Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Hành vi hạn chế cạnh tranh một số vụ việc điển hình của Châu Âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.83 KB, 63 trang )














HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH

MỘT SỐ VỤ VIỆC ĐIỂN HÌNH CỦA CHÂU ÂU





















1

LỜI GIỚI THIỆU


Từ khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực ngày 01/7/2005 đến nay, ở Việt Nam mới chỉ
có một số vụ điều tra và xử lý hạn chế cạnh tranh. Số liệu này chưa chứng tỏ rằng môi
trường cạnh tranh tại Việt Nam là hiệu quả và lành mạnh. Một điều rất rõ ràng là dù Luật
Cạnh tranh đã có hiệu lực được 4 năm như
ng nhận thức và hiểu biết về Luật Cạnh tranh
vẫn chỉ giới hạn trong một số ít người mà chưa lan tỏa đến từng doanh nghiệp trong điều
kiện cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam không chỉ phải mở rộng hoạt động kinh doanh
trên thị trường nội địa mà còn cả trên thị trường quốc tế.

Trong một môi trường kinh doanh ngày càng trở nên phẳng, pháp luật cạnh tranh
đ
ã trở thành một công cụ quan trọng bổ sung cho pháp luật thương mại trong việc điều
tiết các hành vi kinh doanh của doanh nghiệp. Nói một cách khác, các lợi ích mà hệ thống
thương mại đa phương, các thỏa thuận thương mại tự do đem lại sẽ dễ dàng bị triệt tiêu
nếu các hành vi hạn chế cạnh tranh được phép tồn tại. Điều này lý giải một thực tế là cho
dù Tổ chức Th
ương mại Thế giới (WTO) chưa có một hiệp định về cạnh tranh đa phương
nhưng hầu hết các quốc gia thành viên của WTO đều có Luật Cạnh tranh.

Để góp phần cảnh báo cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, chúng tôi luôn khuyến

khích các nỗ lực phổ biến pháp luật cạnh tranh từ các khía cạnh và góc nhìn khác nhau.
Cuốn sổ tay này cũng là một nỗ lực như vậy. Nội dung của cuốn sổ tay sẽ cung c
ấp một
cách giải thích về pháp luật cạnh tranh ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn sinh động và dễ hiểu
thông qua các ví dụ minh họa là các vụ việc cạnh tranh cụ thể. Mặc dù đối tượng chủ yếu
được hưởng lợi sẽ là cộng đồng doanh nghiệp nhưng với những nội dung hiện tại, đây
cũng có thể được coi là cuốn sổ tay cho những luật sư đã và đang nghiên c
ứu về pháp luật
cạnh tranh hay những học giả, cán bộ giảng dạy có quan tâm.

Hà Nội, tháng 10 năm 2009








PGS.TS. Lê Danh Vĩnh
Thứ trưởng Bộ Công Thương
Chủ tịch Hội đồng Cạnh tranh
2

LỜI MỞ ĐẦU


Việc xuất bản cuốn sổ tay "Hành vi hạn chế cạnh tranh: Một số vụ việc điển hình của
châu Âu" nằm trong khuôn khổ hoạt động của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (EU -
Việt Nam MUTRAP III). Mục đích của Dự án là tăng cường năng lực của Bộ Công

Thương (BCT) trong việc xây dựng và thực hiện chiế
n lược hội nhập kinh tế và thương
mại của Việt Nam, trong đó có hợp phần 5 mang tên "Tăng cường năng lực của các bên
liên quan đến chính sách cạnh tranh nhằm bảo đảm một sân chơi bình đẳng và công bằng
cho mọi doanh nghiệp, bảo vệ người tiêu dùng thông qua việc thực thi Luật Cạnh tranh".

Mục tiêu của cuốn sổ tay này là phân tích các vụ việc cụ thể để chỉ ra tác hại của hành vi
hạn ch
ế cạnh tranh cũng như lợi ích của việc thực hiện thành công chính sách cạnh tranh
phù hợp. Sau khi trao đổi với một số tổ chức, cá nhân liên quan như Hội đồng Cạnh tranh
(VCC), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ
người tiêu dùng (VINASTAS), một số thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao, đại diện
của Bộ Tư pháp… các chuyên gia thống nhất sử dụng án lệ của Liên minh châu Âu (EU)
và các nước thành viên EU làm ví dụ minh h
ọa. Tham chiếu đến nguồn án lệ của EU tập
trung vào các hành vi hạn chế cạnh tranh cơ bản, không đề cập đến các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh.
1


Án lệ EU rất phù hợp để làm ví dụ minh họa cho Việt Nam vì nền kinh tế của các nước
thành viên EU – đặc biệt là các nước Đông Âu – có tình trạng phổ biến là sự hiện diện
mạnh mẽ của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và các doanh nghiệp độc quyền
nhà nước.

Cuốn sổ tay này được chia thành ba chương. Chương I giới thiệu về pháp luật cạnh
tranh, nêu ngắn gọn h
ọc thuyết kinh tế cơ sở của pháp luật cạnh tranh, xác định và nghiên
cứu các nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh thông thường, mô tả, về nguyên tắc, các lợi ích
trong việc thực hiện đúng các nguyên tắc cạnh tranh, được công nhận bởi các nước phát

triển và đang phát triển trên thế giới. Ngoài ra, các chuyên gia đưa ra nhận định tổng quát
về pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, gồm cả pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Ch
ương
II xem xét các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Những thỏa thuận này thông thường được
xác định là các thỏa thuận giữa các chủ thể cạnh tranh trực tiếp (các thỏa thuận ngang
)
tác động tiêu cực đến cạnh tranh như là các cartel và các hành vi gian lận thầu (bid-
rigging). Ngoài ra, các chuyên gia cũng dẫn chiếu ngắn đến các thỏa thuận dọc,
tác động
tiêu cực đến cạnh tranh.
2
Cuối cùng, Chương III xem xét các hành vi tập trung kinh tế


1

Khác với pháp luật cạnh tranh của EU, pháp luật cạnh tranh Việt Nam cấm (i) các hành vi hạn chế cạnh
tranh và (ii) các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các qui định pháp luật điều chỉnh hai loại hành vi
này có những đặc điểm rất khác nhau. Các quy định pháp luật cấm hành vi hạn chế cạnh tranh nhằm mục
đích bảo vệ cạnh tranh bằng cách loại bỏ các sai phạm trên thị trường. Trong khi đó, các quy định cấm
hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yế
u điều chỉnh các quan hệ giữa một số ít các tổ chức kinh doanh.
Các hành vi này chỉ gây hại đến một số tổ chức kinh doanh có liên quan mà không ảnh hưởng đến toàn bộ
thị trường. Cuốn sổ tay này sẽ chỉ xem xét các vấn đề liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh.

2
Thuật ngữ “các thỏa thuận dọc” đề cập đến các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp thực hiện hoạt động
kinh doanh ở các cấp độ khác nhau của nền kinh tế (các doanh nghiệp này không phải là đối thủ cạnh tranh
của nhau), ví dụ như nhà cung cấp và bên mua sản phẩm. Trong một số trường hợp những thỏa thuận như
3


hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
3
Chương này đề cập ngắn gọn
đến phương pháp thường được áp dụng bởi các cơ quan quản lý cạnh tranh để xác định vị
trí thống lĩnh thị trường và các trường hợp có sử dụng hoặc có khả năng sử dụng vị trí
thống lĩnh bất hợp pháp. Chương này cũng đưa ra một số vụ việc về các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh đượ
c thực hiện bởi các doanh nghiệp nhà nước độc quyền hoặc
được nhà nước trao cho một số quyền đặc biệt.

Trước khi trao đổi về các chủ đề này cần lưu ý ba điểm quan trọng. Trước hết, pháp luật
cạnh tranh là pháp luật kinh tế và do đó kiến thức về kinh tế là yêu cầu bắt buộc để nắm
bắt được chủ đề này. Chương I giải thích học thuyế
t cơ sở của cạnh tranh hoàn hảo,
nhưng còn rất nhiều điểm cần tìm hiểu trong nội dung này.
4
Thứ hai, pháp luật cạnh tranh
sử dụng rất nhiều thuật ngữ cụ thể có cùng nghĩa với các khái niệm pháp lý và kinh tế đã
được xây dựng, ví dụ, “cartel”, “quyền lực thị trường”, “các rào cản gia nhập thị trường”,
v.v. Các chuyên gia đã giải thích ngắn gọn một số khái niệm chính trong cuốn sổ tay này,
những khái niệm đó đã được gạch chân để bạn đọc lưu ý. Tuy nhiên, để có thêm thông tin
chi tiết,
đề nghị tham khảo thêm Bảng chú giải các thuật ngữ được sử dụng trong chính
sách cạnh tranh của EU.
5
Lưu ý cuối cùng là để một quyết định có giá trị như tiền lệ
pháp lý phụ thuộc rất nhiều vào khả năng đưa ra các bằng chứng tương tự. Do đó, pháp
luật về cạnh tranh nên được thực thi theo hướng, đặc biệt với luật sư và thẩm phán, tiếp
cận tùy theo từng vụ việc cụ thể và việc tham chiếu đến các tiền lệ không phải là vấn đề


nguyên tắc mà cần phải xem xét các tình tiết của các vụ việc có tương tự hay không.

