Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

8đ BT nhóm tháng 1 luật tài chính VN tìm hiểu về tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về chi ngân sách nhà nước năm 2012 và đưa ra ý kiến đán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.44 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
NỘI DUNG
1, Cơ Sở Lí Luận.
1.1.
Các khái niệm
1.2.
Các quy định của pháp luật hiện hành về ngân sách nhà nước và chi
ngân sách nhà nước.
2. Tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về chi Ngân Sách Nhà Nước
năm 2012
2.1 Thực trạng trong việc tuân thủ quy định về các khoản chi cụ thể trong
NSNN năm 2012
2.2. Thực trạng trong việc tuân thủ pháp luật trong điều kiện chi ngân sách
nhà nước năm 2012
a. Những kết quả đạt được
b. Những điểm bất cập
2.3. Thực trạng trong việc tuân thủ pháp luật về các phương thức cấp phát

Trang
1
1
1
1
2
4
4
5
5
6
7


9

kinh phí từ ngân sách nhà nước năm 2012
2.4. Thực trạng trong việc tuân thủ pháp luật về chủ thể chịu trách nhiệm

10

chính trong việc chi ngân sách theo từng phương thức cấp phát năm 2012
3. Đánh giá pháp lý của nhóm và một số giải pháp nhằm tăng hiệu quả trong

13
14

việc tuân thủ các quy định của pháp luật về chi ngân sách nhà nước.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

ĐẶT VẤN ĐỀ
Chi ngân sách Nhà nước là một bộ phận trong cơ cấu Ngân sách Nhà nước nhằm
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước là nội dung
của chấp hành Ngân sách Nhà nước nên thuộc trách nhiệm và quyền hạn của hệ thống
cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước các cấp. Trong chu trình quản lý chi
NSNN, việc thiết lập một cơ chế kiểm soát chi NSNN khoa học, hợp lý nhằm nâng
cao chất lượng công tác kiểm soát chi NSNN cũng có vai trò quan trọng góp phần
không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính. Một vấn đề

1


quan trọng hiện nay là việc tuân thủ pháp luật về chi ngân sách Nhà nước. Vậy, vấn

đề này đạt hiệu quả thế nào? Nhóm chúng em xin được làm rõ hơn với đề tài: “Tìm
hiểu về tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về chi ngân sách nhà nước
năm 2012 và đưa ra ý kiến đánh giá pháp lý của nhóm thực hiện”.

NỘI DUNG
1, Cơ sở lý luận
1.1. Các khái niệm
Ngân sách Nhà nước (NSNN): Điều 1 Luật ngân sách Nhà nước 2002 đã định nghĩa:
“Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Chi ngân sách Nhà nước: Khoản 2 Điều 2 Luật ngân sách Nhà nước cũng chỉ ra rằng:
“Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà
nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.”
Từ việc liệt kê các khoản chi như trên, ta có thể hiểu một cách khá đầy đủ những
nội dung chi cơ bản, mang tính then chốt cho việc đảm bảo các hoạt động của bộ máy
nhà nước, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong các lĩnh vực khác
nhau.
Tóm lại, chi ngân sách nhà nước là phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước theo dự toán ngân sách đã được chủ thể quyền lực quyết định nhằm duy trì sự
hoạt động của bộ máy nhà nước và đảm bảo nhà nước thực hiện được các chức năng
của mình.
Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước:
+ Chi ngân sách nhà nước chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch
chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết
định. Theo Điều 15 Luật ngân sách nhà nước năm 2002, Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền quyết định về tổng số chi, cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản chi
ngân sách nhà nước và quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Điều 25 Luật ngân


2


sách nhà nước 2002 giao cho hội đồng nhân dân các cấp quyền quyết định phân bổ
ngân sách cấp mình. Mọi hoạt động chi ngân sách phải được thực hiện trên cơ sở các
quyết định của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
+ Chi ngân sách nhà nước nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài chính cho sự
vận hành của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của mình. Như vậy, bên cạnh việc chịu ảnh hưởng của kết quả thu ngân
sách nhà nước, mức độ và phạm vi chi ngân sách nhà nước còn phụ thuộc vào quy mô
của bộ máy nhà nước cũng như tùy thuộc vào các chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước
đảm nhiệm
+ Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể:
Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lí, cấp phát, thanh toán các
khoản chi ngân sách nhà nước.
Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Đây là nhóm chủ thể được hưởng kinh
phí từ ngân sách nhà nước để trang trải các chi phí trong quá trình thực hiện hoạt
động của mình.
1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về NSNN và chi NSNN
* Các điều kiện về chi ngân sách nhà nước:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thì chi
Ngân sách nhà nước chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
“a) Đã có trong dự toán ngân sách được giao, trừ trường hợp quy định tại Điều 52
và Điều 59 của luật này;
b) Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
c) Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết
định chi.
Ngoài các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều này, đối với những khoản chi cho
công việc cần phải đấu thầu thì còn phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp

luật về đấu thầu.”
Khoản chi dự định thực hiện phải được ghi nhận trong dự toán NSNN phân bổ
cho các đơn vị nhận kinh phí.

