................................................................................................................................1
Giải quyết vấn đề............................................................................................................................2
I. pháp luật về cạnh tranh và hạn chế cạnh tranh.......................................................................2
1.khái quát chung về hành vi hạn chế cạnh tranh.......................................................................2
2. các hành vi hạn chế cạnh tranh.................................................................................................3
2.1. hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.................................................................................3
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm...................................................................................3
2.2. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh.....................4
a. hành vi lạm dụng vị trí trống lĩnh thị trường.............................................................................4
b. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền.............................................................................................5
2.3. Tập trung kinh tế.....................................................................................................................6
II. các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh.....................................7
1. hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh....................................................................................7
a. cơ sở của việc miễn trừ đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh...............................7
b. Những trường hợp được miễn trừ............................................................................................9
2. hành vi tập trung kinh tế.........................................................................................................10
a. cơ sở của việc miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế....................................................10
b. Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm được hưởng miễn trừ........................................11
KẾT LUẬN...................................................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................13


Mở đầu
Với tư cách là công cụ pháp lý được sử dụng để loại bỏ các biểu hiện không lành
mạnh trên thị trường quốc gia, Luật Cạnh tranh (LCT) có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo vệ lành mạnh và khả năng phát triển tự thân của nền kinh tế nội địa, bảo
vệ quyền tự do kih doanh, khơi thông dòng chảy của cạnh tranh trên thị trường và
thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng, hiệu quả trên tinh thần phát
triển lợi thế so sánh của từng thị trường thành viên. Trên thực tế đã có nhiều hành
vi hạn chế cạnh tranh gây cản trở cạnh tranh, có khả năng gây thiệt hại cho thị


trường. Vì thế hành vi này đã được điều chỉnh bởi Luật canh tranh 2004. tuy nhiên
có những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm lại được hưởng miễn trừ. Đó là những
hành vi nào? Bài viết của em sẽ phân tích vấn đề đó.


Giải quyết vấn đề
I. pháp luật về cạnh tranh và hạn chế cạnh tranh
Có nhiều cách hiểu khác nhau về cạnh tranh, song có thể hiệu cạnh tranh là
sự ganh đua để giành ưu thế về phía mình. Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với
kinh tế thị trường. Với tư cách là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế, cạnh
tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường dưới những tiền đề kinh tế
và pháp lý nhất định. Về phương diện kinh tế, cạnh tranh được hình thành trên cơ
sở tiền đề: các yếu tố của sản xuất( tài nguyên, chất xám, sức lao động,..) đều là
hàng hóa, có sự tham gia của các thành viên trên thương trường có lợi ích cơ bản là
mâu thuẫn nhau trên một thị trường hàng hóa cụ thể. Về phương diện pháp lý, cạnh
tranh chỉ có thể diễn ra trong điều kiện quyền tự do thương mại, tự do khế ước,
quyền tự chủ của các cá nhân hình thành và đảm bảo, pháp luật thừa nhận và bảo
hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu. Cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi không có
bất kỳ một quy định hay một hành vi nào ngăn cản sự nhập cuộc của các doanh
nghiệp tiềm năng.
1.khái quát chung về hành vi hạn chế cạnh tranh
Khái niệm: Là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh
tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí trí độc quyền và tập trung kinh tế.Có 2
nhóm hành vi:
* Nhóm 1: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường. Nhóm này thực hiện hành vi có bản chất và mục đích hạn chế cạnh tranh.
Do có hành vi nên nó có đối tượng hướng đến, đối tượng này gồm các doanh
nghiệp khác hoặc người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại nên nó gây thiệt hại
cho một đối tượng cụ thể. Đối với nhóm này ta dùng cơ chế xử lý vi phạm.



* Nhóm 2: Tập trung kinh tế. Nhóm hành vi này xuất phát từ 1 quyền hợp
pháp của doanh nghiệp.Và bởi vì xuất phát từ quyền hợp pháp của doanh nghiệp
nên nó không có đối tượng hướng đến nhưng có thể làm thay đổi cấu trúc của thị
trường. Đối với nhóm này ta dùng cơ chế giám sát.
2. các hành vi hạn chế cạnh tranh
2.1. hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Khái niệm :Luật và các văn bản hướng dẫn không trực tiếp nêu khái niệm về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên theo cách tiếp cận của khoản 3 Điểu 3
Luật cạnh tranh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được hiểu là thỏa thuận giữa
hai hoặc nhiều doanh nghiệp nhằm mục đích làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh
trên thị trường.
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
Nhóm thỏa thuận bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa
thuận chiếm từ 30%
>>>Thoả thuận ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
>>>Thoả thuận phân chia thị trường
>>>Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán
>>>Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư
>>>Thoả thuận áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng hoặc buộc chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng hợp đồng
Điều 14 -18 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định cụ thể về các dạng
thỏa thuận này.