Cuốn sổ tay này hướng tới đối tượng là những người liên quan trực tiếp đến hoạt động
thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam cũng như các cá nhân, tổ chức liên quan trực
tiếp khác. Những đối tượng này bao gồm cán bộ của các cơ quan cạnh tranh, các cơ quan
hành pháp khác của Việt Nam (trong lĩnh vực viễn thông, n
ăng lượng, vận tải, bưu chính,
bảo hiểm và ngân hàng…), thẩm phán, luật sư, nhà nghiên cứu và các tổ chức, cá nhân
kinh doanh…



vậy tác động tiêu cực đến cạnh tranh, ví dụ khi nhà cung cấp ấn định giá bán lại của bên mua nhằm hạn chế
khả năng bên mua giảm giá bán cho khách hàng của bên mua (ấn định giá bán lại
).
3
Thuật ngữ “tập trung kinh tế” đề cập đến các thoả thuận tài chính theo đó hai hay nhiều doanh nghiệp độc
lập quyết định kết hợp sức mạnh kinh tế của họ lại vào cùng một tổ chức duy nhất thông qua phương thức
mua lại, sáp nhập hoặc liên doanh. Thuật ngữ “lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
” để chỉ hành vi của một
doanh nghiệp có khả năng khống chế thị trường (thống lĩnh đơn nhất
) và quyết định “lạm dụng” khả năng
khống chế thị trường đối với khách hàng của mình hoặc các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, hành vi lạm dụng được thực hiện bởi một vài doanh nghiệp không có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu đứng riêng rẽ, nhưng thông qua các hoạt động hợp tác, các doanh nghiệp này có được vị trí
thống lĩnh thị trường và l
ạm dụng khả năng khống chế thị trường của mình làm ảnh hưởng đến chi phí của
khách hàng và đối thủ cạnh tranh (thống lĩnh nhóm – collective dominance
).

4
Để có thêm thông tin chi tiết, đề nghị xem Chính sách Chống Độc quyền và Tổ chức Công nghiệp của
Asch (Wiley bản sửa đổi, 1983), Chương 1: Hoạt động Kinh tế và Cấu trúc Thị trường Công nghiệp của
Scherer và Ross (Houghton Mifflin, bản sửa đổi lần thứ 3, 1990), Chương 1 và 2: Các Nguyên tắc của Nền
Kinh tế của Lipsey và Chrystal (Nhà Xuất bản Đại học Oxford, bản sửa đổi lần thứ 9, 1999), Chương 9:
Nền Kinh tế Cạnh tranh của Peeperkorn và Metha, Chương 1 trong Luật EC về Cạnh tranh của Faull và
Nikpay (Nhà Xuất bản Đại học Oxford, 1999).
5
Xem ec.europa.eu/competition/publications/glossary.
4

Cuối cùng, dự án hy vọng rằng cuốn sổ tay này sẽ mang lại những nội dung bổ ích, đóng
góp vào việc nâng cao nhận thức tại Việt Nam về pháp luật cạnh tranh và các hành vi hạn
chế cạnh tranh.

Thay mặt Ban Đặc trách Dự án EU-Việt Nam MUTRAP III,

Giám đốc Tư vấn trưởng EU






Nguyễn Thị Hoàng Thúy Claudio Dordi




5


Biên soạn:

1. Ông Hubert Alphonse Claude Marie Grandval, Chuyên gia giải quyết vụ việc, Hội
đồng Cạnh tranh Pháp, Chuyên gia tư vấn Dự án EU – Việt Nam MUTRAP III
2. Ông Andrea Filippo Gagliardi, Luật sự điều hành, Công ty Luật Antitrust
International Srl, Chuyên gia tư vấn Dự án EU – Việt Nam MUTRAP III
3. Ông Hoàng Xuân Bắc, Phó Vụ trưởng, Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương, Thành
viên Hội đồng Cạnh tranh, Chuyên gia tư vấn Dự án EU – Việt Nam MUTRAP
III
4. Bà Diệp Hoài Nam, Luật sư, Công ty Luật YKVN, Chuyên gia tư vấn Dự
án EU
– Việt Nam MUTRAP III

Hiệu đính:

1. Bà Đinh Thị Mỹ Loan, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Bán lẻ Việt
Nam, Chuyên gia tư vấn Dự án EU – Việt Nam MUTRAP III
2. Ông Trần Hữu Huỳnh, Luật sư, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam
3. Ông Nguyễn Sinh Nhật Tân, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương
4. Bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Phó Vụ trưởng, V
ụ Chính sách thương mại đa biên,
Bộ Công Thương, Giám đốc Dự án EU – Việt Nam MUTRAP III
6

CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU VỀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH

Pháp luật cạnh tranh có thể được định nghĩa là khung pháp lý tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp, khi tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường, được cạnh tranh một cách tự
do, công bằng và mạnh mẽ. Cơ sở của pháp luật cạnh tranh dựa trên mô hình kinh tế
thuần túy được biết đến như là học thuyết về cạnh tranh hoàn hảo
. Nội dung của học
thuyết này là nếu các doanh nghiệp được phép cạnh tranh lẫn nhau để giành khách hàng
và thị trường mới, mà không vi phạm bất kỳ qui định pháp lý nào, việc cạnh tranh của
các doanh nghiệp sẽ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn với giá thành thấp hơn.
6

Kết quả là,chỉ có những doanh nghiệp hiệu quả nhất có thể tồn tại trong khi các doanh
nghiệp kém hiệu quả sẽ bị phá sản. Lợi ích lớn nhất của cạnh tranh là người tiêu dùng
phải trả ít tiền hơn cho các sản phẩm tốt hơn (lợi ích của khách hàng
).

Đối lập với cạnh tranh hoàn hảo là khi thị trường bị tập trung và nằm trong tầm kiểm soát
của một doanh nghiệp, có thể là một nhà cung cấp sản phẩm (độc quyền bán
) hoặc một
người mua sản phẩm (độc quyền mua
). Do khách hàng của doanh nghiệp độc quyền
không có lựa chọn khác nên doanh nghiệp không cần phải đưa ra các mức giá ưu đãi hoặc
cung cấp các sản phẩm chất lượng tốt hơn. Vấn đề tương tự phát sinh, tuy ở mức độ thấp
hơn, khi thị trường nằm trong tay của một số ít các doanh nghiệp (độc quyền nhóm bán
),
do các doanh nghiệp này thấy rằng họ có thể đạt được lợi nhuận cao hơn nếu áp dụng các
chiến lược thương mại chung với các đối thủ của mình (hành vi định giá tương đồng
),
thiết lập cùng mức giá các sản phẩm thay vì tham gia vào cuộc chiến về giá.
7



Như đã trình bày, chúng ta phải công nhận rằng các trao đổi nêu trên liên quan đến một
mô hình kinh tế đơn giản.
8
Trong thực tế, pháp luật cạnh tranh có thể được áp dụng cho
các thị trường với cấu trúc nằm ở vị trí trung gian giữa cạnh tranh hoàn hảo và độc
quyền.
9
Hơn nữa, hoàn toàn tự nhiên nếu một thị trường có cấu trúc độc quyền (độc
quyền thực tế)
10
và có một số trường hợp khi độc quyền bán/độc quyền mua hình thành


6
Trong cuốn sổ tay này, thuật ngữ “sản phẩm” được sử dụng bao gồm cả “dịch vụ”.
7
Ví dụ, đây là hành vi thường thấy của các doanh nghiệp cung cấp xăng và gas.
8
Học thuyết về cạnh tranh hoàn hảo giả định rằng không thể buộc bất kỳ chủ thể nào tốt hơn lên mà không
làm cho một số chủ thể khác yếu kém đi. Học thuyết này chỉ ra rằng chi phí sản xuất luôn ở mức thấp nhất
có thể (hiệu quả sản xuất
) và giá sẽ không bao giờ vượt quá chi phí biên (nghĩa là, chi phí tạo thêm một đơn
vị sản phẩm; hiệu quả phân bổ
). Ngoài ra, học thuyết này cũng chỉ ra rằng các sản phẩm luôn luôn tương
đồng, và người tiêu dùng luôn được thông báo về giá của các sản phẩm và bất kỳ doanh nghiệp nào đều có
thể tự do gia nhập và rời khỏi thị trường mà không phải gánh chịu bất kỳ chi phí phát sinh nào. Cuối cùng,
học thuyết về cạnh tranh hoàn hảo không xét đến các chi phí phát sinh từ “các yếu tố ngoại hưởng” như ảnh
hưởng của sản phẩm đố
i với môi trường hoặc sức khỏe của cộng đồng.
9

Trong thực tế, các doanh nghiệp cạnh tranh sẽ cố gắng tạo ra sự khác biệt cho các sản phẩm của mình
nhiều nhất có thể để ngăn khách hàng chuyển sang các đối thủ cạnh tranh. Do đó, các sản phẩm khá phân
biệt. Bên cạnh việc cạnh tranh về giá cả và chi phí, các doanh nghiệp sẽ cố gắng thiết lập các rào cản gia
nhập thị trường thông qua việc đầu tư vào công nghệ (sáng chế, nhãn hiệu, bản quyề
n, bí mật thương mại)
hoặc quảng cáo. Cuối cùng, các doanh nghiệp muốn rời khỏi thị trường thường phải chịu những chi phí
“ngầm” (đó là các chi phí không thể thu hồi, ví dụ, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng đặc thù).
10
Ví dụ, đối với thị trường cung cấp hạ tầng viễn thông và mạng lưới truyền tải điện hoặc dịch vụ vận tải
cảng hoặc đường sắt, thông thường là những tài sản của duy nhất một doanh nghiệp.
7

qua quá trình cạnh tranh “dựa trên năng lực”
11
hoặc để đáp ứng các lợi ích công cộng
được trao cho các doanh nghiệp nhà nước hoặc do pháp luật quy định (độc quyền theo
pháp luật).
12
Mặc dù vậy, một trong các mục tiêu quan trọng nhất của pháp luật cạnh
tranh là bảo đảm khách hàng có đủ khả năng để lựa chọn trên thị trường mà không bị lệ
thuộc vào sự lạm dụng quyền lực thị trường (khả năng khống chế thị trường
) của một
hoặc một số ít doanh nghiệp.