3


+ Khoản cho phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định.
+ Các khoản chi được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy
quyền quyết định chi. Điều này có nghĩa chỉ người đại diện theo pháp luật và người
đại diện theo ủy quyền mới được phép quyết định chi.
Tóm lại, pháp luật quy định cụ thể điều kiện chi NSNN đã tạo điều kiện cho các
đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính, cơ quan kho bạc có đủ căn cứ pháp lý để
chấp hành chi.Trường hợp đề nghị các đơn vị sử dụng ngân sách không đáp ứng các
điều kiện nêu trên cơ quan kho bạc nhà nướcđược quyền từ chối chi trả. Trường hợp
khi đã có đủ điều kiện chi và không có lý do chính đáng, đơn vị sử dụng ngân sách
nhà nước có quyền khiếu nại nếu lệnh chi bị từ chối.
* Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước
Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước là việc các cơ quan có thẩm quyền thực hiện
thẩm định, kiểm tra, soát xét và đánh giá tính hợp pháp, hợp lí của các khoản chi.
 Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành,
các địa phương.
Cụ thể:
+ Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương lập dự toán chi NSNN hằng
năm gửi cơ quan tài chính phân phối hạn mức kinh phí quý cho các đơn vị trực thuộc,
hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc sử dụng ngân sách và xét duyệt báo cáo quyết toán
chi NSNN của các đơn vị trực thuộc, tổng hợp và lập báo cáo quyết toán NSNN của
cơ quan mình để báo cáo cơ quan tài chính.
+ Cơ quan tài chính lập và tổng hợp dự toán chi NSNN của các bộ, ngành, địa

phương; thẩm tra việc phân bổ dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng NSNN;
Kiểm tra mục đích, tính chất của từng khoản chi, kiểm tra điều kiện chi trước khi ra
lệnh xuất quỹ; cơ quan tài chính còn có quyền kiểm tra quá trình cấp phát, phân phối
và sử dụng NSNN của các cơ quan cấp phát và kiểm tra việc sử dụng kinh phí ở các
đơn vị sử dụng NSNN.
+ Kho bạc nhà nước kiểm tra hồ sơ chi của đơn vị sử dụng kinh phí NSNN gồm:
kiểm tra xem khoản chi có thỏa mãn các điều kiện cấp phát, thanh toán theo quy định
của luật NSNN; kiểm tra, đối chiếu các khoản chi với dự toán để đảm bảo các khoản
chi có trong dự toán; kiểm tra đối chiếu các khoản chi với hạn mức kinh phí được cơ

4


quan tài chính hoặc cơ quan có thẩm quyền thong báo; kiểm tra, kiểm soát các hồ sơ,
chứng từ; kiểm tra, kiểm soát các khoản chi đúng định mức, chế độ chi tiêu tài chính
nhà nước. Ngoài ra còn Kiểm tra, kiểm soát các yếu tố hạch toán;kiểm tra con
dấu,chữ ký của người quyết định chi, kế toán trưởng đảm bảo khớp với mẫu dấu, chữ
ký đã đăng ký tại kho bạc nhà nước.
- Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước được tiến hành trong suốt quá trình chi.
+ Kiểm soát trước khi chi (kiểm tra, xác nhận chi) là việc kiểm tra, kiểm soát của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về các điều kiện chi trước khi thực hiện việc thanh
toán, chi trả từ quỹ NSNN cho các đơn vị thụ hưởng kinh phí. Các điều kiện chi:
khoản chi phải có trong dự toán được duyệt đúng chế độ,Tiêu chuẩn, định mức chi
tiêu, đã có lệnh chi, có đầy đủ hồ sơ…
+ Kiểm soát trong khi chi là quá trình kiểm soát việc thanh toán các khoản chi của
NSNN cho các đơn vị thụ hưởng. Kiểm soát trong khi chi phải đảm bảo việc xuất quỹ
NSNN thanh toán trực tiếp cho đối tượng đích thực. Kiểm soát trong khi chi là bước
xác định phương thức cấp phát, thanh toán, đơn vị thụ hưởng NSNN được hưởng
phương thức chi nào.
+ Kiểm soát sau khi chi là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra trình hình