Theo quy định tại khoản 2, Điều 9, Luật cạnh tranh các thỏa thuận dạng này
chỉ bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa thuận chiếm từ 30% trở
lên và có thể được miễn trừ theo quy định tại Điều 10, Luật cạnh tranh.
Nhóm thỏa thuận bị cấm trong mọi trường hợp

>>>Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
>>>Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thoả thuận;
>>>Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Các thỏa thuận dạng này bị cấm trong mọi trường hợp và không được miễn
trừ.
2.2. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh
Khái niệm: Là hành vi được quy định tại Điều 13, Điều 14 LCT do doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường hoặc có vị trí độc quyền thực hiện nhằm
mục đích bóc lột hoặc ngăn cản, loại bỏ đối thủ cạnh tranh.
a. hành vi lạm dụng vị trí trống lĩnh thị trường
Theo Điều 11 Luật Cạnh tranh, vị trí thống lĩnh trên thị trường được xác định
dựa trên thị phần hoặc khả năng gây hạn chế cạnh tranh của một doanh nghiệp hoặc
một nhóm doanh nghiệp. Theo đó, Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng
gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Một nhóm doanh nghiệp cũng có thể
được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế
cạnh tranh và thuộc một trong các trường hợp tại khoản 2 Điều 11 LCT.


Việc xác định doanh thu, doanh số, thị phần của doanh nghiệp trên thị trường
liên quan được quy định chi tiết trong Điều 10, 11, 12 và 13 của Nghị định
116/2005/NĐ-CP.
Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của doanh nghiệp trên thị
trường liên quan được xác định trên cơ sở xem xét các yếu tố quy định tại Điều 22
Nghị định 116/2005/NĐ-CP
Các hành vi bị cấm theo Luật Cạnh tranh
Điều 13 của Luật Cạnh tranh cấm tất cả các hành vi lạm dụng vị trí thống

lĩnh thị trường. Các hành vi này bao gồm:
>>>Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh
>>>Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng
>>>Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở
sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng
>>>Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo
bất bình đẳng trong cạnh tranh
>>>Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng
>>>Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới
b. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền


Theo Điều 12 Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền
nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp
đó kinh doanh trên thị trường liên quan
Về bản chất, doanh nghiệp có vị trí độc quyền là doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh nắm giữ 100% thị phần trên thị trường liên quan. Do đó, các hành vi lạm dụng
vị trí độc quyền bị cấm bao gồm toàn bộ các hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường. Ngoài ra, Điều 14 Luật cạnh tranh còn quy định thêm
hai hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm như sau:
>>>Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
>>>Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng đã
giao kết mà không có lý do chính đáng.
Quy định cụ thể về các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm được đưa ra tại
các Điều 23-33 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP.
2.3. Tập trung kinh tế

Khái niệm: Luật Cạnh tranh không đưa ra định nghĩa về tập trung kinh tế mà
chỉ liệt kê các loại hình hành vi. Cụ thể, Điều 16 Luật cạnh tranh quy định tập trung
kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: (i) sáp nhập doanh nghiệp; (ii) hợp
nhất doanh nghiệp; (iii) mua lại doanh nghiệp; (iv) liên doanh giữa các doanh
nghiệp; (v) các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật. Điều 17, đưa ra
định nghĩa cho từng hành vi như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp
khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.


Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ
tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh
nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần
tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành
nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng
nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình
thành một doanh nghiệp mới.
Vi phạm quy định của pháp luật về tập trung kinh tế có thể bao gồm:
_ Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế
_ Tập trung kinh tế trước khi có quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan
có thẩm quyền
_ Vi phạm quy định cấm tiến hành tập trung kinh tế
II. các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
1. hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
a. cơ sở của việc miễn trừ đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Việc xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh luôn đòi hỏi Nhà nước cần cẩn
trọng

bởi thực tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy không phải mọi thỏa thuận đều
gây hại cho thị trường. Theo đó, các quy định về việc miễn trừ đối với thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh được xây dựng trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
 Quyền tự do kinh doanh
Tự do kinh doanh luôn bao hàm trong nó quyền được khế ước và lập hội. Các