Để đạt được mục tiêu của mình, pháp luật cạnh tranh xem xét ba nhóm hành vi hạn chế
cạnh tranh, được thảo luận chi tiết tại Chương II (Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh) và
Chương III (Tập trung kinh tế và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường):

- Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: là các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp cạ
nh

tranh nhằm ấn định giá hoặc sản lượng hoặc phân chia thị phần, khách hàng – thường
được biết đến dưới tên gọi cartel – hoặc các thỏa thuận theo đó các bên tham gia đấu thầu
ấn định giá bỏ thầu hoặc thỏa thuận trước doanh nghiệp sẽ thắng thầu – thường được biết
đến dưới dạng đấu thầu thông đồng
. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng bao gồm cả
các thỏa thuận dọc có tác động tiêu cực đến cạnh tranh như thỏa thuận ấn định giá bán lại
một sản phẩm nhằm ngăn cản nhà phân phối cung cấp các ưu đãi cho các khách hàng.

- Tập trung kinh tế hạn chế cạnh tranh: là các thoả thuận tài chính theo đó hai hay
nhiều doanh nghiệp độc lập quyết định kết hợp s
ức mạnh kinh tế của họ với nhau thành
một tổ chức duy nhất thông qua phương thức mua lại, sáp nhập hoặc liên doanh làm ảnh
hưởng tiêu cực đến cấu trúc của thị trường, hay để tạo lập, củng cố vị trí thống lĩnh thị
trường gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
13


- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường: là các hành vi thương mại được thực hiện bởi
các doanh nghiệp có khả năng khống chế thị trường có thể tác động tiêu cực đến cạnh
tranh như phân biệt đối xử giá
với khách hàng
14
cũng như loại bỏ doanh nghiệp đối thủ ra
khỏi thị trường bằng các giao dịch độc quyền
15
với khách hàng của mình, ưu đãi đối

11
Thuật ngữ “cạnh tranh dựa trên năng lực” đề cập đến những trường hợp khi mà các doanh nghiệp đạt
được những kết quả tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh là do họ có hoạt động quản lý, công nghệ, kỹ

thuật, mô hình điều hành kinh doanh tốt hơn. Pháp luật cạnh tranh khuyến khích cạnh tranh dựa trên năng
lực ngay cả khi nó dẫn đến sự độc quyền trên thị tr
ường. Ví dụ, trường hợp hệ điều hành Microsoft
Windows, được bảo vệ bởi bản quyền, hoặc nước giải khát Coca-Cola, được bảo đảm bởi bí mật thương
mại thành công nhất thế giới (công thức mang lại cho Coca-Cola mùi vị đặc biệt).
12
Ví dụ, trong trường hợp việc tồn tại duy nhất một doanh nghiệp cung cấp/mua sản phẩm liên quan là cần
thiết để bảo vệ lợi ích công cộng như trong trường hợp độc quyền bán theo pháp luật trong việc cung cấp
dịch vụ bưu chính hoặc trường hợp cơ quan có thẩm quyền về y tế của một nước được trao toàn quyền mua
dược phẩm.
13
Như giải thích chi tiết tại Chương III, những trường hợp này có thể liên quan đến tập trung kinh tế hình
thành doanh nghiệp độc quyền bán hoặc nhóm hai doanh nghiệp độc quyền bán.
14
Phân biệt đối xử giá diễn ra khi một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh xác định giá cho các khách hàng
với các mức khác nhau trong các giao dịch tương tự, làm cho khách hàng rơi vào tình thế phải cạnh tranh
bất lợi với các đối thủ của mình.
15
Các thỏa thuận độc quyền là các thỏa thuận khi một nhà cung cấp hoặc một bên mua không được phép
mua bán các sản phẩm cạnh tranh. Trong các trường hợp này, thỏa thuận sẽ loại trừ cạnh tranh từ các nhà
cung cấp hoặc bên mua khác mong muốn tham gia mua bán các sản phẩm là đối tượng của thỏa thuận độc
quyền.
8

tượng
16
, bán kèm
17
, bán giá cướp đoạt
18

hoặc từ chối cho tiếp cận các sản phẩm thiết yếu.
Những hành vi này cũng bao gồm các hành vi lạm dụng được thực hiện bởi các doanh
nghiệp độc quyền nhà nước hoặc các doanh nghiệp được nhà nước trao cho một số quyền
đặc biệt.

Pháp luật cạnh tranh bổ sung cho nền kinh tế thị trường tự do hóa. Điều này có nghĩa là
các doanh nghiệp phải được tự do cạnh tranh dựa trên năng lực, loại bỏ các tổ chức độc
quyền (khi chúng không c
ần thiết) và các cartel. Hơn nữa, pháp luật canh tranh bổ sung
cho pháp luật thương mại trong bối cảnh lợi ích từ các quy định tự do thương mại – loại
trừ các rào cản thương mại như phân biệt đối xử về thuế, thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu
và xuất khẩu v.v. – có thể bị triệt tiêu một cách dễ dàng nếu các doanh nghiệp nhà nước
hoặc các doanh nghiệp tư nhân được phép thực hiệ
n các hành vi hạn chế cạnh tranh
tương tự với các hành vi hạn chế cạnh tranh nêu trên. Điều này giải thích tại sao pháp luật
cạnh tranh hiện diện tại tất cả các nước chấp nhận các cam kết tự do thương mại, ví dụ
như các nước thành viên WTO. Những nước này bao gồm cả Trung Quốc, đối tác thương
mại quan trọng nhất của Việt Nam, cũng như các đối tác quan trọng trong khu vực như
Thái Lan, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc và Nhật Bản. Ngoài ra, Lào cũng đã ban hành
Luật Cạnh tranh vào năm 2004, nhưng đến nay vẫn chưa thực thi, và Campuchia đang
cân nhắc ban hành Luật Cạnh tranh trong thời gian sắp tới.

Ngày nay, pháp luật cạnh tranh hiện diện ở trên một trăm nước trên toàn thế giới, trong
đó có khoảng sáu mươi nước đang phát triển. Pháp luật cạnh tranh được đề cập trong
chương trình nghị sự thường kỳ củ
a hai tổ chức quốc tế quan trọng nhất về hợp tác kinh
tế thế giới: Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD:
www.unctad.org/competition
) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD:
www.oecd.org

). Hơn nữa, các cơ quan quản lý cạnh tranh trên toàn thế giới đã thiết lập
Mạng lưới Cạnh tranh Quốc tế ghi nhận các vấn đề chung về chính sách và thực thi cạnh
tranh trên thực tiễn, và thúc đẩy thống nhất hệ thống pháp luật trên toàn thế giới
(www.internationalcompetitionnetwork.org
).



16
Thuật ngữ “ưu đãi đối tượng” đề cập đến việc giảm giá hoặc các ưu đãi tài chính khác mà một doanh
nghiệp cấp cho khách hàng của mình không dựa trên việc xem xét khách quan các cơ sở kinh tế thuần túy
như trong trường hợp giảm giá bán dựa trên khối lượng (giảm giá theo khối lượng
). Mục đích chính của ưu
đãi đối tượng nhằm ngăn cản các đối thủ cạnh tranh tiếp cận với khách hàng bằng cách buộc khách hàng
mua toàn bộ nhu cầu sản phẩm cần thiết từ một nhà cung cấp.
17
Thuật ngữ “bán kèm” đề cập đến những trường hợp nhà cung cấp buộc bên mua phải mua một sản phẩm
khác không liên quan đến sản phẩm đầu tiên. Trong trường hợp này, nhà cung cấp lợi dụng khả năng khống
chế thị trường của một sản phẩm phổ biến của mình để buộc giao dịch bán sản phẩm này phải kèm theo
việc bán các sản phẩm ít phổ biến hơn, nhằ
m nâng cao thị phần và loại trừ cạnh tranh trên thị trường sản
phẩm “đi kèm”.
18
Như được giải thích chi tiết hơn tại Chương III, thuật ngữ “bán giá cướp đoạt” đề cập đến trường hợp
nhà cung cấp và bên mua là các đối thủ cạnh tranh trực tiếp và nhà cung cấp phân phối các sản phẩm đầu
vào cho bên mua với mức giá không thể cạnh tranh. Nếu như giá bán các sản phẩm đầu vào lớn hơn giá bán
sản phẩm của nhà cung cấp, thì bên mua sẽ không có khả năng cạnh tranh, bởi dù bên mua có vậ
n hành
hiệu quả thế nào đi chăng nữa, bên mua vẫn không thể đạt được lợi nhuận biên (do đó, hành vi hạn chế
cạnh tranh này được gọi là “áp đặt biên”). Một kết luận tương tự cũng được đưa ra khi nhà cung cấp bán

sản phẩm thấp hơn chi phí sản xuất bỏ ra. Trong trường hợp này, hành vi hạn chế cạnh tranh được gọi là
“bán thấp hơn chi phí”.