sử dụng kinh phí NSNN của các cơ quan, đơn vị sử dụng NSNN thong qua các báo
cáo kế toán, quyết toán. Là giai đoạn kiểm tra việc chấp hành pháp luật NSNN, kiểm
tra hoạt động quản lý tài chính ở các đơn vị sử dụng ngân sách, tính hợp pháp, hợp lý,
đúng đắn và trung thực trong việc chi tiêu của các đơn vị sử dụng ngân sách. Việc
kiểm soát sau khi chi nhằm chấn chỉnh việc sử dụng kinh phí của các đơn vị sử dụng
ngân sách đảm bảo việc sử dụng đúng mục đích đồng thời ngăn chặn tham ô, lãng phí
làm thất thoát tài sản của nhà nước.
- Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước được tiến hành trong quá trình hạch toán kế
toán và báo cáo chi Ngân sách nhà nước.
Căn cứ vào chế độ hạch toán nhà nước hiện hành Kho bạc nhà nước tổ chức thực
hiện hạch toán kế toán chi NSNN.
Định kỳ tháng, quý, năm các đơn vị sử dụng NSNN lập báo cáo tình hình thực
hiện dự toán chi ngân sách đã được giao có xác nhận của Kho bạc nhà nước nơi giao
dịch để gửi cơ quan chủ quản tổng hợp gửi cơ quan tài chính đồng cấp.

5


Kho bạc nhà nước cũng lập báo cáo chi NSNN theo định kỳ quỹ, tháng, năm gửi
cơ quan tài chính đồng cấp và Kho bạc nhà nước cấp trên. Kho bạc nhà nước trung
ương sẽ tổng hợp báo cáo chi NSNN gửi bộ tài chính.
Thông qua việc hạch toán kế toán chi NSNN việc xác nhận và báo cáo thực hiện
dự toán chi của các đơn vị sử dụng ngân sách cũng như thong qua việc lập báo cáo
chi NSNN, Kho bạc nhà nước có thể tiến hành kiểm soát một lần nữa những khoản
cấp phát, thanh toán từ quỹ NSNN. Để đảm bảo tính đúng đắn và hợp pháp báo cáo
chi NSNN còn được kiểm soát lần cuối bởi kiểm toán nhà nước khi các cơ quan này
tiến hành rà soát báo cáo quyết toán NSNN các cấp trước khi trình Quốc hội phê
chuẩn.
2, Tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về chi Ngân Sách Nhà Nước năm
2012

2.1 Thực trạng trong việc tuân thủ quy định về các khoản chi cụ thể trong NSNN.
Căn cứ theo khoản 2, Điều 2, Luật Ngân sách nhà nước thì chi NSNN bao gồm
các khoản chi sau: chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo
đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các
khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu các khoản chi NSNN thể hiện những nhiệm vụ kinh tế, chính trị và xã hội
mà nhà nước phải gánh vác trong từng giai đoạn lịch sử. Đồng thời là căn cứ để đánh
giá tính tích cực, tiến bộ của ngân sách từng quốc gia. Ở Việt Nam, vấn đề này được
thể hiện ở những năm gần đây như sau:
Trong lĩnh vực chi phát triển kinh tế - xã hội: Thông qua các khoản chi Ngân sách
vào lĩnh vực này nhà nước thể hiện vai trò quản lí nền kinh tế đất nước. Trong những
năm gần đây chúng ta thấy rằng Nhà nước ta đã giảm dần chi vào đầu tư phát triển để
dần thu hút sự tham gia của các chủ thể khác vào lĩnh vực này một nhiều hơn, cụ thể
chúng ta đã giữ mức từ 18.7% năm 2010, năm 2011 chiếm 18,52%, đến năm 2012
chiếm 18,13% tổng số chi ngân sách trưng ương mặc dù nền kinh tế của chúng ta
đang trong giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ, tốc độ phát triển cao (giữ mức 7% - 8%
trong gần 10 năm qua) điều đó có thể cho thấy được mặc dù yêu cầu đầu tư của nền
kinh tế rất lớn nhưng với việc thực hiện chính sách cải cách chúng ta đã thu hút sự
đầu tư của các chủ thể khác vào đầu tư phát triển từ đó giảm bớt một phần ngân sách
nước nước. Đặc biệt trong một số lĩnh vực như chi đầu tư xây dựng cơ bản, là một

6


lĩnh vực quan trọng nhất, chiếm tỷ lệ chi nhiều nhất trong đầu tư phát triển chúng ta
đã giảm được mức chi trong lĩnh vực này từ 17.3% năm 2010 xuống còn 16.97% năm
2011,đến năm 2012 chiếm 17.01%. Chi vào việc bù chênh lệch lãi xuất tín dụng nhà
nước từ 0,99% năm 2010 đến 1.057% năm 2011 đến năm 2012 giảm xuống còn
0.77%...
Chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước.

