Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

BT nhóm LSNN PLVN nội dung cơ bản và ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị đối với thể chế nhà nước phong kiến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.15 KB, 7 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. VÀI NÉT VỀ HÀN PHI TỬ VÀ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ
1. Hàn Phi
2. Học thuyết pháp trị
II. NỘI DUNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ
TỚI THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM
1. Pháp
2. Thế
3. Thuật
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2
2
2
2
2
2
2
4
5
6
7

MỞ ĐẦU


1


Một đất nước giàu mạnh điều cốt yếu là phải dựa vào pháp luật, pháp
luật có phổ biến và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, quốc gia mới bền vững,
giàu mạnh, nhân dân mới được ấm no, yên bình, hạnh phúc. Chiếm lĩnh và sáng
tạo những ưu điểm của ba trường phái trong Pháp gia: “pháp” (Thương Ưởng),
“thuật” (Thân Bất Hại), “thế” (Thận Đáo); tư tưởng Pháp trị đã xây dựng được
một hệ thống lý luận tương đối hoàn thiện và vượt trội so với các hệ tư tưởng
đương thời. Vì vậy tư tưởng Pháp trị ngay khi vừa bước lên vũ đài chính trị đã
được rất nhiều quốc gia áp dụng, trong đó có cả Việt Nam. Trong phạm vi bài
viết này, nhóm chúng em đi sâu vào đề tài: “Nội dung cơ bản và ảnh hưởng
của tư tưởng Pháp trị đối với thể chế nhà nước phong kiến Việt Nam”.
NỘI DUNG
I. VÀI NÉT VỀ HÀN PHI TỬ VÀ TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ
1. Hàn Phi
Hàn phi (295 -233) là đại diện tiêu biểu nhất của Pháp gia. Ông sống vào
thời hậu Chiến quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung
Quốc. Ông cho rằng :con người ta có tính ác, nhưng lí giải về lợi ích, viêc cai
trị phải căn cứ vào lợi ích để thưởng hay phạt, ông căm ghét mê tín, coi trọng
giáo dục, đề cao các tiên vương đời Hạ, Thương, Chu .Về trị nước, ông không
bàn đến nhân nghĩa, cũng không coi trọng Lễ mà chủ trương dùng Pháp, Thế,
Thuật của Pháp gia. Ngoài ra, Hàn Phi cũng chịu ảnh hưởng của Mạnh Tử về
chủ trương “thượng đồng”- buộc dân chúng phải có cùng quan niệm tốt xấu với
nguời trên, không được có bụng khác với chính sách của triều đình.
2. Học thuyết pháp trị
Học thuyết Pháp trị của phái pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều
thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại,
Thương Ương và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Hàn Phi đã tiếp thu những điểm ưu trội của ba trường pháp “Pháp”,

“Thuật”, “Thế” để xây dựng và phát triển một hệ thống Pháp trị tương đối hoàn
chỉnh. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu đem lại hòa bình, ổn định,công bằng,
dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây
dựng và thực thi pháp luật như pháp luật phải nghiêm minh, không phân biệt
sang hèn... Học thuyết của Hàn Phi được gọi là “học thuyết của đế vương”.
II. NỘI DUNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ TỚI THỂ
CHẾ NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM
Hàn Phi đã tập trung thể hiện nội dung của tư tưởng Pháp trị thông qua
ba chủ điểm : Pháp, Thuật và Thế.Qua đó lần đầu tiên ông đã nêu rõ mối quan
hệ qua lại, tác động lẫn nhau, thống nhất giữa Pháp-Thuật-Thế:
1. Pháp
a. Nội dung
Hàn Phi cho rằng “Pháp”, “Thế”, “Thuật” là ba yếu tố thống nhất không
thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, “Pháp” là chính
sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; “Thế” là công cụ, phương tiện tạo nên
sức mạnh còn “Thuật” là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính
sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. Nói về “Pháp”, Hàn Phi
Tử cho rằng “Pháp” là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay phạt đều
2


được dân tin chắc là thi hành, thưởng người giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp,
như vậy bề tôi sẽ theo pháp. Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn phi là
thưởng và phạt và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính
quyền. Ông cho rằng cần phải thực hiện cả hai mặt khuyến khích và răn đe
thông qua thưởng và phạt. Bởi vì “thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho dân
làm, dân mới mau mắn mà làm, phạt mà nặng thì điều mình ghét và cấm đoán,
dân mới mau mắn mà tránh. Cùng với đó, Hàn phi còn đưa ra chủ trương mọi
người đều bình đẳng trước Pháp luật. Như vậy, “Pháp” thật sự là tiêu chuẩn
khách quan để phân định danh phận, phải trái, tốt xấu, thiện ác sẽ làm cho nhân