9

Những lợi ích từ việc thực thi đúng pháp luật cạnh tranh, được công nhận bởi cả các nước
phát triển và đang phát triển là:

• Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)


FDI được thừa nhận một cách rộng rãi là sẽ cung cấp các lợi ích cho nền kinh tế nước
tiếp nhận đầu tư thông qua việc chuyển giao bí quyết kỹ thuật, tạo ra doanh thu chịu thuế
và cung cấp cho khách hàng khả năng mua các sản phẩm rẻ hơn và/hoặc sản phẩm có
chất lượng tốt hơn. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không sử dụng các nguồn lực của mình
tại m
ột nước không có môi trường pháp luật cạnh tranh rõ ràng.

• Tạo ra tăng trưởng kinh tế ổn định cho các nước đang phát triển


Như một số nghiên cứu đã chứng minh,
19
nền kinh tế của các nước đang phát triển đã
thông qua và thực thi Luật Cạnh tranh được xác định là phát triển ổn định. Sự phát triển
ổn định này bắt nguồn chủ yếu từ các lợi ích có được do loại trừ các rào cản thương mại
của chủ nghĩa bảo hộ (phi điều tiết
) và từ khả năng cạnh tranh với các cartel quốc tế. Phi
điều tiết tạo điều kiện thuận lợi để các nước đang phát triển tập trung vào các ngành kinh
tế mà nước đó hoạt động hiệu quả hơn, loại bỏ các ngành kinh tế kém hiệu quả do thiếu

các nguồn lực (lao động có tay nghề, nguyên liệu thô v.v.) và bí quyết kỹ thuật (công
nghệ hoặc các bí mật thương mại). Về
khả năng cạnh tranh với các cartel quốc tế, một
nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới
20
chỉ ra rằng vào năm 1997 các nước đang phát triển
nhập khẩu khối lượng hàng hóa có giá trị 81,1 tỷ đô la Mỹ từ các ngành công nghiệp nơi
mà các doanh nghiệp đã tham gia vào thỏa thuận ấn định giá từ thập niên 1990. Những
sản phẩm này chiếm 6,7% tổng khối lượng sản phẩm nhập khẩu và 1,2% GDP của các
nước đang phát triển. Những số liệu này chỉ ra những thiệt hại kinh tế nghiêm tr
ọng do
các hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra tại các nước đang phát triển.

• Đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa và tự do hóa nền kinh tế


Những nghĩa vụ phát sinh từ pháp luật cạnh tranh, các cam kết toàn cầu hóa và tự do
thương mại, đặc biệt là các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, sẽ khuyến khích chính
phủ xóa bỏ các doanh nghiệp độc quyền nhà nước tại một số ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế để cho phép các doanh nghiệp mới được cạnh tranh. Một số doanh nghiệp độc
quyền nhà nước có thể đượ
c cổ phần hóa vì trong một số ngành kinh tế chiến lược, ví dụ
như năng lượng, vận tải, bưu chính, viễn thông, bảo hiểm và ngân hàng, các doanh
nghiệp độc quyền sẽ bị phản đối do thiếu quan tâm đến lợi ích công cộng và quy định
pháp luật có thể được ban hành để loại bỏ các đặc quyền hạn chế tự do cạnh tranh (tự do
hóa).





19
Tham khảo Những ảnh hưởng của các hành vi hạn chế cạnh tranh đối với các nước đang phát triển và
triển vọng phát triển của các nước này, xuất bản bởi UNCTAD năm 2008 tại Geneva.
20
Xem Các Cartel Tư nhân Quốc tế và Ảnh hưởng của các Cartel này đến các Nước đang phát triển của
Margaret Levenstein và Valerie Suslow (2001), Tài liệu Cơ bản cho Báo cáo Phát triển Thế giới của Ngân
hàng Thế giới năm 2001, có tại trang mạng: www.worldbank.org/wdr/2001/bkgroundpapers/levenstein.pdf.
10

• Bảo vệ các lợi ích bắt nguồn từ nền kinh tế thị trường mở


Việc thực thi nhất quán pháp luật cạnh tranh là cần thiết để đảm bảo rằng tư nhân hóa và
tự do hóa nền kinh tế sẽ không phải là sự thỏa thiệp các hành vi hạn chế cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp nhà nước có vị trí thống lĩnh thị trường và các doanh nghiệp tư nhân.

Để đạt được những lợi ích này, các cơ quan quản lý cạnh tranh phải được trao các công
cụ phù hợp và có toàn quyền sử dụ
ng các công cụ này để thực thi hiệu quả Luật Cạnh
tranh. Như được phân tích chi tiết hơn tại các phần kế tiếp, Luật Cạnh tranh Việt Nam
trao quyền này cho Cục Quản lý Cạnh tranh (VCAD) và Hội đồng Cạnh tranh (VCC), là
hai cơ quan có quyền thực thi Luật Cạnh tranh tại Việt Nam.

Mục đích của cuốn sổ tay này không nhằm để xác định thời điểm Việt Nam nên mở rộng
phạm vi đ
iều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng phần lớn các lợi ích
bắt nguồn từ việc áp dụng pháp luật cạnh tranh tại các nước phát triển có được từ tự do
hóa, đặc biệt từ việc loại bỏ các đặc quyền không cần thiết đối với các ngành kinh tế chủ
chốt như năng lượng, vận tải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ
bưu chính

(xem phần tự do hóa tại Chương III).


Những đặc điểm chính của Luật Cạnh tranh Việt Nam

• Bối cảnh ban hành Luật Cạnh tranh Việt Nam


Bước sang thế kỷ 21, việc sử dụng Luật Cạnh tranh như một công cụ chính sách đã trở
thành xu thế. Năm 2000 khi công bố Luật mẫu về cạnh tranh, UNCTAD đã thống kê có
74 nước và vùng lãnh thổ đã có Luật Cạnh tranh. Đến năm 2004, khi Việt Nam thông qua
Luật Cạnh tranh thì trên thế giới có khoảng 80 nước và vùng lãnh thổ đã có Luật Cạnh
tranh. Cho đến thời điểm năm 2007, theo thống kê của UNCTAD hiệ
n có 113 nước và
vùng lãnh thổ đang thực thi Luật Cạnh tranh của riêng mình.
21


Quay lại bối cảnh của Việt Nam, năm 2000 là năm thứ 15 Việt Nam thực hiện chính sách
đổi mới, chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Với những thành công ban đầu của công cuộc đổi mới, Chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội 2001 – 2010 của Việt Nam đã khẳng định “Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển,
hoàn thi
ện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, để thị
trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh
tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh”.
Từ chủ trương, định hướng chiến lược này, yêu cầu xây dựng pháp luật về cạnh tranh và
chống độc quyền c
ũng được chỉ rõ trong các văn kiện của Đại hội lần thứ IX của Đảng.
Cụ thể là “… Xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để thị trường hoạt động năng động,

có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai,
minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh…” và “… Ban hành Luật
Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh phù hợp với nh
ững điều kiện thực
tế của Việt Nam…”


21
UNCTAD, Luật mẫu về cạnh tranh (Geneva: 2003)
11


Từ năm 2000, dự án soạn thảo Luật Cạnh tranh chính thức được khởi động. Sau 4 năm
chuẩn bị, Luật Cạnh tranh của Việt Nam đã được thông qua vào ngày 9/11/2004 và chính
thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2005.

• Một số đặc điểm của Luật Cạnh tranh Việt Nam


Thứ nhất, Luật Cạnh tranh Việt Nam có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm hành vi hạn
chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi can thiệp vào môi trường
kinh doanh từ phía cơ quan nhà nước.

Vẫn luôn tồn tại cách thức phân loại hành vi cạnh tranh thành hành vi hạn chế cạnh tranh
và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Nội hàm của hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ bao
gồm cartel, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độ
c quyền và sáp nhập mua lại với mục tiêu
tổng quát là bóp méo môi trường cạnh tranh. Trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành
mạnh có tính chất gần với các hành vi dân sự hay thương mại hơn. Cụ thể, trong Luật
Cạnh tranh Việt Nam, hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm chỉ dẫn gây nhầm

lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác… Đây là những hành vi có mục tiêu gây thiệt hại đến lợi ích của đối thủ cạ
nh tranh
cụ thể. Do đó, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được điều chỉnh trong
Luật Dân sự hay Luật Thương mại của các nước.

Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, ở khuôn khổ đa phương, văn bản được biết
đến nhiều nhất là Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó Điều 10
bis Công ước này đề cập tr
ực tiếp đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh là “bất kỳ
hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thông lệ trung thực, thiện chí trong công nghiệp
hoặc trong thương mại”. Trong khi đó, đối với hành vi hạn chế cạnh tranh ở phạm vi đa
phương, Liên Hợp Quốc đã có Nghị quyết thông qua Bộ Quy tắc đồng thuận đa phương
về kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh.
22
Các thảo luận trong khuôn khổ OECD
cũng hiểu hành vi cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh.

Việc Luật Cạnh tranh Việt Nam điều chỉnh đồng thời cả hành vi hạn chế cạnh tranh và
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được coi là một đặc thù do bối cảnh đem lại.
Cụ thể, vào năm 2000, khi Việt Nam bắt đầu soạn thảo Luật Cạnh tranh, Việt Nam mới
chỉ thực hiện kinh t
ế thị trường được 15 năm và thời điểm đó cũng là giai đoạn đầu thực
hiện nhà nước pháp quyền. Hệ thống pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là pháp luật kinh
tế xung quanh thời điểm năm 2000 chưa đầy đủ. Ngay cả với những luật hiện đang có thì
phạm vi điều chỉnh cũng chưa bao quát hết. Đây là một trong những lý do mà Lu
ật Cạnh
tranh Việt Nam đồng thời điều chỉnh cả hai loại hành vi cạnh tranh.

Một đặc thù nữa là Luật Cạnh tranh Việt Nam điều chỉnh không chỉ hành vi của doanh

nghiệp mà còn cấm cả hành vi can thiệp vào môi trường kinh doanh từ phía cơ quan nhà
nước. Có thể nói đây là một đặc thù của các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Luật chống
độc quyền Trung Quốc cũng có quy định này và sau khi luật có hi
ệu lực, các vụ việc


22
UNCTAD, Bộ Quy tắc về cạnh tranh của Liên Hợp Quốc (Geneva: 2000)
12

doanh nghiệp kiện cơ quan nhà nước là mảng sôi nổi nhất trong thời gian đầu thực thi
luật chống độc quyền ở Trung Quốc.

Thứ hai, Luật Cạnh tranh đã thành lập mới các thiết chế thực thi Luật lần đầu tiên xuất
hiện tại Việt Nam. Đó là Cục Quản lý Cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh. Trong đó Hội
đồng Cạnh tranh là một thiết chế khá đặc bi
ệt: là một cơ quan hành chính nhưng lại có
chức năng “xét xử” độc lập.

Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập, có từ 11 - 15 thành viên do Thủ
tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay
là Bộ Công Thương). Như vậy, Hội đồng Cạnh tranh là một cơ quan thuộc hệ thống
hành pháp và có vị trí độc lập tươ
ng đối trong mối quan hệ với Bộ Công Thương.

Hội đồng Cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc
cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Nói cách khác, Hội đồng Cạnh tranh của Việt Nam là một cơ quan chuyên “xét xử hành
chính” đối với các vụ việc hạn chế cạnh tranh như là mộ
t cơ quan tài phán vì có đầy đủ

những yếu tố cần thiết sau đây: áp dụng pháp luật để ra phán quyết; thủ tục xử lý mang
tính tranh tụng; quyết định của Hội đồng Cạnh tranh chỉ bị xét lại bởi hệ thống toà án.

Tuy nhiên, khác với các cơ quan xử lý hành chính hiện có trong bộ máy Nhà nước, Hội
đồng Cạnh tranh tổ chức xử lý theo chế độ tập thể chứ không theo chế độ th
ủ trưởng. Cụ
thể trong số 11 đến 15 thành viên của Hội đồng cạnh tranh,
23
Chủ tịch Hội đồng sẽ lựa
chọn ít nhất 5 người để tham gia xử lý một vụ việc cụ thể. Hội đồng xử lý này sẽ quyết
định vụ việc theo nguyên tắc biểu quyết theo đa số.
24


Thứ ba, Luật Cạnh tranh đã kết hợp các quy phạm của pháp luật nội dung và các quy
phạm của pháp luật hình thức. Với Luật Cạnh tranh, tố tụng cạnh tranh chính thức ra đời
bên cạnh các tố tụng khác như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính.

Ở Việt Nam trước khi Luật Cạnh tranh ra đời, chỉ có tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và t

tụng hành chính. Tất cả các tố tụng này đều gắn với tòa án. Trong hệ thống cơ quan hành
chính chỉ có biện pháp xử phạt trên cơ sở biên bản vi phạm mà không có tranh tụng về
quyết định của cơ quan hành chính. Với sự ra đời của Luật Cạnh tranh, lần đầu tiên có
một cơ quan hành chính đã thiết lập cơ chế ra quyết định trên cơ sở tranh tụng. Đây là
một
đặc điểm mang tính đột phá trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Thứ tư, Luật Cạnh tranh quy định chế tài phạt tiền theo tỷ lệ phần trăm so với doanh thu.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam cho đến khi có Luật Cạnh tranh, các chế tài hành

chính phạt hành vi vi phạm pháp luật chỉ dừng lại ở mức phạt tiền theo số tuyệt đối. Cụ
thể, sẽ có quy định phạt tiề
n từ mức này đến mức khác cho hành vi vi phạm. Tuy nhiên,
khi Luật Cạnh tranh ra đời, lần đầu tiên đã có chế tài phạt tiền theo tỷ lệ phần trăm. Cụ
thể, Luật Cạnh tranh quy định mức trần tối đa cho việc xử phạt là 10% doanh thu của


23
Điều 53 Luật Cạnh tranh.
24
Điều 80 Luật Cạnh tranh.
13

doanh nghiệp vi phạm. Đây là một mức phạt khá nặng nếu xét đến mức phạt tiền tối đa
trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính chỉ là 500 triệu đồng. Tuy nhiên, mức phạt này
sẽ đảm bảo tính răn đe đủ mạnh đối với hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh.
14



CHƯƠNG II
CÁC THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH

Khi doanh nghiệp thấy rằng không thể tự tài trợ cho nghiên cứu hoặc phát triển một sản
phẩm mới của mình, khi doanh nghiệp thấy các lợi ích kinh tế theo quy mô đáng kể khi
thực hiện phân chia các chi phí cố định với những doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực
hoạt động, thì các thỏa thuận hướng tới những mục tiêu như vậy có thể
đem lại lợi ích
cho toàn bộ nền kinh tế.


Khi một doanh nghiệp không có khả năng khống chế thị trường để áp đặt các điều kiện
cho thị trường, doanh nghiệp đó sẽ cố gắng yêu cầu các đối thủ cạnh tranh của mình cùng
hợp tác để có thể áp đặt lên người tiêu dùng các mức giá có lợi cho doanh nghiệp và áp
đặt lên các đối tác một mức giá thực chất cao hơn “giá thị trườ
ng”. Các thỏa thuận này sẽ
gây ảnh hưởng không tốt đến thị trường.

Thỏa thuận là một khái niệm rộng nhưng không có ý nghĩa trừ khi các phân tích kinh tế
và kinh nghiệm thực tế phải chỉ ra được thỏa thuận đó là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
thỏa thuận khuyến khích cạnh tranh hay thỏa thuận trung tính.

Điều đầu tiên là nên phân biệt rõ thỏa thuận ngang và thỏa thu
ận dọc. Thỏa thuận
ngang là thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh và thỏa thuận dọc là thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp bổ trợ lẫn nhau.

Các thỏa thuận ngang ngay lập tức tạo ra khả năng khống chế thị trường, còn các thỏa
thuận dọc không đi kèm với khả năng khống chế thị trường.

Điều đó có nghĩa khả n
ăng hạn chế cạnh tranh của các thỏa thuận ngang lớn hơn rất nhiều
so với khả năng hạn chế cạnh tranh của các thỏa thuận dọc.

Nhưng “thỏa thuận” có nghĩa chính xác là gì?

Thực tế, một thỏa thuận không chỉ là một hành vi mô tả chính thức bằng văn bản về các
điều khoản và điều kiện cho sự hợp tác.

Một th
ỏa thuận có thể là:


y Một thỏa thuận chính thức giữa các doanh nghiệp;
y Một quyết định đưa ra bởi hiệp hội của các doanh nghiệp: thay thế thỏa thuận
giữa các doanh nghiệp thành viên của hiệp hội, phù hợp cam kết chung của hiệp
hội đó. Khi các doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình đưa ra quyết định
thì quyết định của hiệp hội cũng chính là quyết đị
nh của các thành viên của hiệp
hội đó; hoặc
15

y Một cam kết đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia mà không thể hiện bằng văn
bản.
Để một hành vi hoặc một tập hợp các hành vi cấu thành một thỏa thuận thì điều
phải luôn ghi nhớ là khi nào có sự thống nhất về ý chí, khi đó có thỏa thuận. Các
hành vi giống nhau của các doanh nghiệp chưa đủ để chứng minh là đã có thỏa
thuận giữa họ với nhau.