Trong những năm qua chúng ta đã tăng cường chi ngân sách cho quốc phòng an ninh
nhằm thực hiện những biện pháp bảo vệ, củng cố nền c hính trị, kinh tế quốc gia, chi
quốc phòng 11.53% năm 2010, năm 2012 ngân sách chi cho quốc phòng khoảng 3.1
tỉ USD, tăng hơn 35% so với năm 2011.
Chi trả nợ Nhà nước. Theo bảng thống kê chúng ta thấy được rằng trong những năm
gần đây khoản chi trả nợ tăng từ 18.73% năm 2010 lên 19.98% năm 2011 và giảm
xuống còn 18.79% năm 2012. Như vậy, Chính phủ ta sử dụng biện pháp chi trả nợ đã
góp một phần không nhỏ để cân đối thu, chi ngân sách.
2.2 Thực trạng trong việc tuân thủ pháp luật trong điều kiện chi ngân sách nhà
nước
* Những kết quả đạt được:
Nhìn chung, việc chi ngân sách nhà nước đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể
trong những năm vừa qua.
Qua bản báo cáo đánh giá tình hình thực hiện NSNN 2012, hoạt động chi NSNN
đã tương đối đảm bảo được các điều kiện cơ bản của chi NSNN.
Năm 2012, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng tình hình kinh tế trong
nước chuyển biến tích cực đã tạo điều kiện để tăng thu NSNN. Thu ngân nhà nước
năm 2012 ước đạt 740.500 tỷ đồng, vượt 12,44% so với năm 2011, và đạt tỷ lệ động
viên vào NSNN là 26%. Tổng chi cân đối NSNN ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4%
so với dự toán và tăng 9% so với thực hiện năm 2009. Bội chi ngân sách năm 2012
ước khoảng 140.200 tỷ đồng, bằng khoảng 4.8% GDP, giảm so với năm 2011 (5.3%)
và năm 2011(6.2%) và cũng giảm so với kế hoạch đề ra (6,2%).
Chi NSNN đã từng bước được cơ cấu lại theo hướng xóa bỏ bao cấp, thực hiện
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng cho đầu tư phát triển xã hội và cơ sở hạ tầng,
phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn,
bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực quản lý, đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết

7



kiệm và đạt hiệu quả cao. Ví dụ, theo số liệu thống kê thì năm 2012 bội chi ngân sách
đã giảm từ 5.3% xuống 4.8%...Đó là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh
nền kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm.
Đến năm 2012 tổng chi cân đối ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm 2012 là
2.144.354 triệu đồng, đạt 42,3% dự toán năm và tăng 22,9% so cùng kỳ. Trong đó,
chi ngân sách tỉnh 898.434 triệu đồng và ngân sách huyện, thị xã, thành phố
1.245.820 triệu đồng. Việc điều hành chi ngân sách của các cấp chính quyền địa
phương trong 6 tháng đầu năm đã thực hiện theo hướng triệt để tiết kiệm trong khả
năng cân đối nguồn thu của địa phương và bám sát dự toán HĐND giao đầu năm.
Trong đó: chi đầu tư phát triển 391.554 triệu đồng, chi thường xuyên 1.573.300 triệu
đồng, chi theo mục tiêu 179.500 triệu đồng…
b, Những hạn chế
Dù đạt được những kết quả như đã nêu trên, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại những
điểm bất cập như tình trạng bội chi NSNN, thất thoát NSNN.
Tình trạng bội chi là vấn đề đáng quan ngại. Chính Ủy ban Kinh tế - Ngân sách
đã thừa nhận, dự toán chi ngân sách chưa được thực hiện nghiêm nên hiệu quả thấp.
Ngoài ra, tình hình giải ngân xây dựng cơ bản cũng được tiến hành rất chậm. Lý do
cho tình trạng này là trong điều hành NSNN đã phát sinh một số khoản chưa có
nguồn thanh toán. Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội cũng nhận định, Chính phủ
đã kiên quyết trong quản lý NSNN, hạn chế thất thoát lãng phí nhưng việc quản lý chi
theo dự toán còn chưa được coi trọng. Tổng cục Thống kê vừa công bố con số không
mấy sáng sủa về thu - chi ngân sách nhà nước (NSNN) ước thực hiện từ đầu năm đến
15.10.2012. Theo cơ quan này, do tình hình khó khăn chung của cả nền kinh tế, thu
nội địa và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, dầu thô chỉ đạt dưới 70% dự toán, trong
khi đó chi ngân sách đạt 75,1% dự toán năm. Điều đáng ngại, bội chi ngân sách ước
155.000 tỉ đồng, vượt hơn 10,7% kế hoạch bội chi cả năm 2012.
Theo Ủy ban Tài chính ngân sách (TCNS), thu ngân sách tính đến hết tháng
9.2012 vẫn chủ yếu phụ thuộc vào tài nguyên (dầu khí), còn thu nội địa và thu cân đối
xuất nhập khẩu giảm mạnh (tổng số giảm 25.500 tỉ đồng). Nếu không có dầu thô tăng
giá bù đắp chắc chắn thu ngân sách sẽ không đạt được như dự toán. Hình ảnh này

hoàn toàn trái ngược với những năm trước đó khi nguồn thu luôn vượt dự toán rất
cao.