tâm và vạn sự đều quy về một mối, “Pháp” trở thành cái gốc của thiên hạ.
b. Ảnh hưởng
Để làm rõ hơn nội dung này, nhóm chúng em xin đi sâu vào pháp luật
giai đoạn từ thế kỉ X đến XIII.
Pháp luật thế kỉ X là nền pháp luật sơ khai của nước tự chủ, còn đơn
giản, sơ sài và phiếm diện. Tuy nhiên, thời kì này đã có pháp luật thành văn và
một số tập quán chính trị, nhưng chúng chủ yếu xác lập và điều chỉnh một số
lĩnh vực trọng yếu, cấp bách như quan chế, quân sự; còn trong các quan hệ về
ruộng đất, hôn nhân và gia đình…thì chủ yếu sống theo lệ.
Sang đến thời kì Lý - Trần - Hồ, pháp luật thời kì này ngày càng hoàn
thiện, ổn định. Thời Lý, năm 1042, vua Lý Thái Tông cho ban hành bộ Hình
thư - đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, đánh dấu một thành tựu to
lớn trong lịch sử pháp luật Đại Việt. Dưới triều Trần, năm1230, Trần Thái Tông
"soạn sách Quốc triều hình Luật, khảo định các lệ đời trước để làm" và một số
văn bản pháp luật như Quốc triều thông chế, Quốc triều thường lễ... Đến thời
Hồ, "Hán Thượng định quan chế và hình luật của nước Đại Ngu" năm 1401.
Ngoài ra, các vua Lý, Trần còn ban hành nhiều đạo chiếu, lệnh…để điều chỉnh
các mối quan hệ trong xã hội. Có thể nói, các vương triều Lý - Trần - Hồ đã tiếp
thu tư tưởng của Hàn Phi Tử, coi pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại
hòa bình, ổn định và công bằng, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị trừng
phạt theo hệ thống Ngũ hình. Tuy nhiên, pháp luật thời kì này còn bộc lộ nhiều
hạn chế như mức hình phạt chưa tương xứng với hành vi và hậu quả của tội
phạm. Theo Phan Huy Chú thì: "hình của nhà Lý thì lỗi ở khoan rộng, hình của
nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc, nhẹ nặng không đúng mức".
Đến thời Lê Sơ, giai đoạn đầu, tuy pháp luật đã được chú trọng nhưng
phải đợi đến đời Lê Thánh Tông mới phát triển rực rỡ. Nhiều luật lệ đã được
ban hành và còn được lưu đến ngày nay. Trong đó nổi bật có hai tập hệ thống
hóa pháp luật là Thiên Nam dư hạ tập và Hồng Đức thiện chính thư. Đặc biệt
bộ Quốc triều hình luật được soạn thảo phần lớn ở triều Lê Thánh Tông. Đây là
một bộ luật tổng hợp, bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành

luật khác nhau như: luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân gia
đình, luật hành chính…điều chỉnh tất cả các mối quan hệ trong xã hội. Quốc
triều hình luật là một thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt
Nam. Nó không chỉ là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật của các triều
đại trước đó, mà còn đối với cả bộ luật được biên soạn vào đầu thế kỷ XIX:
Hoàng Việt luật lệ do Gia Long ban hành năm 1812. Khi nói về luật pháp thời
3


Lê, sử gia lỗi lạc Phan Huy Chú, đã phải khen ngợi: ""thật là cái mẫu mực để trị
nước, cái khuôn phép để buộc dân". Quốc triều hình luật có những quy định
khá rõ ràng về tội phạm và hình phạt, nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực
thi hiệu quả, góp phần tạo nên cơ sở, nền tảng xây dựng nên nhà nước phong
kiến tập quyền thịnh trị triều Lê. Các hình phạt vừa trừng trị tội phạm, vừa răn
đe đe kẻ khác. Tuy nhiên, Bộ luật Hồng Đức cũng thể hiện rất rõ bản chất giai
cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của Bộ luật là bảo vệ vương quyền, địa vị và
quyền lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự đẳng cấp xã hội và gia đình
gia trưởng phong kiến. Bộ luật là sự thể chế hóa tư tưởng chính trị và đạo đức
Nho giáo, bất cứ hành vi nào trái với lễ giáo đều bị pháp luật trừng trị.
Tóm lại, tư tưởng pháp trị ảnh hưởng rất lớn đến thể chế nhà nước phong
kiến Việt Nam; là cơ sở, nền tảng xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền.
2. Thế
a. Nội dung
Cùng với “Pháp”, “Thế” là yếu tố không thể thiếu được trong Pháp trị.
Pháp gia cho rằng muốn luật pháp rõ ràng và minh bạch muốn được dân tuyệt
đối tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có “Thế”. “Thế” trước hết là địa vị, thế
lực, quyền uy của người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. “Thế” có vị trí
quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: “Chỉ có bậc hiền trí không
đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy … Kiệt làm
thiên tử chế ngự thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất

phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp”. “Thế” không
chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước. Để
nâng cao thế của nhà vua, Pháp gia chủ trương nhất nhất mọi thứ đều phải tuân
theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng “Nước của bậc minh
chủ thì lệnh là cái quý nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm. Lời
nói không có hai cách đều quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp cho
nên lời nói và việc làm nếu không đúng với pháp lệnh thì cấm.
b. Ảnh hưởng
“Thế” được thể hiện trong thể chế phong kiến Việt Nam như sau:
*Nhà vua nắm vương quyền: Với địa vị là “Thiên Tử”, đứng dưới một
người mà trên vạn người, thì nhà vua cũng chính là người nắm trong tay toàn
bộ vương quyền của đất nước. Những điều đó được thể hiện ở các điểm sau:
Về mặt lập pháp: vua chính là người duy nhất có quyền đặt ra pháp luật.
Ý chí của nhà vua dưới mọi hình thức đều trở thành pháp luật: Nếu là lời nói thì
mệnh lệnh đó sẽ được sứ giả truyền đi khắp nơi và thực thi (“Vua truyền rằng”
hay “Vua ban rằng”), nếu là bằng văn bản thì trở thành thánh chỉ, thánh ý…
Về mặt hành pháp: vua có toàn quyền bổ nhiệm, thăng giáng, thưởng
phạt, thuyên chuyển, quy định quyền hạn, trách nhiệm, lương bổng đối với
quan lại trong cả nước. Như vậy, nhà vua chính là người đứng đầu nền hành
chính quốc gia, có quyền lực rất lớn.
Về mặt tư pháp: vua chính là người giữ tài phán quyết cao nhất. Thế hiện
ở việc vua là người có quyền quyết định cuối cùng đối với bất cứ một vụ án
nào. Các bản án vua đã xét xử đều không ai có quyền xét xử lại, không được
4


thụ lý các vụ án mà triều vua trước đã xử… Bên cạnh đó, vua là người duy nhất
có quyền đại xá hay đặc xá cho các can phạm.
Về mặt quân sự: Vua chính là người đứng đầu quân đội, là Tổng tư lệnh
quân đội, có quyền bổ nhiệm, bãi miễn các chức trong bộ máy quân sự; ban

hành các chính sách quân sự (nhà Lý - chính sách Ngụ binh ư nông)
Về mặt ngoại giao: Nhà vua là người đại diện hợp pháp duy nhất trong
các quan hệ bang giao. Việc đón tiếp hay cử các sứ thần đi bang giao, ký tên
các hiệp ước… đều phải do nhà vua trực tiếp hay cử người đi thực hiện, không
một cá nhân hay cơ quan nào có quyền hành thay thế được.
Về mặt kinh tế: Nhà vua là người chủ sở hữu tối cao đối với ruộng đất
công của các làng xã trong cả nước, là người duy nhất được phép ban hành các
chính sách kinh tế trong nước (nhà Lê Sơ – chính sách Lộc điền, Quân điền)
* Nhà vua nắm thần quyền:
Trong các lễ nghi tôn giáo, nhà vua luôn là chủ tế. Chỉ duy nhất nhà vua
mới có quyền tế Trời, còn thần dân chỉ được thờ cúng tổ tiên mình và thần
thánh, quỷ thần. Vì quyền tế trời là đặc quyền của nhà vua nên trong lễ tế trời
hàng năm người ta thường gọi là tế Nam Giao.
Nhà vua chính là người đứng đầu bách thần trong cả nước, có quyền
phong chức tước cho thần thánh (bằng các sắc phong thần), điều động thần
thánh (quy định nơi thờ cúng thần thánh), khiển trách bằng cách thủ tiêu bằng
sắc hoặc phá hủy đền thờ…
* Nhà vua có những đặc quyền riêng:
Mọi người không được phạm đến tên huý của vua và người thân thích
của vua .Những gì thuộc về nhà vua đều là cao quý, nên phải dùng những ngôn
từ đặc biệt, các mỹ từ như: Thánh ý, Long thể, Ngọc tỷ, Hoàng bào…Màu vàng
là màu y phục của vua. Quan lại và thần dân cấm không được mặc quần áo màu
vàng, làm trái là bị tội khi quân.Nhà vua có quyền được thần thánh hoá. Như
tương truyền khi mới sinh ra, Lý Thái Tổ toả ra một ánh hào quang rực rỡ, ở hai
lòng bàn chân có hiện hai chữ “Vương”. Và sự ra đời của triều Lý đã được dự
báo từ trước bởi một bài thơ kỳ lạ xuất hiện dưới gốc cây bị sét đánh…
Có thể thấy, với các quyền lực và đặc quyền riêng của nhà vua ở nhà
nước phong kiến Việt Nam đã thể hiện rõ địa vị và quyền lực của người cầm
quyền. Ở mỗi thời kì khác nhau thì quyền lực đó được biểu hiện ở những mặt
khác nhau. Nhưng nhìn chung, nó xuất phát từ sự phù hợp với nhu cầu xã hội;