I. Các Thỏ
a thuận ngang

Các thỏa thuận ngang liên quan đến các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một thị
trường (sản xuất hoặc phân phối cùng loại hàng hóa và dịch vụ). Các thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp có thể trực tiếp tăng khả năng khống chế thị trường của các doanh nghiệp
này, nghĩa là tăng khả năng của các doanh nghiệp trong việc tính giá sản phẩm, dịch vụ
của họ cao hơn m
ức giá thị trường.

A. Các thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh nhất (hardcore cartel)

1. Trong số các thỏa thuận ngang hạn chế cạnh tranh, hardcore cartel là những thỏa

thuận nguy hiểm nhất cho cạnh tranh.

Về cơ bản, hardcore cartel là “một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hành vi phối hợp giữa
các đối thủ cạnh tranh làm hạn chế cạnh tranh như ấn định giá, gian lận thầu, hạn chế sản
lượng hoặc hạn ngạch hoặc chia sẻ và phân chia thị trường bằ
ng cách phân bổ khách
hàng, nhà cung cấp, lãnh thổ hoặc lĩnh vực thương mại”.

"Cartel là ung nhọt của nền kinh tế thị trường mở…; bằng việc hủy hoại cạnh tranh,
chúng gây tác hại nghiêm trọng cho các nền kinh tế và người tiêu dùng của chúng
ta".
Ông Mario Monti – Cựu Cao ủy Cạnh tranh của EU

Gây ảnh hưởng trực tiếp đến các mức giá, hardcore cartel tác động tiêu cực đến chức
năng của thị trường, hủy ho
ại tính hiệu quả, sự sáng tạo và sự lựa chọn. Khi ấn định mức
giá cao hơn mức giá thị trường (mức giá của một thị trường cạnh tranh), một cartel đã
trực tiếp thu lợi nhuận cho mình từ túi tiền của người tiêu dùng.

Hậu quả của việc nâng giá cao hơn này là hoạt động tiêu dùng sẽ bị thu hẹp trừ khi độ co
giãn cho các sản phẩm của cartel gần bằng 0 (mua s
ản phẩm với bất kỳ giá nào) và, trong
mọi trường hợp, sản lượng và phúc lợi toàn cầu sẽ bị giảm sút.

Kết luận đầu tiên là cuộc chiến chống lại hardcore cartel là ưu tiên hàng đầu của hầu hết
các cơ quan quản lý cạnh tranh trên thế giới.






16

2. Hardcore cartel đáng phải chịu những chế tài nặng

y Tại châu Âu, khuynh hướng rõ ràng trong những năm gần đây là gia tăng hình
phạt đối với hardcore cartel.
y Các khoản phạt cho những vi phạm lớn có thể lên đến 10% doanh thu toàn cầu
của tập đoàn.
y Tại nhiều nước trong đó có Mỹ, Anh và Ireland một hardcore cartel còn bị coi là
phạm tội hình sự và những người chịu trách nhiệm có thể bị
phạt tù…
3. Hardcore cartel có thể bị phát hiện ở đâu và khi nào?

Rất nhiều cartel bắt đầu hoạt động trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế và tiếp tục hoạt
động sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế chấm dứt. Các thị trường nhạy cảm cao là những
thị trường có rất nhiều hành vi hạn chế cạnh tranh nhưng không phải là nơi duy nhất có
các hành vi hạn chế cạnh tranh.

● Các th
ị trường nhạy cảm

¾ Thị trường với rất ít các doanh nghiệp cạnh tranh

¾ Thị trường không năng động/các sản phẩm tương tự

¾ Tồn tại “tổ chức hỗ trợ liên lạc thông tin”

¾ Các hiệp hội thương mại


¾ Minh bạch về sản lượng/giá

● Một số ngành có nhiều hành vi cạnh tranh

Vitamin/phụ gia th
ực phẩm, các dịch vụ tài chính, bán đấu giá, vận tải hàng không, công
nghệ cao là những ngành tồn tại rất nhiều các hành vi hạn chế cạnh tranh.

4. Làm sao để bắt được một hardcore cartel?

Vấn đề chính đối với hardcore cartel là, vào hầu hết các thời điểm, chúng hoạt động rất bí
mật và rất khó phát hiện.

Nếu muốn thành công:

i. Cần sử dụng các công cụ điều tra mạnh
ii.
Nên sử dụng các “chương trình khoan hồng”
17

Ta có thể nghi ngờ về sự vận hành phù hợp của một thị trường, nhưng những điều có thể
thấy trên thị trường như một mức giá cao đột biến hoặc một dấu hiệu bất thường tương tự
về giá hoặc sự hiện diện của duy nhất một doanh nghiệp tại một thị trường địa lý liên
quan, là chưa đủ để b
ắt đầu một cuộc điều tra đầy đủ.

Trước khi bắt đầu tiến hành một cuộc điều tra cần thu thập đầy đủ các bằng chứng để hỗ
trợ cho nghi vấn ban đầu và những thông tin đó có thể tìm thấy tại rất nhiều nguồn khác
nhau, từ các đối thủ cạnh tranh, từ những người có quan hệ gần gũi với doanh nghiệp
hoặc th

ậm chí từ bên trong doanh nghiệp có liên quan.

Có thể xảy ra trường hợp vì những lý do cá nhân, như chống đối cá nhân hoặc tranh chấp
lao động, một cá nhân có thể trả thù bằng cách tiết lộ cho các cơ quan có thẩm quyền
những điều đang diễn ra tại doanh nghiệp của anh ta. Tuy nhiên việc này thường hiếm khi
xảy ra.

Hầu hết các trường hợp, cần thiết phải sử dụng các công cụ điều tra mạ
nh và công bằng
để tìm kiếm các chứng cứ thích hợp.

Để làm được như vậy, cần nâng cao quyền lực của các cơ quan điều tra và trao cho các
cơ quan này các công cụ điều tra mạnh:

¾ Ngoài quyền kiểm tra các cơ sở kinh doanh, các cơ quan này phải có quyền
kiểm tra nhà riêng và ô tô cá nhân của của giám đốc và các nhân viên khác
(nếu có nghi vấn hợp lý rằng các tài liệu kinh doanh được giữ tại những nơi
này).

¾
Những quyền này được trao và thực thi trong phạm vi pháp luật kiểm soát.

¾ Quan trọng nhất là các cơ quan quản lý cạnh tranh phải được trao quyền
đưa ra các mức phạt nặng và nghiêm khắc hơn cho các đối tượng cung cấp
thông tin không chính xác hoặc sai lệch.

Nhưng dù có đầy đủ quyền hạn các cơ quan quản lý vẫn khó phát hiện được cartel
gây hạn chế cạnh tranh do chúng được che đậy và tổ chức hoàn hảo. Do vậy, cần:

¾ Tìm cách có được những thông tin nhạy cảm và trực tiếp nhất từ những

người có trách nhiệm của doanh nghiệp đang bị xem xét.

¾ Đưa ra ý tưởng hợp lý để những người có trách nhiệm của doanh nghiệp
đang bị xem xét đưa ra bằng chứng... chống lại chính họ.

5. Chương trình khoan hồng hoặc làm sao để có được thông tin nội bộ?

Nước đầu tiên thực hiện các chương trình này là Mỹ
mà cụ thể là Bộ Tư pháp Mỹ với tên
gọi là chương trình “Ân xá”:

18

¾ Doanh nghiệp đầu tiên khai nhận có thể được miễn bị phạt/truy tố.

¾ Tạo ra sự không an tâm giữa các thành viên của cartel, không ai biết đối tác
của mình sẽ làm gì và trong trường hợp có cạnh tranh cá nhân hoặc cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp thì tình trạng không an tâm có thể tạo ra một
“cuộc đua” đến với cơ quan hành pháp.

¾ Chương trình này cho phép giảm mức phạt (khoan hồng) cho các đối tượng
đến sau (tại Mỹ, ch
ỉ có chủ thể đến đầu tiên được miễn hoàn toàn trách
nhiệm).

¾ Ngay khi tham gia vào quá trình hưởng khoan hồng, doanh nghiệp phải
cung cấp các thông tin đến khi cuộc điều tra kết thúc.

Chương trình khoan hồng ngày càng được sử dụng phổ biến trên thế giới vì được chứng
minh là rất hiệu quả và hầu hết các cartel lớn bị bắt trong những năm vừa qua đều do có

doanh nghiệp muốn tránh cho giám đốc của mình bị
phạt nặng hoặc bị tù giam.

EU gần đây đã tạo thêm tính thuyết phục và hấp dẫn cho chương trình “Miễn trừ/Khoan
hồng” của mình và kỳ vọng lớn vào hiệu quả của quy định mới.