8


Ngoài ra chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN còn thiếu, chưa tương xứng
với tình hình thực tế, gây khó khăn trong việc cấp phát, kiểm tra, kiểm soát trong chi
NSNN.
Bên cạnh đó vẫn còn sự lỏng lẻo trong kỉ luật tài chính ,thiếu nghiêm túc trong
chi tiêu,đây là một vấn đề nổi cộm và đáng lưu tâm. Kể từ đầu năm đến nay, hệ thống
Kho bạc nhà nước phát hiện 39.800 khoản chi sai, 18.400 đơn vị chưa chấp hành
đúng thủ tục chi tiêu theo chế độ quy định. Tình trạng này biểu hiện rõ nhất trong chi
thường xuyên, đặc biệt chi cho lễ hội, khánh tiết, hội họp, đi công tác nước ngoài…
Khi mà nguồn lực hạn chế, còn nhu cầu “vô biên” thì sự thiếu kỷ luật, thiếu giám sát
chặt chẽ sẽ dẫn tới hành vi “vung tay quá trán”, tiêu xài hoang phí, lạm chi
Vấn đề sử dụng vốn và tài sản tại các doanh nghiệp Nhà nước cũng còn hạn chế.
Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại ở mức cao ảnh hưởng không thuận tới
sự phát triển bền vững nền kinh tế.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau của sự tồn tại trên như: Các đơn vị sử dụng
ngân sách khi nhận được nguồn kinh phí chưa quan tâm đúng mức đến thực tiễn
nhiệm vụ được giao và luôn tìm cách để nâng cao dự toán chỉ để có thể sử dụng kinh
phí một cách thoải mái…. Quy mô của nền kinh tế cũng có tác động nhất định đến
việc đảm bảo điều kiện chi NSNN, khi quy mô nền kinh tế tăng dần lên, nhu cầu tăng
chi để thúc đẩy phát triển kinh tế đang đặt ra rất cấp bách, từ đó gây sức ép căng
thẳng cho NSNN, quy mô ngân sách cũng phải lớn lên và tiềm ẩn những rủi ro trong
các khoản chi NSNN như tình trạng thất thoát, lãng phí, tham nhũng…
2.3. Thực trạng trong việc tuân thủ pháp luật về các phương thức cấp phát kinh
phí từ ngân sách nhà nước.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có hai phương thức , đó là phương thức

cấp phát theo dự toán kinh phí và phương thức cấp phát bằng lệnh chi tiền.
• Phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí: là phương thức áp dụng đối với khoản
chi mà cơ quan tài chính không cấp phát trực tiếp. Phương thúc này được áp dụng cho
chi thường xuyên của các đối tượng thường xuyên sử dụng kinh phí từ NSNN để thực
hiện nhiệm vụ được giao. Khi có nhu cầu thực tế, đại diện hợp pháp của đơn vị sử
dụng ngân sách phát hành giấy rút dự toán NSNN cùng các chứng từ hợp pháp, yêu
cầu kho bạc quản lí tài khoản thanh toán. Kho bạc nhà nước thực hiện chi trả theo
đúng mục chi thực tế sau khi đã kiểm tra các điều kiện và quy định.

9


Ưu điểm của phương thức này là tạo điều kiện cho kho bạc Nhà nước dễ dàng
chủ động trong quá trình kiểm soát chi ngân sách, chủ động sử dụng nguồn kinh phí
với hiệu suất cao nhất.Tuy nhiên hạn chế là đơn vị sử dụng ngân sách bị chi phối về
tính chủ động trong quá trình sử dụng kinh phí, có thể thực hiện hành vi tiêu cực; cần
phải loại trừ.
• Phương thức cấp phát bằng lệnh chi tiền: phương thức này áp dụng đối với những
khoản chỉ do cơ quan tài chính cấp phát trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân sách. Lệnh
chi tiền quyết định chỉ do cơ quan tài chính phát hành, gửi kho bạc nhà nước, yêu cầu
kho bạc chi trả , thanh toán một số tiền cho đơn vị sử dụng ngân sách theo đúng nội
dung của lệnh chi. Nhận được lệnh chi hợp lệ, kho bạc xuất quỹ cho đơn vị sử dụng
ngân sách. Đơn vị thụ hưởng ngân sách toàn quyến sử dụng nguồn kinh phí đã được
chuyển giao. Phương thức này có ưu điểm là tạo sự chủ động tối đa cho đơn vị thụ
hưởng, nâng cao trách nhiệm của các đơn vị này, đồng thời gắn trách nhiệm trực tiếp
của các cơ quan tài chính vào quá trình cấp phát. Bên cạnh đó sự tham gia của kho
bạc nhà nước cũng có ý nghĩa nhất định.
Tổ chức quản lý chi ngân sách Nhà nước cũng còn nhiều sơ hở. Cơ chế chuyển
vốn xây dựng cơ bản thông qua Ngân hàng đầu tư phát triển bằng phương thức cấp
phát lệnh chi tiền và cấp phát kinh phí hành chính sự nghiệp thông qua kho bạc bằng