chủ thể tham gia thị trường hoàn toàn có quyền chủ động trong việc liên kết để thiết
lập và thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình một cách hiệu quả. Công
quyền và pháp luật không những không được can thiệp mà còn phải xây dựng các
cơ chế bảo hộ cho những hoạt động nói trên.
Với tư cách là lực lượng bảo vệ công lý và lẽ phải, Nhà nước và pháp luật chỉ
có thể can thiệp vào sự tự do khi hành vi của một nhóm người là nguy cơ đe doạ sự
tự do, quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Khi sự liên kết của các doanh
nghiệp tạo ra khả năng xâm hại lợi ích của doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng
và của thị trường, pháp luật cần có các biện pháp để ngăn chặn và trừng phạt.
 Sự cân xứng về các lợi ích mà pháp luật bảo vệ
Dưới góc độ tác động đối với cạnh tranh, các thỏa thuận luôn có tính hai mặt.
Theo đó, ngoài những khả năng gây hại cho cạnh tranh, nhiều thỏa thuận không có
khả năng gây hại, hoặc bên cạnh khả năng gây ra nhiều tác hại làm giảm cạnh
tranh, nhiều thoả thuận còn đem lại nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của thị
trường. Vì vậy, pháp luật của các nước đều đòi hỏi người thực thi phải luôn cân
nhắc và tính toán đến mọi khả năng có thể xảy ra để có thái độ trừng phạt hay cho
phép thực thi các thỏa thuận trên thực tế. Có những trường hợp, cơ quan thực thi
pháp luật cần xem xét sự cân xứng giữa lợi ích mà thỏa thuận đem lại với thiệt hại
có thể gây ra cho thị trường để đưa ra quyết định cuối cùng về việc trừng phạt hay
cho phép thỏa thuận.
Pháp luật của các nước sử dụng quy tắc hợp lý để đánh giá sơ bộ về tác động
của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm giới hạn phạm vi áp dụng của các quy định
cấm. Quy tắc hợp lý cho phép loại bỏ việc áp dụng các quy định cấm đối với những

thõa thuận vừa có hệ quả tích cực đối với cạnh tranh, vừa có hậu quả phản cạnh
tranh nếu như hệ quả tích cực nhiều hơn hệ quả phản cạnh tranh. Do đó mục II
chương III củaLuật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế,
hoặc trong điều 81 (3) Hiệp ước Rome của Cộng đồng châu Âu quy định “những


thỏa thuận bị cấm tại khoản 1 có thể được tuyên bố miễn áp dụng nếu thỏa thuận đó
góp phần cải thiện sản xuất hay phân phối hàng hóa, hay khuyến khích ứng dụng
tiến bộ kinh tế, kỹ thuật, trong khi cho phép người tiêu dùng hưởng lợi một cách
tương ứng.
b. Những trường hợp được miễn trừ
Theo quy định tại Điều 10 Luật Cạnh tranh, những thỏa thuận sau đây được
xếp vào đối tượng có thể được hưởng miễn trừ:
- Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
- Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng
dịch vụ;
- Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng
hoá, dịch vụ;
- Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
- Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
Các thỏa thuận nói trên sẽ được hưởng miễn trừ nếu như đáp ứng một trong
các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng:
a) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
b) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ;
c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật
của chủng loại sản phẩm;
d) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên
quan đến giá và các yếu tố của giá;



đ) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
e) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Để được hưởng miễn trừ đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định
tại khoản 1 Điều 10 các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ hưởng miễn trừ tới Cục quản
lý cạnh tranh Bộ Công thương. Trình tự, thủ tục, thời hạn miễn trừ được thực hiện
theo quy định tại Mục 4 Chương II Luật Cạnh tranh.
2. hành vi tập trung kinh tế
a. cơ sở của việc miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế
Dưới góc độ của pháp luật doanh nghiệp sáp nhập doanh nghiệp được nhìn
nhận bằng việc một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị sáp
nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập)
bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công
ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập. Trong
giao dịch sáp nhập, ngoài việc phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp,
các doanh nghiệp liên quan còn phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh
với tư cách là mảng pháp luật kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Lí do đặt ra khi tiến hành các giao dịch mua bán, sáp nhập, các doanh nghiệp
tham gia vào giao dịch đã làm thay đổi cấu trúc cạnh tranh trên thị trường. Kết quả
là số lượng doanh nghiệp trên thị trường bị giảm xuống. Mặt khác hành vi sáp nhập
doanh nghiệp sẽ làm hình thành nên một doanh nghiệp có tiềm lực bằng tổng các
doanh nghiệp tham gia sáp nhập cộng lại. Cũng chính vì vậy, nhằm bảo đảm cho
cấu trúc cạnh tranh của thị trường, phải đặt ra nhu cầu kiểm soát các hành vi mua
bán, sáp nhập doanh nghiệp. Cụ thể, theo qui định tại điều 18 của luật cạnh tranh
“Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan”. Như vậy, yếu tố thị phần