B. Các ví dụ về hardcore cartel gồm:


● Ấn định giá

● Gian lận thầu

● Hạn chế sản lượng hoặc hạn ngạch

● Phân chia thị trường

1. Hai ví dụ về ấn định giá

+ Một cartel trong ngành thương mại thép

(Theo quyết định của Hội đồng Cạnh tranh Pháp ngày 16/12/2008)

a. Ngành kinh tế và thị trường liên quan
Các sản phẩm được giao dịch (xà, ống, thép cuốn lá, thanh cốt thép, v.v.) là các hàng hóa
trung gian được các doanh nghiệp thuộ
c mọi quy mô sử dụng trong nhiều ngành công
nghiệp, bao gồm xây dựng, kỹ thuật công trình, sản xuất, gia công kim loại tấm và công
nghiệp hàng hải. Một lượng lớn khách hàng của ngành thương mại thép là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) (sản xuất khóa, v.v.), các đối tượng này có nhu cầu quá nhỏ

để được cung cấp trực tiếp từ nhà sản xuất, vì thế họ bắt buộc phải mua thông qua các
thương nhân.

19

Thị trường xem xét là thị trường phân phối các sản phẩm thép với khối lượng tương đối
nhỏ, thị trường dịch vụ và không phải là thị trường sản phẩm. Thị trường này khác biệt
với thị trường hoạt động của các nhà sản xuất các sản phẩm thép trong cả hai trường hợp,
khi họ sản xuất các sản phẩm của mình và cạnh tranh với các nhà sản xuất khác ho
ặc khi
họ bán trực tiếp các sản phẩm này cho các khách hàng lớn.

Trong thị trường phân phối sau, mức cung và cầu đều hướng tới số lượng lớn các sản
phẩm thép, người bán (nhà sản xuất) và người mua (người mua số lượng lớn) rất khác với
các đối tượng tại thị trường đang xem xét: với phương thức bán trực tiếp, quy mô thị
trường có thể là châu Âu hoặc toàn cầu, quá trình giao kết và chậ
m trễ giao hàng rất khác
biệt.

Trên thị trường thực tế liên quan, có năm nhà phân phối chính, ba trong số đó chiếm từ
60% đến 75% thị phần cho mỗi nhóm sản phẩm cùng loại.

Doanh thu toàn cầu của hoạt động này vào khoảng 1,5 tỷ Euro trong năm 2006.

Hầu hết các doanh nghiệp trên thị trường là thành viên của một hiệp hội ngành nghề có
nhiệm vụ đại diện và hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiệ
n hoạt động kinh doanh của mình.

b. Thủ tục bắt đầu như thế nào?
Căn cứ vào các khiếu nại từ khách hàng của các nhóm doanh nghiệp thương mại thép về

các nghi vấn trong khi bỏ thầu, Bộ Kinh tế Pháp đã tiến hành điều tra, bắt đầu từ việc yêu
cầu cung cấp thông tin vào tháng 5 năm 2004. Kết quả này được chuyển cho Hội đồng
Cạnh tranh của Pháp vào tháng 7 năm 2005. Vào tháng 10 năm 2006, một doanh nghiệp
trong diện bị điều tra đã xin hưởng khoan hồng và cung cấp các thông tin mới cho cuộc
điều tra.

c. Những sự kiện và đánh giá

● Một cartel lớn

Cuộc điều tra và yêu cầu cung cấp thông tin đã phát hiện ra cartel này bao trùm toàn nước
Pháp và tồn tại trong vòng 5 năm, mặc dù một vài doanh nghiệp liên quan mới tham gia
vi phạm trong một thời gian ngắn. Hồ sơ và các loại tài liệu khác nhau chỉ ra rằng các
doanh nghiệp vi phạm
đã tổ chức rất nhiều phiên họp thường kỳ, tại đó các doanh nghiệp
này thống nhất các điều khoản thương mại khi chào cho khách hàng (ấn định các biểu
giá, phân loại khách hàng theo tiềm năng, ấn định mức chiết khấu tối đa v.v.), phân chia
khách hàng và hợp đồng giữa các bên.

● Một cartel tinh vi

Thỏa thuận bất hợp pháp được che đậy dưới vỏ bọc của hiệp hộ
i nghề nghiệp, theo sáng
kiến của ba nhà nhà cung cấp chính: PUM/Arcelor (Tập đoàn Arcelor Mittal), KDI
(doanh nghiệp con của Tập đoàn German Kloeckner) và Descours & Cabaud (Tập đoàn
Thương mại tại Lyons).
20


Cartel này được tổ chức và điều hành đặc biệt tốt.


Trước hết nó dựa trên các thông tin chi tiết và chính xác về tất cả các khách hàng, mức
tiêu thụ bình quân của khách hàng cho từng loại sản phẩm thép, cách khách hàng phê
chuẩn các đơn đặt hàng của mình (đấu thầu hoặc mua bán trực tiếp với nhà cung cấp).

Bảng giá được thỏa thuận thống nhất nhưng có thể được thay đổi cho phù hợp với từng
đị
a phương, có tính đến nhu cầu và điều kiện kinh doanh tại khu vực; mức chiết khấu đưa
ra cũng được xác định cụ thể theo từng nhóm khách hàng.

Các đơn đặt hàng quan trọng được phân bổ tập trung hoặc theo khu vực cho thành viên
của cartel và bản ghi chép chung về hàng hóa chuyển giao được giữ tại cơ quan điều hành
cartel cấp địa phương, vùng và trung ương.

Để hệ thống đó hoạt động bình thường, m
ột mạng lưới thu thập thông tin từ khách hàng,
tiểu sử của khách hàng và từng vụ chào thầu hoặc các câu hỏi gửi cho nhà cung cấp địa
phương đã được thiết lập. Các hoạt động này được thực hiện thông qua việc chỉ định các
hoa tiêu cho mỗi khu vực trong tổng số 11 khu vực trên toàn lãnh thổ, những hoa tiêu này
điều khiển mạng lưới “người cung cấp thông tin”.

Rất nhiều các cuộc họp thường k
ỳ hoặc theo yêu cầu, với các cấp độ khác nhau được tổ
chức, từ cấp quốc gia, vùng hoặc địa phương. Các cuộc họp tập trung vào các sản phẩm
cụ thể và xem xét từng phân khúc thị trường. Các biên bản cuộc họp được lưu hành và
việc tuân thủ các quyết định đưa ra được giám sát thường xuyên. Chế tài tạm thời buộc ra
khỏi cartel được dành cho các doanh nghiệp “phá vỡ” các nguyên tắc thỏa thuận.

Khi sự bất bình của khách hàng trở thành mối đe dọa cho cartel và sự tồn tại tuyệt mật
của nó, các quy định tại thỏa thuận có thể tạm thời ngừng thực hiện để giảm bớt các phản

ứng: trong một thời gian, các doanh nghiệp này khuyến khích và thực hiện một số hành vi
cạnh tranh giả tạo.

Cơ quan cạnh tranh của Pháp cho rằng các vi phạm này đặc biệt biệt nghiêm trọng, vì
chúng không ch
ỉ hủy hoại cạnh tranh về giá thông thường mà còn phân chia khách hàng
và các hợp đồng, do đó đã loại trừ cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp liên quan.
Thỏa thuận này cũng nhằm mục đích ngăn cản các đối thủ cạnh tranh có được chỗ đứng
trên thị trường.

Hơn nữa, cartel này kiểm soát một địa bàn thị trường rất rộng lớn (khoảng 70% đến 90%
khối lượng giao dịch bán ra c
ủa hầu hết các sản phẩm liên quan). Nó cũng là thỏa thuận
của các cấp lãnh đạo cao nhất của các doanh nghiệp liên quan, những người này hoàn
toàn nhận thức được rằng họ đang thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, điều này được
chứng minh tại các chỉ dẫn bằng văn bản trong số các tài liệu thu giữ (“không được đề
cập đến các từ như thỏa thuận hay cartel”, “không được tiế
t lộ thông tin về các cuộc
họp”, “tránh nói về các cộng sự”, v.v).

21

d. Các chế tài, thiệt hại cho nền kinh tế và lợi ích cho người tiêu dùng

Quan điểm của cơ quan có thẩm quyền của Pháp là nền kinh tế đã phải chịu thiệt hại rất
lớn. Tổng doanh thu của các hoạt động này vào khoảng 1,5 tỷ Euro vào năm 2006. Thiệt
hại trong các năm vừa qua lên đến hàng trăm triệu Euro, tác động đến các doanh nghiệp
khác và khách hàng của họ tại thị trường liên quan và cả trong các thị tr
ường thứ cấp.
Trong các trường hợp như vậy, việc tính giá cao tại điểm đầu của mạng lưới phân phối ít

nhất đã chuyển tiếp một phần sang các doanh nghiệp thấp hơn trong mạng lưới phân
phối, do đó nâng giá cuối cùng mà người tiêu dùng phải trả.

Khi quyết định mức phạt, Hội đồng Cạnh tranh của Pháp đã cho một doanh nghiệp được
miễn trừ một ph
ần khoản phạt theo thủ tục khoan hồng.

Tổng các khoản phạt áp dụng cho các thành viên của cartel lên đến 575.454.500 Euro.