phương thức hạn mức kinh phí không theo nguyên tắc thanh toán trực tiếp. Khi đã
nhận vốn hoặc đã có hạn mức, đơn vị kiến thiết hoặc đơn vị dự toán tự tổ chức việc
chi trả, thanh toán, thoát ly sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Ngân hàng, Tài
chính và Kho bạc
• Phương thức cấp phát theo hạn mức kinh phí: đã bám sát dự toán chi NSNN được
duyệt cả về tổng số cũng như cơ cấu các mục chi, tạo điều kiện thuận lợi cho kho bạc
nhà nước, cơ quan tài chính trong việc kiểm soát chi.
• Phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền: chỉ áp dụng đối với các khoản chi đột
xuất, không kế hoạch hóa được hoặc áp dụng đối với những đơn vị ít có quan hệ với
NSNN, song trong cả một thời gian khá dài, hình thức cấp phát này được áp dụng cho
hầu hết các dự án đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình mục tiêu.
Hiện nay với xu hướng phân công nhiệm vụ rõ ràng, chuẩn hóa quy trình ngân
sách, điều hành ngân sách theo luật; đặc biệt trong điều kiệu hội nhập tài chính quốc
tế và khu vực ở lĩnh vực tài chính công, để thích ứng với những chuẩn mực quản lý

10


NSNN của các nước thì việc áp dụng các hình thức cấp phát trên cần nghiên cứu và
sửa đổi lại cho phù hợp.
2.4. Thực trạng trong việc tuân thủ pháp luật về chủ thể chịu trách nhiệm chính
trong việc chi ngân sách theo từng phương thức cấp phát
* Phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí Ngân sách Nhà nước:
Đối với phương thức này thì trách nhiệm chủ yếu thuộc về Kho bạc Nhà nước
(KBNN). KBNN chịu trách nhiệm về kiểm tra, kiểm soát chi bảo đảm khoản chi phải
đúng mục đích, đối tượng theo dự toán được duyệt. Chi đúng chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; các điều kiện chi khác theo
quy định. Có quyền và trách nhiệm tạm đình chỉ, từ chối chi trả, thanh toán các khoản
chi không bảo đảm các điều kiện chi theo quy định và thông báo cho đơn vị sử dụng
ngân sách nhà nước biết;

Theo báo cáo của KBNN, trong 11 tháng đầu năm 2012, hệ thống KBNN đã thực
hiện kiểm soát chi ước đạt 566.850 tỉ đồng chi thường xuyên của NSNN. Thông qua
công tác kiểm soát chi NSNN, các đơn vị KBNN đã phát hiện trên 51.800 khoản chi
của 23.600 lượt đơn vị chưa chấp hành đúng thủ tục, chế độ quy định và đã yêu cầu
đơn vị bổ sung các thủ tục cần thiết; tạm dừng chưa thanh toán với số tiền trên 736 tỷ
đồng chi không đúng chế độ quy định (trong đó số thực từ chối thanh toán là 31 tỷ
đồng). Riêng trong tháng 11/2012, hệ thống KBNN đã thực hiện kiểm soát ước đạt
65.000 tỷ đồng chi thường cuyên của ngân sách nhà nước qua KBNN. Thông qua
công tác kiểm soát chi NSNN, các đơn vị KBNN đã phát hiện 5.000 khoản chi của
2.200 lượt đơn vị chưa chấp hành đúng thủ tục, chế độ quy định và đã yêu cầu đơn vị
bổ sung các thủ tục cần thiết; từ chối chưa thanh toán với số tiền khoảng 80 tỷ đồng
chưa đủ điều kiện chi theo quy định, trong đó từ chối thực 1 tỷ đồng.
* Phương thức cấp phát bằng lệnh chi tiền:
Đối với phương thức này thì cơ quan tài chính có trách nhiệm chính trong việc
kiểm tra nội dung, tính chất khoản chi, bảo đảm lệnh chi tiền chắc chắn có đủ điều
kiện chi NS. KBNN chỉ xuất quỹ thanh toán cho đơn vị sử dụng theo yêu cầu của cơ
quan tài chính. Trong thực tế đã xảy ra tình trạng “lạm phát” hình thức chi bằng lệnh
chi tiền cho một số khoản chi khác, từ việc mua xe ô tô cho đến cấp kinh phí trợ cấp,
hỗ trợ, ủng hộ … dẫn đến những trường hợp hiện nay cấp bằng lệnh chi tiền không có
cơ quan kiểm soát hoặc cơ quan tài chính kiểm soát trước mà không kiểm soát quá
trình xuất quỹ NSNN.