đảm bảo tuyệt đối vai trò lãnh đạo và quyền lực của những người cầm quyền.
Điều đó là sự thể hiện rõ nét tầm ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị tới thề chế
của nhà nước phong kiến Việt Nam.
3. Thuật
a. Nội dung
Sau “Pháp” và “Thế”, pháp gia rất chú ý đến “Thuật” trong đường lối
pháp trị. “Thuật” trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược… trong việc
tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể “trị quốc bình thiên hạ”. Nhiệm vụ chủ
yếu của “Thuật” là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và
những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và
5


những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy
luật pháp và chế độ chuyên chế. “Thuật còn thể hiện trong “thuật dùng người”.
Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là: “Chính danh”,
“Hình danh”, “Thực danh”. “Thuật” phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm
đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh còn bề tôi
làm ra hình, nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu, mọi
người trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình,
không có ai dám làm trái hay quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao
đúng việc thì vua phải biết dùng “Thuật”. Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua
theo lời mà trao việc, cứ theo việc mà trách công, công xứng việc và việc xứng
lời thì thưởng còn công không xứng việc thì phạt.
b. Ảnh hưởng
Năm 1075, vua Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên để tuyển nhân tài.
Từ đó về sau rất nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã chọn người tài phục vụ
cho quốc gia bằng cách tuyển cử, tiến cử. Đặc biệt với cuộc cải cách của Lê
Thánh Tông: cho phép tôn vinh việc học bằng các cuộc lễ xướng danh, lễ vinh

quy bái tổ và nhất là lệ khắc tên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Miếu (bắt đầu
từ 1442). Đã khuyến kích mọi tầng lớp nhân dân đua nhau học hành để tên tuổi
được ghi vào bảng vàng, để gia môn được vinh dự và làng quê được vinh hiển.
Hay như vua Lê Đại Hành: khi làm vua tỏ rõ là một người chí công vô tư, Ông
giết Phạm Hạp vì tội làm loạn nhưng lại trọng dụng em Hạp dùng làm tướng…
Không chỉ vậy, thuật còn là phương pháp của vua để quản lý bề tôi. Vua
Quang Trung trong quá trình đánh Nam dẹp Bắc cũng phải đối phó với những
tư tưởng ly khai của các tướng lĩnh dưới quyền, song ông luôn có cách xử lý
khôn khéo, bản lĩnh. Biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ
nhưng ông vẫn tận dụng tài năng, mưu lược, sự thông thạo đất Bắc Hà của
Nguyễn Hữu Chỉnh để đánh đổ chúa Trịnh. Chỉ khi Nguyễn Hữu Chỉnh ra mặt
chống Tây Sơn ông mới công khai cử binh đánh bại Nguyễn Hữu Chỉnh. Quang
Trung- Nguyễn Huệ đã áp dụng “thuật” một cách vô cùng tài tình... Cách dùng
“thuật” không phải chỉ biết sai bảo mà còn phải biết cách tận dụng tài năng của
bề tôi; không phải thấy nghi là giết, mà phải điều tra, xem xét mọi việc, chọn
cách xét xử sao cho hợp tình, hợp lý, xử trí một cách khéo léo.
Nhờ áp dụng thuật mà rất nhiều triều đại đã quy tụ nhiều hiền tài giúp đất
nước (ví dụ thời vua Lê Thánh Tông có Ngô Sỹ Liên, Lương Thế Vinh…).
Nhưng bên cạnh đó, có những triều đại, vua chưa áp dụng được thuật, chưa
trọng dụng được người tài, làm tổn thất cho quốc gia, dân tộc. Lịch sử đã cho
thấy rằng: những vị vua anh minh là những người biết trọng dụng người tài, là
người biết quản lý bề tôi- biết dụng “thuật”. Nhờ vậy, đất nước khi họ nắm
quyền luôn phồn vinh, thịnh trị. Từ đó ta thấy: ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị,
mà ở đây là thuật, đến thể chế nhà nước phong kiến Việt Nam là rất lớn.
KẾT LUẬN
Ra đời cách đây trên hai nghìn năm, mặc dù có nhiều hạn do bản chất
giai cấp nhưng học thuyết Pháp trị của Trung Quốc vẫn toát lên nhiều giá trị tư
tưởng quý báu. Để lại bài học cho Việt Nam trong việc kết hợp linh hoạt giữa
Pháp Thế và Thuật .
6



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2002
2. TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI, www.vientriethoc.com.vn, Nguyễn
Tài Đông,
/>=&vientriet=articles_deltails
3,
4, PHÁP TRỊ, , Lê Giang,
/>
7



×