là yếu tố duy nhất để xem xét một giao dịch mua bán sáp nhập có phải là giao dịch

bị cấm hay không.
Nhưng không phải mọi trường hợp các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp đều có hại cho cạnh tranh trên thị trường mà trong một số trường hợp những
giao dịch này cũng mang lại những lợi ích nhất định. Những lợi ích đó có thể là kết
quả của các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp góp phần giúp cho một bên
của giao dịch thoát khỏi nguy cơ bị phá sản, hoặc nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp quốc nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế…
b. Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm được hưởng miễn trừ
Các trường hợp miễn trừ theo qui định của pháp luật cạnh tranh Việt nam đối
với các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp bị cấm đó là:
1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể
hoặc lâm vào tình trạng phá sản;
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển
kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ
Tuy vậy cần phải thấy rằng cơ chế miễn trừ không đương nhiên áp dụng đối
với các giao dịch mua bán sáp nhập doanh nghiệp bị cấm khi các giao dịch này
thỏa mãn các điều kiện được qui định tại điều 19 của luật cạnh tranh. Đó chỉ là
những tiêu chí để cơ quan cạnh tranh của Việt nam xem xét khi có đơn xin hưởng
miễn trừ của các doanh nghiệp
Đối với trường hợp một, khi một bên hay nhiều bên đang trong nguy cơ giải
thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản tham gia vào tập trung kinh tế là nhằm cơ cấu
lại doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp ra khỏi tình trạng khó khăn. Luật cạnh tranh
quy định miễn trừ đối vơí trường hợp này là phù hợp với thông lệ quốc tế trong lĩnh
vực pháp luật cạnh tranh và pháp luật phá sản , theo đó pháp luật phá sản ưu tiên
việc cứu doanh nghiệp hơn là xóa sổ nó.


Đối với trường hợp hai, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập,
chúng ta phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp nước
ngoài . Việc các doanh nghiệp liên kết lại với nhau để tăng sức cạnh tranh, phát

triển năng lực sản xuất, năng lực xuất khẩu là vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, pháp
luật quy định miễn trừ đối với trường hợp tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng
xuất khẩu hoặc góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội , tiến bộ khoa học- kỹ thuật, công
nghệ là phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn hiện nay
Theo quy định tại Điều 20 Luật Cạnh tranh thì trong trường hợp các doanh
nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên
quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan
quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Trường hợp thị phần kết
hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị trường
liên quan hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn
thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật thì không phải
thông báo.
Đối với các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế được hưởng miễn trừ
quy định tại Điều 19 của Luật này nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ theo quy định
tại Mục 4 Chương này thay cho thông báo việc tập trung kinh tế
KẾT LUẬN
Với vai trò đảm bảo duy trì cạnh tranh trên thị trường, Luật cạnh tranh luôn
quan tâm đến việc cấm đoán mọi hành vi có khả năng làm tổn hại đến trật tự hoặc
mức độ cạnh tranh. Bên cạnh những hành có tác động tiêu cực đó thì vẫn có những
hành vi có tác động tích cực đến sản xuất , kinh doanh và những hành vi đó đã
được hưởng miễn trừ theo Luật cạnh tranh. Điều đó góp phần tạo cơ hội cho những
doanh nghiệp phát huy khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật cạnh tranh, trường Đại học Luật Hà Nội.

2.


Giáo trình Luật cạnh tranh . Đại học kinh tế luật – Đại học Quốc gia thành

phố Hồ Chí Minh.
3.

Đỗ Tuyết Nhung, Pháp luật điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh- Khóa

luận tốt nghiệp,KT27A
4.

Luật Cạnh tranh 2004

5.

/>
6.

/>
%E1%BB%A9-mi%E1%BB%85n-tr%E1%BB%AB-d%E1%BB%91i-v%E1%BB
%9Bi-cc-giao-d%E1%BB%8Bch-mua-bn-sp-nh%E1%BA%ADp-doanh-nghi
%E1%BB%87p-b%E1%BB%8B-c%E1%BA%A5m-t/

Các trường hợp được miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo
Luật cạnh tranh 2004



×