11


3, Đánh giá pháp lý của nhóm
Đánh giá chung, trong điều kiện phát sinh nhiều khó khăn và thách thức, dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Đảng và Quốc hội, sự điều hành quyết liệt
của Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của các ngành, địa phương và cộng đồng doanh
nghiệp, các hoạt động tài chính - NSNN năm 2012 cơ bản hoàn thành dự toán Quốc

hội quyết định, trong đó: thu ngân sách thực hiện đạt dự toán; chi ngân sách được
điều hành theo đúng chủ trương thắt chặt chính sách tài khoá để kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội; bội chi NSNN giữ ở mức dự toán
đầu năm là 4,8% GDP. thường xuyên của ngân sách được cân đối từ tổng số thu thuế,
phí và lệ phí. Chúng ta cũng đang từng bước hoàn thiện chế độ NSNN, đổi mới quản
lí tài chính trong các đơn vị sử dụng kinh phí từ NSNN…Công tác kiểm tra việc thực
hiện pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lí và sử dụng NSNN
được tăng cường, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN. Bối cảnh kinh tế
trong nước và quốc tế nói trên đã có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thu, chi NSNN.
Việc điều hành ngân sách năm 2012 đã được thực hiện linh hoạt theo hướng hỗ trợ,
xử lý khó khăn cho doanh nghiệp, và khơi thông các thị trường thông qua miễn, giảm,
giãn thuế. Bên cạnh đó, Chính phủ tiếp tục điều hành ngân sách chi chặt chẽ, giữ mức
bội chi theo dự toán Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó việc tuân thủ pháp luật về chi
ngân sách cũng còn những hạn chế nhất định. Việc phân bổ và sử dụng NSNN còn
nhiều bất cập, hiệu quả chi ngân sách đã được nâng lên nhưng chưa cao, vẫn còn hiện
tượng thất thoát, lãng phí trong sử dụng kinh phí từ NSNN. Chi đầu tư xây dựng cơ
bản còn phân tán, công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, lập dự án chưa được chú trọng
nên chất lượng dự án không cao, việc thẩm định và quyết định đầu tư còn chậm dẫn
đến tình trạng vốn chờ công trình, gây lãng phí trong đầu tư.
*Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên:
Các quy định về chế độ, tiêu chuẩn định mức còn chưa đc đầy đủ, rõ ràng, đc
điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau, nhiều tiêu chuẩn, định mức còn lạc hậu so
với thực tế cũng gây khó khăn cho đơn vị sử dụng NSNN trong việc chi tiêu cũng
như kiểm soát chi. Ngoài ra, một số đơn vi sử dụng ngân sách chưa chấp hành đúng
và đầy đủ các thủ tục chi ngân sách nhà nước do thủ trưởng đơn vị còn chưa sâu sát
trong việc kiểm soát mục tiêu của đơn vị, cá biệt cũng có những trường hợp lợi dụng
khai khống hồ sơ, chứng từ chi ngân sách. Và một nguyên nhân nữa dẫn tới tình trạng

12



sai sót của các đơn vị trong chi ngân sách nhà nước là kho bạc nhà nước chưa có chế
tài xử lý vi phạm, việc xử lý vi pham của kho bạc nhà nước chỉ dừng lại ở việc từ
chối thanh toán và trả lại hồ sơ, chứng từ cho đơn vị…
Các thủ tục về đấu thầu mua sắm, đầu từ còn phức tạp liên quan tới nhiều cơ
quan, tổ chức có chức năng quản lý nên k ít các đơn vị sử dụng ngân sách k nắm vững
đc các thủ tục đó dấn tới trong quá trình triển khai k thực hiện đủ thủ tục chi ngân
sách theo quy định của PL. Cùng với đó, môt số đơn vị ( đặc biệt là những đơn vị
thuộc khối ngân sách xã) hoạt động ở vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, do trình
độ cán bộ kế toàn vẫn còn nhiều hạn chế, đa phần đều chưa đáp ứng được yêu cẩu
quản lý nên trong quá trình chuẩn bị hồ sơ, chứng từ chi tiêu còn nhiều sai sót, lúng
túng.
- Dự toán chi đầu tư phát triển còn bất cập do công tác lập kế hoạch chi đầu tư còn
nhiều bất cập, tồn tại nhiều hạn chế ở các văn bản pháp lý về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực này còn nhiều thiếu sót và chưa đồng bộ. Dự toán chi thường xuyên thiếu
tích cực và phần nào đó còn mang tính chủ quan
- Sự thiếu đồng bộ, mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật về ngân sách nói
chung và chi tiêu ngân sách nói riêng, gây khó khăn cho việc áp dụng.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá về hoạt động chi NSNN chưa được
triển khai tốt ở các cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp và địa phương.
Qua đó, nhóm đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của việc
tuân thủ pháp luật về chi ngân sách nhà nước:
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, khi nguồn thu ngân sách còn nhiều
hạn chế thì việc kiểm soát chặt chẽ các khoản chi nhằm đảm bảo các khoản chi được
sử dụng đúng, tiết kiệm và hiệu quả là rất quan trọng. Và việc làm sao để việc tuân
thủ pháp luật về chi NSNN được thực hiện một cách hiệu quả nhất cũng là một vấn đề
cần được quan tâm. Dưới đây là một số giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của
việc tuân thủ pháp luật về chi NSNN:
- Hoàn thiện pháp luật về quy trình lập, chấp hành, quyết toán NSNN. Đây là ba khâu
quan trọng trong quá trình NSNN. Luật Ngân sách nhà nước đã có những quy định