Tại phiên điều trần trước Hội đồng Cạnh tranh của Pháp, một số doanh nghiệp bị phạt đã
chỉ ra rằng họ sẽ phải đối mặt với khó khăn do khủng hoảng kinh tế vào giai đoạn sáu
tháng cuối năm 2008. Hội đồng Cạnh tranh của Pháp đã cân nh
ắc bối cảnh có thể ảnh
hưởng đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp và quyết định nếu các doanh
nghiệp có thể chứng minh khó khăn cụ thể khi chi trả các khoản phạt, thì các doanh
nghiệp được quyền đề nghị một lịch thanh toán hoặc thời hạn thanh toán với văn phòng
kế toán công chịu trách nhiệm thu các khoản phạt này.

+ Một cartel của các nhà sản xuất sáp

(Theo Quyết định của
Ủy ban châu Âu ngày 1/10/2008)

a. Ngành kinh tế và thị trường liên quan
Sáp (paraffin) được sử dụng trong rất nhiều sản phẩm như nến, giấy sáp, cốc và đĩa sáp,
sáp bọc pho mát, dược phẩm, lốp và các phụ tùng ô tô cũng như trong các ngành công
nghiệp cao su, chất dính, băng keo và kẹo cao su. Thị trường châu Âu có giá trị gần 500
triệu Euro.

b. Tố tụng bắt đầu như thế nào?

Ủy ban bắt đầu điều tra bằng những cuộc kiể
m tra bất ngờ vào tháng 4 năm 2005, ngay
khi có đơn xin miễn trừ do Shell đệ trình theo Thông báo Khoan hồng 2002.

c. Những sự kiện và đánh giá

Từ năm 1992 cho đến năm 2005, các nhà sản xuất sáp và sáp lỏng vận hành một cartel
theo đó họ ấn định giá sáp. ExxonMobil, MOL, Repsol, Sasol, Shell và Total cũng tham
gia phân chia thị trường sản phẩm này và ExxonMobil, Sasol, Shell, RWE và Total cũng
ấn định giá sáp lỏng bán cho khách hàng đầu cuối tại thị trường Đức. Các doanh nghiệp
này tổ chức các cuộc họp thường k
ỳ để trao đổi về giá, phân chia thị trường và/hoặc
khách hàng và trao đổi các thông tin thương mại nhạy cảm.
22


Tại tập đoàn Shell, cartel này được gọi là “mafia sáp” và tại tập đoàn Sasol, cartel được
gọi là “Blauer Salon” (“quán xanh”), sau khi những cuộc họp đầu tiên của cartel này
được tổ chức tại một quán bar khách sạn ở Đức. Các cuộc họp sau đó diễn ra tại một loạt
các khách sạn hàng đầu trên khắp châu Âu, gồm Milan, Vienna, Budapest, Paris, Munich
và Strasbourg.

d. Chế tài, thiệt hại cho nền kinh tế và lợi ích cho người tiêu dùng
Ủy ban châu Âu đã quyết định t
ổng tiền phạt là 676.011.400 Euro đối với 9 tập đoàn.
Shell cũng tham gia vào cartel nhưng không bị phạt do Shell đã tiết lộ sự tồn tại của
cartel cho Ủy ban.

Cao ủy Cạnh tranh Neelie Kroes cho biết “Hầu như không một hộ gia đình hoặc doanh
nghiệp nào tại châu Âu mà không mua những sản phẩm bị chi phối bởi cartel ‘mafia sáp’

này, với những tác động như phải thanh toán cao hơn giá trị sản phẩm, chi phí cao hơn và
vì vậy cartel này gây thiệ
t hại đáng kể cho nền kinh tế”.

2. Một ví dụ về gian lận thầu cho chương trình cải tạo các trường cấp 2 vùng Ile-de-
France

(Theo quyết định của Hội đồng Cạnh tranh Pháp ngày 9/5/2007)

a. Ngành kinh tế và thị trường liên quan

Nói chung, trong trường hợp gian lận thầu, thị trường liên quan là thị trường sản phẩm
hoặc dịch vụ là đối tượng mời thầu. Theo tiêu chuẩn nêu trên, ngành kinh tế trong trường
hợ
p này là ngành xây dựng.

Nhưng đối với các giao dịch mua bán công, Luật Cạnh tranh của nhiều nước cho rằng
mỗi vụ đấu thầu được xem là một thị trường liên quan “thực chất” để áp dụng Luật Cạnh
tranh.

Trong trường hợp cụ thể này, cơ quan quản lý cạnh tranh của Pháp cho rằng không chỉ
mỗi vụ đấu thầu là thị trường liên quan mà toàn bộ chương trình cải tạo xây dựng, là đố
i
tượng của thỏa thuận chung dẫn đến các gian lận thầu tại từng vụ đấu thầu riêng biệt,
cũng là một thị trường liên quan.

b. Tố tụng đã bắt đầu như thế nào?

Vào năm 1990, các cơ quan công quyền vùng Ile-de France, một vùng rộng lớn xung
quanh Paris, đã khởi động một chương trình lớn nhằm cải tạo các công trình trường học

vốn đã rất cũ nát vào th
ời điểm đó. Hơn 50 ngôi trường được đưa vào chương trình, được
thực hiện trên 5 năm theo ba gói liên tiếp. Cơ quan có thẩm quyền tại địa phương đã ký
241 hợp đồng công khai với tổng chi phí khoảng 4 tỷ Euro, là khoản tiền lớn nhất từng
được thanh toán bởi cơ quan công quyền cho loại hoạt động đó. 88 hợp đồng đối với các
công trình công cộng là một phần của chương trình t
ổng thể được đưa ra điều tra xem xét.
23


Rất nhiều vi phạm đã diễn ra trong suốt quá trình thực hiện chương trình và bắt đầu là
một vụ hình sự được tòa hình sự xử lý. Tòa án này đã thu thập chứng cứ và kết luận rằng
đã có rất nhiều vi phạm hình sự mà trong số đó có nhiều vi phạm thuộc đối tượng điều
chỉnh của Luật Cạnh tranh.

Sau khi được thông báo thủ tục tố tụng hình s
ự nêu trên, cơ quan thẩm quyền Pháp đã
quyết định tiến hành xử lý vụ việc và yêu cầu tòa hình sự chuyển giao cho cơ quan quản
lý cạnh tranh toàn bộ hồ sơ để cơ quan quản lý cạnh tranh áp dụng Luật Cạnh tranh vào
các tình tiết vụ việc mà đã được xem là có bản chất tội phạm.

c. Những sự kiện và đánh giá

Trong khoảng thời gian từ năm 1989 đến năm 1996, có 14 doanh nghiệp tham gia vào
một thỏa thuận chung nhằm mục đích phân chia 88 hợp đồng công khai với tổng giá trị
lên đến 1,5 tỷ Euro. Những bằng chứng thu thập được thông qua các cuộc khám xét bất
ngờ chỉ ra rằng từ năm 1989, thậm chí là từ trước khi mời thầu gói đầu tiên, các doanh
nghiệp đã tập hợp và thống nhất các nguyên tắc phân chia các hợp đồng trong tương lai.

Các tài liệu được thu giữ chỉ ra rằng đối với t

ừng gói thầu trong số 7 gói thầu công khai
của vùng Ile-de-France, các thành viên của “khối” đã tổ chức các cuộc họp cho từng
nhóm hợp đồng, cung cấp đầu mối liên lạc trực tiếp giữa các doanh nghiệp và trao đổi
thông tin.

Những thành viên tham dự cuộc họp tiến hành phân chia từng gói các hợp đồng cho các
nhóm đã xúc tiến thỏa thuận chung và thống nhất về nguyên tắc.

Thỏa thuận này được thực hiện trong suốt 7 năm d
ưới sự bảo hộ của Patrimoine
Ingénierie, nhân viên trợ lý của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Cách thức hoạt động không thay đổi trong suốt giai đoạn thực hiện chương trình:

Trước tiên, các doanh nghiệp được lựa chọn trước bởi một hội đồng bí mật trong đó
Patrimoine Ingénierie đóng vai trò điều phối viên trong việc thi hành thỏa thuận phân
chia thị trường. Thỏa thuận phân chia thị trường c
ũng thực thi một điều khoản bất thường
được hội đồng vùng Ile-de-France ủng hộ và chấp nhận bởi cartel, theo đó cho phép các
doanh nghiệp vừa và nhỏ được nhận 1/3 tổng số việc còn 2/3 tổng số việc còn lại sẽ
thuộc về thành viên của các tập đoàn lớn.

Thứ hai, theo kế hoạch phân chia đã thỏa thuận, mỗi doanh nghiệp được lựa chọn trước
sẽ chiếm thị phần được phân chia bằng cách tiết lộ cho “các đối thủ cạnh tranh” của mình
thị trường của doanh nghiệp được lựa chọn và thông tin về giá của doanh nghiệp đó, hoặc
từ bỏ phần được chia bằng cách cố ý chào giá cao quá mức.

Thỏa thuận phân chia thị trường chung vận hành trơn tru do được bảo đảm bởi
Patrimoine Ingénierie, người đã cung cấp trước các thông tin cho các doanh nghiệp về

×