khá rõ ràng về thời hạn, yêu cầu, nội dung và các trình tự, thủ tục lập dự toán NSNN.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn bộc lộ nhiều bất cập đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện pháp

13


luật về quy trình lập dự toán NSNN. Điều này đảm bảo cho điều kiện thứ nhất của chi
NSNN, có một bản dự toán ngân sách với những khoản chi hợp lý, phù hợp với điều
kiện, định hướng phát triển kinh tế -xã hội.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp lập dự toán ngân sách để tránh tình trạng
thẩm quyền nơi thì thiếu nơi thì chồng chéo.
- Đối với chủ thể chịu trách nhiệm chính trong việc chi ngân sách theo từng phương
thức cấp phát, cần quy định rõ phạm vi và đối tượng áp dụng; đồng thời, từng bước
nghiên cứu chuyển các khoản chi hiện được cấp phát bằng lệnh chi tiền sang cấp phát
theo dự toán được duyệt. Mặt khác, cũng cần phân biệt rõ việc cơ quan sử dụng lệnh
chi tiền trong việc cấp phát kinh phí trực tiếp hay gián tiếp. Nếu sử dụng lệnh chi tiền
để cấp phát kinh phí trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng NSNN thì KBNN sẽ không
thực hiện kiểm soát chi theo quy định của pháp luật. Nếu lệnh chi tiền chỉ đơn thuần
thực hiện chuyển nguồn từ đơn vị cấp trên cho đơn vị cấp dưới trực tiếp chi tiêu thì
KBNN sẽ thực hiện kiểm soát chi khi đơn vị cấp dưới có nhu cầu thanh toán
- Cơ cấu lại các khoản chi NSNN sao cho phù hợp, theo kịp với tình hình kinh tế - xã
hội. Trong những năm gần đây, chi đầu tư có xu hướng tăng. Tuy nhiên chi đầu tư
phát triển kinh tế phải là số chi đầu tư huy động trong toàn xã hội, không thể chỉ lấy
từ NSNN. Nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước thì khoản chi vừa kém hiệu quả, vừa hạn
hẹp. Chi ngân sách phải cần được thực hiện theo quan điểm phải gắn liền với việc xác
định đúng đắn cơ cấu chi tối ưu, có tỷ trọng hợp lý giữa chi đầu tư phát triển với chi
thường xuyên, chi trả nợ, chi dự phòng…
- Cần hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi chặt chẽ để các chủ thể sử dụng ngân sách chấp
hành nghiêm túc các điều kiện chi trong hoạt động chi ngân sách. Có chế tài tương
xứng đối với những đơn vị sử dụng ngân sách không chấp hành tốt các điều kiện chi

NSNN theo luật định.
- Nâng cao mức độ tham gia, kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hoạt động chi
ngân sách để các đơn vị sử dụng ngân sách có ý thức hơn trong việc sử dụng nguồn
vốn được cấp, đảm bảo đủ các điều kiện chi để chi đúng, chi đủ, chi hợp pháp.

14


KẾT LUẬN
Ngân sách Nhà nước là công cụ tài chính quan trọng được Nhà nước sử dụng để
phân phối thu nhập quốc dân. Chức năng phân phối của NSNN được thể hiện trong
quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính để hình thành nên các khoản thu
và các khoản chi của Ngân sách. Trong cơ chế thị trường, yêu cầu đổi mới hoạt động
của NSNN đòi hỏi phải xây dựng mô hình quản lý Ngân sách thích hợp và phù hợp
với thông lệ quốc tế, mô hình này cho phép xác định cơ cấu Ngân sách với nội dung
các khoản thu và chi để đảm bảo sự cân đối của NSNN. Do đó, cần phải tăng cường
triển khai các biện pháp cấp thiết, kiểm soát chặt chẽ hơn nữa, bảo đảm an ninh tài
chính quốc gia.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, Giáo trình “Luật Ngân sách Nhà nước”, NXB Công an Nhân dân, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
2, Bài viết: “Kho bạc từ chối thanh toán trên 736 tỉ đồng chi sai quy định” – (BÁO
ĐIỆN TỬ ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM)

15


3, />4, />c?categoryId=100002587&articleId=10048218

5, />6, />7, />8, />
16



×